Các biến chứng hay gặp sau nút mạch là suy
gan, vỡ u tái phát. Suy gan là biến chứng gây tử
vong hàng đầu sau nút mạch u gan vỡ. Yếu tố làm
tăng tỷ lệ suy gan sau nút đó là huyết khối tĩnh
mạch cửa, trong đó huyết khối hoàn toàn tĩnh mạch
cửa là chống chỉ định của nút mạch. Trong nghiên
cứu tỉ lệ huyết khối tĩnh mạch cửa là 40.9% đây
là một yếu tố tiên lượng xấu, tuy nhiên để hồi sức
được cho bệnh nhân, cần cân nhắc mức độ huyết
khối để lựa chọn chiến lược điều trị phù hợp (4).
Tuy vậy trong nghiên cứu của Kung, báo cáo
tất cả 06 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
vỡ và huyết khối thân chung tĩnh mạch cửa mà từ
chối nút mạch và điều trị bảo tồn chết trong vòng
30 ngày (tỉ lệ tử vong là 100%) (4). Vì vậy với các
bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ kèm
huyết khối tĩnh mạch cửa chúng tôi vẫn quyết định
nút mạch cầm máu trong cấp cứu, có tiên lượng
biến chứng suy gan đi kèm. Trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có 1/22 bệnh nhân (4.5%) tử vong
trong vòng 1 tháng sau điều trị vì suy gan cấp. Đây
là bệnh nhân có khối u gan lớn 12x13cm, có huyết
khối nhánh trái tĩnh mạch cửa và được tiên lượng
tình trạng nặng. Tỉ lệ tử vòng trong vòng 30 ngày
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương
với các nghiên cứu về nút mạch cầm máu cấp cứu
và thấp hơn so với mổ mở trong một vài nghiên cứu
(4,5). Tiên lượng đối với các bệnh nhân có huyết
khối tĩnh mạch cửa không tốt (6/7 bệnh nhân tử vong
trong 6 tháng sau can thiệp có huyết khối tĩnh mạch
cửa). Các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ
thường nhập viện với bệnh ở giai đoạn muộn, tiên
lượng xấu, việc cầm máu cấp cứu và có tỉ lệ tử vong
nội viện thấp là ưu điểm của nút mạch (4).
Nghiên cứu của chúng tôi còn hạn chế: thứ nhất
đây là nghiên cứu hồi cứu, thứ hai là tình trạng ổn định
sau can thiệp của bệnh nhân còn là sự kết hợp của các
yếu tố khác, bao gồm tự cầm máu và hiệu quả của việc
truyền máu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh và kết quả nút mạch cầm máu cấp cứu ung thư biểu mô tế bào gan vỡ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ KẾT QUẢ
NÚT MẠCH CẦM MÁU CẤP CỨU UNG THƯ
BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN VỠ
Evaluate the imaging characteristics of ruptured
hepatocellular carcinoma and the effectiveness of
embolization for controlling hemorrhage
Trần Việt Hùng*, Vũ Hoài Linh*, Lê Thanh Dũng*
*Bệnh viện Hữu nghị
Việt Đức
Objecivets: Evaluate the imaging characteristics of hepatocellular
carcinoma (HCC) ruptured and the effectiveness of transcatheter arterial
embolization for controlling hemorrhage.
Subjects and methods: analyze retrospectively the outcomes
of 22 patients who underwent abdominal CTscanner and urgent
transarterial embolization for spontaneous ruptured HCC during the
period from 01/2014 to 06/2016 in Viet Duc hospital.
Results: Mean tumor size: 83.95mm (longest diameter). 7/22
patients (31.8%) exhibited contrast extravasation on angiography, 2/22
patients (9.1%) exhibited pseudoaneurysm, one patient (4.6%) showed
arterioportal shunt, 12/22 (54.5%) showed no vascular injury. The
embolization materials we used mostly was Spongel in 18/22 patients
(81.8%), histoacryl 4/22 (18.2%). The success rate of embolization in
on angiography is 22/22 (100%).1 patient die in one months after the
procedure due to liver failure.
Conclusion: Large tumors are likely to rupture and active
bleeding injuries are uncommon. Transarterial embolization is a safe
and effective method for controlling spontaneous rupture of HCC.
Key words: angiography, embolization, hepatocellular carcinoma,
large tumors spontaneous rupture.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201862
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát
là ung thư phổ biến thứ 5 trên thế giới với hơn
500.000 ca mới được chẩn đoán mỗi năm. Ung thư
biểu mô tế bào gan có nhiều biến chứng như: suy
gan, chảy máu tiêu hoá, hội chứng Budd-Chiari,
vỡ u. Ung thư gan vỡ là một biến chứng cấp tính
đòi hỏi xử trí cấp cứu và có tỉ lệ tử vong cao, tại
châu Á và châu Phi nơi tỷ lệ mắc ung thư cao thì tỷ
lệ u vỡ là 6.9-14% số ca u gan và là nguyên nhân
chảy máu gan không do chấn thương phổ biến
nhất ở đàn ông. Tuy vậy, tỷ lệ này tương đối thấp
ở châu Âu (1,2).
Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan vỡ gồm
các phương pháp: điều trị bảo tồn, phẫu thuật và
nút mạch đường động mạch (3). Điều trị bảo tồn
áp dụng cho trường hợp huyết động ổn định. Tuy
nhiên một tỷ lệ tử vong do chảy máu lại hoặc chảy
máu tiếp diễn cao. Phẫu thuật có tỷ lệ cầm máu
thành công ngay sau phẫu thuật cao (70-100%),
nhưng tỷ lệ tử vong sau đó còn cao (40-75%) (4).
Nút mạch đường động mạch (Transarterial
Embolization – TAE) là phương pháp hiệu quả, có
tỷ lệ cầm máu cao. Phần lớn các bệnh nhân ung
thư biểu mô tế bào gan vỡ khi u kích thước lớn
trong tình trạng nặng, huyết động không ổn định
nên nút mạch là phương pháp hiệu quả, thích hợp
trong trường hợp bệnh nhân không thể phẫu thuật
được, tỷ lệ tử vong sau 30 ngày thấp hơn so với
phẫu thuật mở (4,5).
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tính
an toàn và hiệu quả điều trị ung thư gan vỡ tự phát
điều trị bằng nút mạch tại bệnh viện Việt Đức.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
1. Đối tượng nghiêncứu
22 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ,
chụp cắt lớp vi tính hoặc trên chụp mạch số hoá xoá
nền có hình ảnh u gan vỡ có chảy máu trong ổ bụng,
chụp mạch và nút mạch từ 1/2014 đến 6/2016.
2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
hồi cứu cắt ngang
3. Phương tiện nghiên cứu: Máy chụp mạch
số hoá xoá nền Speed Heart, máy Philips, máy chụp
cắt lớp vi tính (từ 2 dãy đến 64 dãy), các loại ống
thông 5F, vi ống thông 2.7F, vật liệu nút mạch: lipiodol,
keo sinh học,Gelfoam,thuốc phục vụ cho thủ thuật.
4. Các bước tiến hành quy trình chụp và nút
mạch:
1.1. Chụp CLVT:
Chụp CLVT ổ bụng-tiểu khung gồm 3 thì, thì trước
tiêm để đánh giá máu tụ, dịch máu; thì động mạch: đánh giá
thoát thuốc, các ổ giả phình mạch, thông động tĩnh mạch,
khối u và tính chất ngấm thuốc; thì tĩnh mạch cửa: đánh giá
tính chất thải thuốc của u, huyết khối tĩnh mạch cửa.
4.2. Chụp DSA và nút mạch
- Bước 1: Gây tê tại chỗ, đặt bộ mở thong
động mạch đùi bên phải hoặc trái.
- Bước 2: Chụp động mạch chủ bụng,
động mạch than tạng và động mạch
mạc treo tràng trên.
- Bước 3: Chọn lọc các nhánh động mạch
tổn thương bằng vi ống thong 2.7F.
- Bước 4: Nút mạch cầm máu, sử dụng vật
liệu nút mạch tùy theo tổn thương.
- Bước 5: Chụp kiểm tra đánh giá hiệu quả
cầm máu
- Bước 6: Rút toàn bộ ống thông, bộ mở
thông động mạch, bang ép cầm máu.
1.3. Chỉ tiêu đánh giá:
- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới,
đặc điểm lâm sàng (Mạch, huyết áp, công
thức máu, lượng máu truyền)
- Đặc điểm tổn thương: kích thước khối u,
thoát thuốc, giả phình mạch, thông động
tĩnh mạch, huyết khối tĩnh mạch cửa.
- Hiệu quả nút mạch: vật liệu nút mạch, tỷ lệ
thành công, cầm máu tức thời, tỷ lệ tử vong,
số lượng máu truyền, các chỉ số xét nghiệm.
- Biến chứng sau nút mạch, tỉ lệ sống sau 1
tháng
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
III. KẾT QUẢ NGHIÊNCỨU
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Từtháng 01/2014 đến tháng 06/2016 nhóm nghiên
cứu chúng tôi có 22 bệnh nhân (19 nam, 3 nữ , độ tuổi
từ 26-69 (trung bình 50.5 tuổi) được chẩn đoán ung thư
biểu mô tế bào gan vỡ và chụp mạch và nút mạch cầm
máu cấp cứu.
2. Đặc điểm xét nghiệm
Bảng 1. Công thức máu trước và sau can thiệp
Công thức máu Trước can thiệp Sau can thiệp
Hồng cầu (T/l) 3.01 ± 0.77 3.48 ± 0.37 p < 0.05
Hemoglobin máu (g/dl) 91.5 ± 26.5 105.2 ± 11.1 p < 0.05
3. Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính
Đặc điểm khối u: kích thước chiều lớn nhất khối
u trung bình 83.95 mm, có 9/22 bệnh nhân (40.9%) có
huyết khối tĩnh mạch cửa, trong đó 3 bệnh nhân tắc
hoàn toàn nhánh phân thuỳ trước, 4 bệnh nhân tắc
nhánh phải và 2 bệnh nhân tắc nhánh trái.
Đặc điểm tổn thương mạch máu trên cắt lớp vi
tính: có 14/22 trường hợp (63.6%) không phát hiện tổn
thương mạch, có 6/22 trường hợp (27.3%) có thoát
thuốc thì động mạch, 2/22 trường hợp (9.1%) có giả
phình mạch.
Hình 1. Khối UTBMTBG vỡ có thoát thuốc trên CLVT.
4. Hình ảnh DSA
Bảng 2. Các tổn thương mạch máu trên chụp mạch.
Tổn thương mạch trên chụp mạch Giả phình Thoát thuốc Thông động tĩnh mạch Không phát hiện tổn thương
Số bệnh nhân 2 7 1 12
Tỷ lệ (%) 9.1% 31.8% 4.6% 54.5%
Hình 2. Hình ảnh thoát
thuốc và giả phình
mạch trên chụp mạch.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201864
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Vật liệu nút mạch: Vật liệu nút mạch chủ yếu
được dùng là Spongel 18/22 trường hợp (81.8%), có
kết hợp kèm hoặc không kèm với lipiodol, 4/22 trường
hợp nút có dùng keo sinh học Histoacryl (18.2%).
6. Hiệu quả điều trị
Tỷ lệ nút mạch thành công về mặt kỹ thuật 22/22
trường hợp, không có trường hợp nào nút mạch lần
2. Có 22/22 (100%) huyết động ổn định sau can thiệp
và không thấy chảy máu tái phát sau can thiệp. Lượng
máu truyền trung bình: 969ml.
Trong số 22 bệnh nhân trong nghiên cứu có 1
bệnh nhân tử vong trong vòng 1 tháng sau can thiệp,
7/22 bệnh nhân tử vong trong vòng 6 tháng sau điều
trị, trong số này 6/7 bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch
cửa (huyết khối bán phần).
7. Biến chứng sau can thiệp
Không gặp các biến chứng sớm sau can thiệp: tụ
máu vị trí chọc động mạch đùi, lóc tách thành mạch.
Hội chứng sau nút mạch: sốt thoáng qua hoặc kéo
dài, tăng men gan, hồi phục sau 1-2 tuần, tỉ lệ gặp trong
nghiên cứu là 21/22. Có một bệnh nhân suy gan tiến
triển và tử vong trong vòng 1 tháng sau điều trị.
Không gặp chảy máu tái diễn sau nút mạch,
không có biến chứng áp xe gan hay thuyên tắc mạch
phổi do Lipiodol.
IV. BÀN LUẬN
Chụp cắt lớp vi tính là phương pháp chẩn đoán
hình ảnh có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư biểu
mô tế bào gan vỡ. Đặc điểm khối ung thư gan điển hình
là khối bắt thuốc mạnh thì động mạch và thải thuốc thì
tĩnh mạch, khi khối u vỡ có thể phát hiện dễ dàng máu
cục hoặc dịch máu tăng tỷ trọng tự nhiên (4). Tỉ lệ thấy
được tổn thương mạch máu (chủ yếu là thoát thuốc)
trên cả cắt lớp vi tính và chụp mạch trong nghiên cứu
chúng tôi đều tương đối thấp 6/22 (27.3%) thấy trên cắt
lớp vi tính và 7/22 (31.8%) trên chụp mạch. Điều này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Yang hay nghiên cứu
của Ngan. H (5,6). Cho thấy độ nhạy của thoát thuốc
trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan là không
cao, tuy nhiên độ đặc hiệu của dấu hiệu này là 100%
(5). Trong một số trường hợp có hình ảnh thoát thuốc
trên cắt lớp vi tính nhưng không thấy được thoát thuốc
trên chụp mạch, dựa vào cắt lớp vi tính đa dãy có dựng
hình mạch máu để định hướng nhánh mạch tổn thương
(4). Cần chụp them các nhánh động mạch cấp máu cho
gan sau can thiệp.
Ung thư biểu mô tế bào gan vỡ là biến chứng
không thường gặp, hiện nay chưa có thống nhất trong
y văn về một quy trình lựa chọn vật liệu nút mạch
cầm máu. Theo Kung và cộng sự vật liệu nút mạch
được chuẩn bị gồm xốp gelatin (Spongel) kích thước
3x2x0.1cm cắt ra thành các mảnh nhỏ khoảng 0.5 đến
1 mm, trộn đều trong 6 ml thuốc can quang, tuỳ theo tổn
thương thoát thuốc, giả phình mạch kết hợp trộn thêm
2 ml Lipiodol, dung coils với tổn thương thông động tĩnh
mạch (4).
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi 81,8%
được sử dụng vật liệu nút mạch là Spongel.
Spongel có tác dụng làm tắc cuống mạch tạm
thời, tự tiêu sau 2-4 tuần, nhờ đó mà có thể tiến
hành nút mạch hoá chất các đợt điều trị tiếp theo.
Keo sinh học Histoacryl là vật liệu nút tắc mạch
vĩnh viễn, do vậy nếu nút bằng keo sẽ không còn
cuống mạch để thực hiện các lần nút tiếp theo
nếu có chỉ định. Trong nghiên cứu của chúng tôi
có 03 trường hợp phải dùng vật liệu nút mạch là
keo sinh học do nguy cơ suy gan cao, đồng thời
các cuống mạch khó khăn trong việc cầm máu,
do vậy lựa chọn keo sinh học Histoacryl là để
đảm bảo cầm máu trong cấp cứu. Trong số 3
bệnh nhân này có 02 bệnh nhân có huyết khối
nhánh phải hoặc nhánh trái tĩnh mạch cửa và
tử vong trong vòng 6 tháng sau điều trị.
Chúng tôi có sử dụng Lipiodol có kèm theo
hoá chất để nút tắc các mạch nhỏ hơn đồng thời
kết hợp điều trị khối u trong cùng thì. Tuy nhiên
phương pháp này chỉ áp dụng với các bệnh nhân
chức năng gan còn tốt (Child A), khối u có kích
thước <5cm.
Trong nghiên cứu 22/22 bệnh nhân được nút tắc
hoàn toàn các nhánh mạch, cầm máu tổn thương. Các
bệnh nhân có tình trạng ổn định đến khi ra viện, huyết
áp sau can thiệp là 3.01T/l và 3.48 T/l, hemoglobin
trung bình trước và sau can thiệp là 91.5 mg/dl và 105
mg/dl, cho thấy sự khác biệt trước và sau can thiệp có ý
nghĩa thống kê (p<0.05). Tỉ lệ cầm máu cao cho thấy sự
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 65
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hiệu quả của nút mạch đường động mạch trong kiểm
soát chảy máu do u gan vỡ trong cấp cứu, điều này
cũng được chứng minh trong nhiều nghiên cứu tương
tự của các tác giả nước ngoài (4,7)
Các biến chứng hay gặp sau nút mạch là suy
gan, vỡ u tái phát. Suy gan là biến chứng gây tử
vong hàng đầu sau nút mạch u gan vỡ. Yếu tố làm
tăng tỷ lệ suy gan sau nút đó là huyết khối tĩnh
mạch cửa, trong đó huyết khối hoàn toàn tĩnh mạch
cửa là chống chỉ định của nút mạch. Trong nghiên
cứu tỉ lệ huyết khối tĩnh mạch cửa là 40.9% đây
là một yếu tố tiên lượng xấu, tuy nhiên để hồi sức
được cho bệnh nhân, cần cân nhắc mức độ huyết
khối để lựa chọn chiến lược điều trị phù hợp (4).
Tuy vậy trong nghiên cứu của Kung, báo cáo
tất cả 06 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
vỡ và huyết khối thân chung tĩnh mạch cửa mà từ
chối nút mạch và điều trị bảo tồn chết trong vòng
30 ngày (tỉ lệ tử vong là 100%) (4). Vì vậy với các
bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ kèm
huyết khối tĩnh mạch cửa chúng tôi vẫn quyết định
nút mạch cầm máu trong cấp cứu, có tiên lượng
biến chứng suy gan đi kèm. Trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có 1/22 bệnh nhân (4.5%) tử vong
trong vòng 1 tháng sau điều trị vì suy gan cấp. Đây
là bệnh nhân có khối u gan lớn 12x13cm, có huyết
khối nhánh trái tĩnh mạch cửa và được tiên lượng
tình trạng nặng. Tỉ lệ tử vòng trong vòng 30 ngày
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương
với các nghiên cứu về nút mạch cầm máu cấp cứu
và thấp hơn so với mổ mở trong một vài nghiên cứu
(4,5). Tiên lượng đối với các bệnh nhân có huyết
khối tĩnh mạch cửa không tốt (6/7 bệnh nhân tử vong
trong 6 tháng sau can thiệp có huyết khối tĩnh mạch
cửa). Các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ
thường nhập viện với bệnh ở giai đoạn muộn, tiên
lượng xấu, việc cầm máu cấp cứu và có tỉ lệ tử vong
nội viện thấp là ưu điểm của nút mạch (4).
Nghiên cứu của chúng tôi còn hạn chế: thứ nhất
đây là nghiên cứu hồi cứu, thứ hai là tình trạng ổn định
sau can thiệp của bệnh nhân còn là sự kết hợp của các
yếu tố khác, bao gồm tự cầm máu và hiệu quả của việc
truyền máu.
V. KẾTLUẬN
Nút mạch cầm máu đường động mạch là phương
pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị ung thư biểu mô
tế bào gan vỡ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. B. Davidson, R. Carratta, F. Paccione et al. (1991), “Surgical emergencies in liver disease”, Baillieres Clin
Gastroenterol, 5(4), tr.737-58.
2. M. P. Fernandez andR. D. Redvanly (1998), “Primary hepatic malignant neoplasms”, Radiol Clin North Am,
36(2), tr.333-48.
3. E. C. Lai andW. Y. Lau (2006), “Spontaneous rupture of hepatocellular carcinoma: a systematic review”, Arch
Surg, 141(2), tr.191-8.
4. C. T. Kung, B. M. Liu, S. H. Ng et al. (2008), “Transcatheter arterial embolization in the emergency department
for hemodynamic instability due to ruptured hepatocellular carcinoma: analysis of 167 cases”, AJR Am J
Roentgenol, 191(6), tr.W231-9.
5. H. Ngan, W. K. Tso, C. L. Lai et al. (1998), “The role of hepatic arterial embolization in the treatment of
spontaneous rupture of hepatocellular carcinoma”, Clin Radiol, 53(5), tr.338-41.
6. Y. Yang, H. Cheng, A. Xu et al. (2002), “Transarterial embolization for hemorrhage due to spontaneous rupture
in hepatocellular carcinoma”, Zhonghua Zhong Liu Za Zhi, 24(3), tr.285-7.
7. H. Yoshida, Y. Mamada, N. Taniai et al. (2016), “Spontaneous ruptured hepatocellular carcinoma”, Hepatol
Res, 46(1), tr.13-2
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201866
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp vi tính và chụp mạch ung thư biểu mô tế bào gan vỡ và kết quả nút
mạch cấp cứu.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu đánh giá kết quả chụp và nút mạch cấp cứu cầm máu trên
22 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan vỡ từ 01/2014 đến 6/2016 tại bệnh viện Việt Đức.
Kết quả: 22/22 bệnh nhân được chẩn đoán u gan vỡ trên cắt lớp vi tính, được chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) và
nút mạch cấp cứu cầm máu, kích thước trung bình u theo đường kính lớn nhất 83.95mm. Hình ảnh chụp mạch: 7/22
trường hợp (31.8%) có thoát thuốc động mạch, 2/22 (9.1%) có giả phình, 1/22 (4.6%) có thông động tĩnh mạch trong
khối, 12/22 trường hợp (54.5%) không phát hiện tổn thương mạch. Vật liệu nút mạch chủ yếu sử dụng Spongel trong
18/22 (81.8%), keo sinh học Histoacryl 4/22 trường hợp (18.2%). Thành công về kỹ thuật và bệnh nhân ra viện trong
tình trạng ổn định: 22/22 trường hợp 01 bệnh nhân suy gan và tử vong 1 tháng sau nút mạch.
Kết luận: U gan vỡ có kích thước lớn, thường không kèm tổn thương chảy máu thể hoạt động. Điều trị nút mạch
cầm máu đường động mạch trong ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát vỡ là phương pháp an toàn và hiệu quả.
Từ khoá: chụp mạch, nút mạch, ung thư tế bào gan nguyên phát, u gan vỡ
Người liên hệ: Thần Việt Hùng, khoa CDDHA bệnh viện Việt Đức, email:hungtranbsb@gmail.com
Ngày nhận bài: 15.6.2018. Ngày chấp nhận đăng:20.7.2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_hinh_anh_va_ket_qua_nut_mach_cam_mau_cap_cuu_ung_th.pdf