Thời gian theo dõi, số lần điều trị và tổng liều điều
trị I-131 đến khi phát hiện kháng I-131: Trung vị thời
gian từ khi được chẩn đoán đến khi được xác định
kháng I-131 là 21,5 tháng (thời gian ngắn nhất 6 tháng,
dài nhất 123 tháng). Số lần điều trị I-131 trung bình
của các BN trước khi được chẩn đoán kháng I-131 là
2,47±1,13 lần (ít nhất 1 lần, nhiều nhất 6 lần) trong đó
có 73,3% số BN được điều trị từ 2 đến 3 lần. Có 5/30
BN xuất hiện các tổn thương về mặt cấu trúc không bắt
I-131 ngay từ lần điều trị đầu tiên. Các bệnh nhân trong
nghiên cứu có tổng liều điều trị I-131 trước khi phát hiện
kháng I-131 là 301,8 mCi (trung vị 275 mCi, thấp nhất
100 mCi, cao nhất 850 mCi). Có 70% các bệnh nhân
trong nghiên cứu nhận liều điều trị ≤ 300mCi trước khi
phát hiện kháng I-131. Kết quả này cho thấy việc áp
dụng các tiêu chuẩn ATA về kháng I-131 trên bệnh nhân
UTTG biệt hóa cho phép phát hiện tình trạng kháng
I-131 sớm và tránh cho bệnh nhân việc điều trị liều cao
I-131 một cách không cần thiết. 70% số bệnh nhân
kháng I-131 được phân loại thuộc vào nhóm I theo Hiệp
Hội Tuyến Giáp Hoa Kì: mô ung thư hoặc tổ chức di căn
không bắt I-131 (không có vị trí bắt xạ ngoài giường
tuyến giáp trên xạ hình sau điều trị lần đầu). Trong khi
đó nhóm II (tổ chức u mất khả năng bắt I-131 sau một
số lần điều trị) chiếm 10%, nhóm III (I-131 chỉ bắt vào
một số tổn thương, có một số tổn thương không bắt
phóng xạ) và nhóm IV (các tổn thương tiến triển mặc dù
có bắt phóng xạ) có tỉ lệ lần lượt là 6,7 và 13,3%.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy 80% số bệnh
nhân có 1 vị trí tổn thương kháng I-131. Vị trí tổn
thương hay gặp nhất là tại hạch vùng cổ, chiếm 76,8%;
5/30 bệnh nhân có tổn thương tại giường tuyến giáp
trong đó 4/5 bệnh nhân có tổn thương tại giường tuyến
giáp kết hợp với các vị trí khác như hạch cổ, phổi. Các
bệnh nhân có tổn thương phối hợp của giường tuyến
giáp và/hoặc hạch cổ với các vị trí khác như phổi, hạch
trung thất, xương khiến cho phẫu thuật không còn là
biện pháp điều trị triệt căn trên các bệnh nhân này mà
việc điều trị thường phải kết hợp đa mô thức như phẫu
thuật, I-131, tia xạ và có thể là cả điều trị đích.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 32 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân ung thư tuyến giáp biệt hóa kháng I-131, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 11
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
CỦA CÁC BỆNH NHÂN UNG THƯ TUYẾN
GIÁP BIỆT HÓA KHÁNG I-131
*Bệnh viện TWQĐ 108
**Viện phóng xạ và Ung bướu
Quân Đội
Objectives: to determine clinical characteristics of RAI refractory
differentiated thyroid carcinoma patients.
Material and methods: 30 post-surgical and treated with I-131
differentiated thyroid carcinoma patients, diagnosed RAI refractory
were enrolled in the study in 108 Military Centre Hospital from January
2017 to Jun 2017.
Results: RAI refractory differentiated thyroid carcinoma has
more frequently seen in middle aged, female patients (female to male
ratio 3.2/1). Papillary and folicullar carcinoma represents 86.7% and
6.7% respectively. 40% of patients were in stage I and 53.4% in stage
VI (AJCC7). The distant metastases were detected in 13.3% of patients.
The median of time from initial diagnosis to RAI refractory were 21.5
months. I-131 treatment courses were 2.47 ± 1.13. The mean total dose
was 301,8 mCi. 70% of the patients were in group I; 10% in group
II and the rate of group III and IV were 6.7 and 13.3% respectively
according to the ATA RAI refractory classification of DTC. 80% of
patients had one RAI refractory lesion; 76.8% had metastasis in the
neck lymph nodes and 16.7% had recurrent malignant lesions in the
thyroid bed.
Keywords: differentiated thyroid carcinoma, RAI refractory
differentiated thyroid carcinoma.
The clinical characteristics of rai refractory
differentiated thyriod cancer
Lê Ngọc Hà*, Nguyễn Thị Lan Hương**, BS Nguyễn Thị Nhung*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201812
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến giáp (UTTG) chiếm 2% trong các
bệnh lý ác tính và chiếm dưới 1% các trường hợp tử
vong do ung thư tại Mỹ. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kì,
số liệu mới mắc UTTG năm 2014 ước tính 63.000 ca, tỉ
lệ mắc bệnh hàng năm tăng khoảng 2%. Cho đến năm
2019, UTTG sẽ đứng thứ 3 trong các loại ung thư phổ
biến của nữ giới. Tại Việt Nam, theo số liệu ghi nhận
trong giai đoạn 2005-2008, UTTG đứng hàng thứ 6 trong
các loại ung thư ở phụ nữ với tần suất mắc theo tuổi ở
nữ giới là 5,6/100,000 dân, ở nam giới là 1,8/100,000
dân. Đối với UTTG thể biệt hóa, các phương pháp điều
trị chính gồm: phẫu thuật, điều trị bằng I-131, điều trị ức
chế TSH. Với phần lớn bệnh nhân UTTG biệt hóa, các
phương pháp điều trị nói trên cho hiệu quả cao và tỉ lệ
sống thêm 5 năm khoảng 83-98%.
Điều trị bằng i-ốt phóng xạ là phương pháp điều
trị bổ trợ chủ yếu sau phẫu thuật. Tuy nhiên, có khoảng
5-15% số bệnh nhân kháng với I-131 và tiên lượng của
các bệnh nhân này rất xấu. Tỉ lệ sống thêm 5 năm ở
các bệnh nhân UTTG biệt hóa không bắt I-131 là 66%
và tỉ lệ sống thêm 10 năm khoảng 10%. Các nghiên
cứu cho thấy thời gian sống thêm của các bệnh nhân
UTTG biệt hóa kháng I-131 và có di căn xa trung bình
khoảng 2,5-3,5 năm. Việc điều trị bệnh nhân UTTG thể
biệt hóa, di căn, tái phát, thất bại trong điều trị với I-131
hiện tại vẫn là thách thức đối với các nhà nội tiết học và
ung thư học. Trong trường hợp này, các phương pháp
điều trị tại chỗ như: phẫu thuật, xạ trị ngoài, thường
được chỉ định. Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có
nhiều nghiên cứu đề cập đến UTTG biệt hóa kháng
I-131. Chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu các
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng UTTG biệt hóa
kháng I-131” với mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng trên các bệnh nhân UTTG biệt
hóa kháng I-131.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu: các BN được chẩn
đoán xác định UTTG biệt hóa bằng kết quả mô bệnh
học là thể nhú, thể nang, thể nhú nang hoặc thể tế bào
Hurthle. BN đã được phẫu thuật cắt gần hoàn toàn
hoặc hoàn toàn tuyến giáp, vét hạch cổ và được điều trị
bằng I-131, được xác định kháng với I-131.
1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: các BN UTTG
biệt hóa đáp ứng một trong các tiêu chuẩn kháng I-131
của Hiệp Hội Tuyến giáp Hoa Kì năm 2015:
(1). Mô ung thư hoặc tổ chức di căn không bắt
I-131; (2) Tổ chức u mất khả năng bắt I-131 sau một số
lần điều trị; (3) I-131 chỉ bắt vào một số tổn thương, có
một số tổn thương không bắt I-131; (4) Các tổn thương
tiến triển mặc dù có bắt phóng xạ.
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: BN UTTG phân loại
mô bệnh học không phải là ung thư biểu mô thể nhú,
thể nang hay thể nhú nang; các BN UTTG biệt hóa
chưa được phẫu thuật, chưa được điều trị bằng I-131.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô
tả cắt ngang. Thời gian nghiên cứu: 01/2017 - 6/2017
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Trung ương
quân đội 108
Các chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu
- BN được khai thác bệnh sử và thăm khám lâm
sàng tỉ mỉ, thu thập các thông tin về tuổi, giới tính, thời
điểm phẫu thuật, phương pháp phẫu thuật, tình trạng
khối u, tình trạng hạch vùng ghi nhận trong phẫu thuật.
- Thời gian từ khi được chẩn đoán đến khi xác
định kháng I-131
- Số lần điều trị I-131, tổng liều điều trị I-131.
- Định lượng nồng độ Tg và anti-Tg huyết thanh
trước và sau điều trị I-131 bằng phương pháp hóa miễn
dịch phát quang.
- Xạ hình toàn thân chẩn đoán và xạ hình sau
điều trị với I-131 được làm trên máy gamma SPECT
Millenium và Infinia của hãng GE.
- Ghi nhận các kết quả: siêu âm vùng cổ, siêu âm
ổ bụng, chụp CT, chụp PET/CT đánh giá tình trạng di
căn.
- Đánh giá số lượng, kích thước tổn thương trên
các xn chẩn đoán hình ảnh.
- Chẩn đoán giai đoạn theo Liên ủy ban ung thư
Mỹ năm 2010 (AJCC 7) chương trình SPSS 22.0.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 13
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân ung thư tuyến giáp
biệt hoá kháng I-131
Đặc điểm Số lượng (n = 30)
n %
Tuổi Trung bình 50,1 ± 14,93
Thấp nhất 23
Cao nhất 75
Giới Nam 7 23,3
Nữ 23 76,7
Mô bệnh
học
Thể nhú 26 86,7
Thể nhú nang 2 6,7
Thể nang 2 6,7
Tuổi trung bình 50,07 ± 14,93 (cao nhất là 75, thấp
nhất là 23 tuổi). Tỷ lệ nữ/ nam trong nghiên cứu là 3,2/1.
Xét nghiệm mô bệnh học sau mổ của 30 bệnh
nhân cho thấy 86,7% là thể nhú, 6,7% là thể nhú - nang
và 6,7% là thể nang.
Bảng 2. Đánh giá TNM và giai đoạn bệnh và
nguy cơ tái phát tại thời điểm chẩn đoán
Đặc điểm n %
T
X 7 23,3
1 7 23,3
2 9 30
3 2 16,7
4a 5 16,7
N
0 7 23,3
1a 1 3,3
1b 19 63,4
X 3 10
M
0 26 86,7
1 4 13,3
Giai đoạn
I 12 40
II 1 3,3
III 1 3,3
IV 16 53,4
Nguy cơ
tái phát
Thấp 2 6,7
Trung bình 10 33,3
Cao 15 50
Không
đánh giá
được
3 10
53,3% BN có khối u đánh giá trong phẫu thuật là
T1-2, u có kích thước < 4 cm, trong giới hạn tuyến giáp.
16,7% số BN được đánh giá khối u ở giai đoạn
T4a, không BN nào có khối u xếp loại T4b. 23,3% BN
chưa có di căn hạch tại thời điểm phẫu thuật và 66,7%
đã có di căn hạch trong đó phần lớn các trường hợp có
N1b, di căn vào nhiều nhóm hạch cùng bên hoặc đối
bên (63,4%). 23,3% không đánh giá được khối u và
10% không đánh giá được hạch vùng.
13,3% số BN đã có di căn xa tại thời điểm được chẩn
đoán trong đó chủ yếu là di căn phổi và di căn xương.
40% BN ở giai đoạn I; 3,3% ở giai đoạn II, giai
đoạn III có 3,3% và có tới 53,4% BN ở giai đoạn IV. Tỉ
lệ bệnh giai đoạn IV tăng hơn nhiều so với các nghiên
cứu trước đây là do trong AJCC 7 các trường hợp khối
u xâm lấn tại chỗ (T4a, T4b) và di căn nhiều nhóm hạch
cũng được xếp vào giai đoạn IVa hoặc IVb. Nguy cơ
tái phát: tại thời điểm được chẩn đoán, phần lớn số BN
được xếp loại nguy cơ tái phát trung bình và cao 83,3%
theo phân loại của ATA. Đặc biệt, nguy cơ tái phát cao
thấy được ở 50% số BN với các đặc điểm u xâm lấn ra
ngoài tuyến giáp, phẫu thuật không lấy hết được khối
u, đã có di căn xa hoặc định lượng Tg sau phẫu thuật
cho giá trị cao.
Trung vị thời gian từ khi được chẩn đoán đến khi
được xác định kháng I-131 là 21,5 tháng (ngắn nhất 6
tháng, dài nhất 123 tháng). Số lần điều trị I-131 trung
bình của các BN trước khi được chẩn đoán kháng I-131
là 2,47±1,13 lần (ít nhất 1 lần, nhiều nhất 6 lần) trong đó
có 73,3% số BN được điều trị từ 2 đến 3 lần. Có 5/30
BN xuất hiện các tổn thương về mặt cấu trúc không bắt
I-131 ngay từ lần điều trị đầu tiên.
Bảng 3. Tổng liều điều trị I-131
Tổng liều (mCi) Số bệnh nhân Tỷ lệ %
100 - 300 21 70
301 - 700 7 23,3
≥ 700 2 6,7
Tổng 30 100
Các bệnh nhân trong nghiên cứu có tổng liều điều
trị I-131 trước khi phát hiện kháng I-131 là 301,8 mCi
(trung vị 275 mCi, thấp nhất 100 mCi, cao nhất 850
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201814
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
mCi). Có 70% các bệnh nhân trong nghiên cứu nhận
liều điều trị ≤ 300mCi trước khi phát hiện kháng I-131.
Bảng 4. Phân nhóm bệnh nhân kháng I-131
theo ATA
Phân loại kháng I-131 Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Nhóm I 21 70
Nhóm II 3 10
Nhóm III 2 6,7
Nhóm IV 4 13,3
Tổng 30 100
70% số bệnh nhân kháng I-131 được phân loại
thuộc vào nhóm I theo Hiệp Hội Tuyến Giáp Hoa kỳ: mô
ung thư hoặc tổ chức di căn không bắt I-131(không có
vị trí bắt xạ ngoài giường tuyến giáp trên xạ hình sau
điều trị lần đầu). Trong khi đó nhóm II (tổ chức u mất
khả năng bắt I-131 sau một số lần điều trị) chiếm 10%,
nhóm III (I-131 chỉ bắt vào một số tổn thương, có một
số tổn thương không bắt phóng xạ) và nhóm IV (các tổn
thương tiến triển mặc dù có bắt phóng xạ) có tỉ lệ lần
lượt là 6,7 và 13,3%.
Bảng 5. Vị trí tái phát, di căn ở UTTG biệt hoá
kháng I-131
Vị trí di căn Số BN Tỷ lệ
Giường tuyến giáp 1 3,3
Hạch cổ 23 76,8
Giường tuyến giáp + Hạch cổ 2 6,7
Hạch cổ + phổi 1 3,3
Giường tuyến giáp + hạch + phổi 1 3,3
Hạch cổ + phổi + xương 1 3,3
Giường tuyến giáp + phổi 1 3,3
Tổng số 30 100
80% số bệnh nhân có 1 vị trí tổn thương kháng I-131.
Vị trí tổn thương hay gặp nhất là tại hạch vùng cổ, chiếm
76,8%; 5/30 bệnh nhân có tổn thương tại giường tuyến
giáp trong đó 4/5 bệnh nhân có tổn thương tại giường
tuyến giáp kết hợp với các vị trí khác như hạch cổ, phổi.
Các bệnh nhân có tổn thương phối hợp của giường tuyến
giáp và/hoặc hạch cổ với các vị trí khác như phổi, hạch
trung thất, xương khiến cho phẫu thuật không còn là biện
pháp điều trị triệt căn trên các bệnh nhân này mà việc điều
trị thường phải kết hợp đa mô thức như phẫu thuật, I-131,
tia xạ và có thể là cả điều trị đích.
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm tuổi, giới: tuổi trung bình 50,07 ± 14,93
(cao nhất là 75, thấp nhất là 23 tuổi). Tuổi trung bình
của nhóm BN trong nghiên cứu này cao hơn so với
các nghiên cứu trên BN UTTG biệt hóa không kháng
I-131.Theo Phạm Thị Minh Bảo, Lê Ngọc Hà (2006),
tuổi trung bình của các BN là 42,5 ± 12,8, trẻ nhất là 9
tuổi, lớn tuổi nhất là 73 tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lan Hương (2013) trên 303 BN UTTG biệt hóa có
tuổi trung bình là 41,6 ± 13,6. Tuy nhiên, điều này phù
hợp với nhận xét của nhiều tác giả nước ngoài cho thấy
các BN kháng I-131, tiến triển nhanh thường gặp ở lứa
tuổi cao. Tỉ lệ nữ/ nam trong nghiên cứu của chúng tôi
là 3,2/1. Tỉ lệ này phù hợp với các nghiên cứu trong
và ngoài nước. Một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ này
khoảng 3,5/1 đến 4,5/1.Theo y văn, tỉ lệ nữ/nam trong
UTTG biệt hóa khoảng 2/1-3/1.
Phân loại mô bệnh học: Xét nghiệm mô bệnh học
sau mổ cho thấy trong 30 bệnh nhân có 86,7% là thể
nhú, 6,7% là thể nhú - nang và 6,7% là thể nang. Tỉ lệ
BN có xét nghiệm mô bệnh học thuộc thể nhú trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên
cứu trong và ngoài nước khác. Nghiên cứu của Bệnh
viện TWQĐ 108 cho thấy trên 510 BN UTTG biệt hóa
điều trị trong giai đoạn 1999 - 2005 có 85% kết quả mô
bệnh học là thể nhú trong đó thể nhú đơn thuần là 70%,
thể nhú biến thể nang là 15%, thể nang chiếm 15%.
Phân loại TMN: Có 53,3% BN trong nghiên cứu
có khối u đánh giá trong phẫu thuật là T1-2, u có kích
thước < 4 cm, trong giới hạn tuyến giáp. Trong khi có
16,7 % số BN được đánh giá khối u ở giai đoạn T4a,
không BN nào có khối u xếp loại T4b. Có 23,3% BN
chưa có di căn hạch tại thời điểm phẫu thuật và 66,7%
đã có di căn hạch trong đó phần lớn các trường hợp
có N1b, di căn vào nhiều nhóm hạch cùng bên hoặc
đối bên (63,4%). Do các BN của chúng tôi được phẫu
thuật từ nhiều bệnh viện khác nhau trước khi chuyển
đến để điều trị 131I, có bệnh viện chuyên phẫu thuật ung
thư, cũng có bệnh viện không chuyên khoa nên có tới
23,3% không đánh giá được khối u và 10% không đánh
giá được hạch vùng. Có 13,3% số BN đã có di căn xa
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tại thời điểm được chẩn đoán trong đó chủ yếu là di căn
phổi và di căn xương.
Đánh giá giai đoạn: trong nghiên cứu này chúng
tôi phân chia giai đoạn bệnh theo AJCC 7 (2010). Có
40% BN ở giai đoạn I; 3,3% ở giai đoạn II, giai đoạn
III có 3,3% và có tới 53,4% BN ở giai đoạn IV. Tỉ lệ
bệnh giai đoạn IV tăng hơn nhiều so với các nghiên
cứu trước đây là do trong AJCC 7 các trường hợp khối
u xâm lấn tại chỗ (T4a, T4b) và di căn nhiều nhóm hạch
cũng được xếp vào giai đoạn IVa hoặc IVb. Nghiên cứu
của Samaan (1992) trên 1599 bệnh nhân từ 1984 đến
1989 có 35% bệnh nhân có di căn hạch và 17% bệnh
nhân có di căn vào mô mềm vùng cổ, chỉ có 6% có di
căn xa tại thời điểm các bệnh nhân được chẩn đoán.
Theo Nguyễn Thị Lan Hương (2013), có 25 BN có di
căn xa nhưng chỉ có 6 BN ở giai đoạn IV, chiếm 1,9%.
Theo Trịnh Thị Minh Bảo, trong 510 BN, chỉ có 7,2% ở
giai đoạn I và có tới 20,2% ở giai đoạn IV.
Đánh giá nguy cơ tái phát: tại thời điểm được
chẩn đoán, phần lớn số BN được xếp loại nguy cơ tái
phát trong bình và cao 83,3% theo phân loại của ATA.
Đặc biệt, nguy cơ tái phát cao thấy được ở 50% số BN
với các đặc điểm u xâm lấn ra ngoài tuyến giáp, phẫu
thuật không lấy hết được khối u, đã có di căn xa hoặc
định lượng Tg sau phẫu thuật cho giá trị cao.
Thời gian theo dõi, số lần điều trị và tổng liều điều
trị I-131 đến khi phát hiện kháng I-131: Trung vị thời
gian từ khi được chẩn đoán đến khi được xác định
kháng I-131 là 21,5 tháng (thời gian ngắn nhất 6 tháng,
dài nhất 123 tháng). Số lần điều trị I-131 trung bình
của các BN trước khi được chẩn đoán kháng I-131 là
2,47±1,13 lần (ít nhất 1 lần, nhiều nhất 6 lần) trong đó
có 73,3% số BN được điều trị từ 2 đến 3 lần. Có 5/30
BN xuất hiện các tổn thương về mặt cấu trúc không bắt
I-131 ngay từ lần điều trị đầu tiên. Các bệnh nhân trong
nghiên cứu có tổng liều điều trị I-131 trước khi phát hiện
kháng I-131 là 301,8 mCi (trung vị 275 mCi, thấp nhất
100 mCi, cao nhất 850 mCi). Có 70% các bệnh nhân
trong nghiên cứu nhận liều điều trị ≤ 300mCi trước khi
phát hiện kháng I-131. Kết quả này cho thấy việc áp
dụng các tiêu chuẩn ATA về kháng I-131 trên bệnh nhân
UTTG biệt hóa cho phép phát hiện tình trạng kháng
I-131 sớm và tránh cho bệnh nhân việc điều trị liều cao
I-131 một cách không cần thiết. 70% số bệnh nhân
kháng I-131 được phân loại thuộc vào nhóm I theo Hiệp
Hội Tuyến Giáp Hoa Kì: mô ung thư hoặc tổ chức di căn
không bắt I-131 (không có vị trí bắt xạ ngoài giường
tuyến giáp trên xạ hình sau điều trị lần đầu). Trong khi
đó nhóm II (tổ chức u mất khả năng bắt I-131 sau một
số lần điều trị) chiếm 10%, nhóm III (I-131 chỉ bắt vào
một số tổn thương, có một số tổn thương không bắt
phóng xạ) và nhóm IV (các tổn thương tiến triển mặc dù
có bắt phóng xạ) có tỉ lệ lần lượt là 6,7 và 13,3%.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy 80% số bệnh
nhân có 1 vị trí tổn thương kháng I-131. Vị trí tổn
thương hay gặp nhất là tại hạch vùng cổ, chiếm 76,8%;
5/30 bệnh nhân có tổn thương tại giường tuyến giáp
trong đó 4/5 bệnh nhân có tổn thương tại giường tuyến
giáp kết hợp với các vị trí khác như hạch cổ, phổi. Các
bệnh nhân có tổn thương phối hợp của giường tuyến
giáp và/hoặc hạch cổ với các vị trí khác như phổi, hạch
trung thất, xương khiến cho phẫu thuật không còn là
biện pháp điều trị triệt căn trên các bệnh nhân này mà
việc điều trị thường phải kết hợp đa mô thức như phẫu
thuật, I-131, tia xạ và có thể là cả điều trị đích.
V. KẾT LUẬN
UTTG biệt hóa kháng I-131 có tuổi trung bình 51 ±
14, 93; tỉ lệ nữ/ nam là 3,2/1. Trung vị thời gian từ khi được
chẩn đoán đến khi xác định kháng I-131 là 21,5 tháng.
Số lần điều trị I-131 trung bình trước khi được chẩn đoán
kháng I-131 là 2,47±1,13 lần với tổng liều trung bình là
301,8 mCi. 70% số BN kháng I-131 được phân loại thuộc
vào nhóm I; 10% thuộc nhóm II; nhóm III và nhóm IV có
tỉ lệ lần lượt là 6,7 và 13,3%. 80% số BN có 1 vị trí tổn
thương kháng I-131. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là hạch
vùng cổ, chiếm 76,8%; 16,7% tổn thương tại giường tuyến
giáp, 13,3% có tổn thương tại giường tuyến giáp kết hợp
với các vị trí khác như hạch cổ, phổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Minh Bảo, Lê Ngọc Hà và cộng sự (2007). Nghiên cứu một số một số đặc điểm lâm sàng và kết quả
điều trị ung thư tuyến giáp biệt hóa sau phẫu thuật bằng I-131 tại bệnh viện Trung ương quân đội 108. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ Quốc phòng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201816
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Nguyễn Thị Lan Hương và cộng sự (2013). Đánh giá kết quả điều trị ung thư giáp trạng thể biệt hoá sau phẫu
thuật bằng I-131 tại Viện Y học phóng xạ và U bướu quân đội. Y học lâm sàng 108, tập 8, tr.162-167.
3. Francis Worden (2014). Treatment stratergies for radioactive iodine- refractory differentiated thyroid cancer.
Ther Adv Med Oncol 6161: 267-279.
4. Brian R. Haugen, Erik K. Alexander, Keith C. Bible (2016). 2015 American Thyroid Association Management
Guidelines for Adult Patients with Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer. Thyroid 26 (1):1-133.
5. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology: Thyroid Carcinoma. V.1. 2016.
6. Fernanda Vaisman, Denise P, Mario Vaisman (2014). A new appraisal of iodine refractory thyroid cancer.
European Journal of Endocrinology 22:301-310.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên các bệnh nhân UTTG biệt hóa kháng I-131.
Đối tượng và phương pháp: các bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTTG biệt hóa bằng kết quả mô bệnh học là thể
biệt hoá đã được phẫu thuật cắt gần hoàn toàn hoặc hoàn toàn tuyến giáp, vét hạch cổ và được điều trị bằng I-131 và được xác
định kháng với I-131.
Kết quả: nghiên cứu 30 BN UTTG biệt hóa kháng I-131 chúng tôi nhận thấy BN có tuổi trung bình 50,07 ± 14,93; tỷ lệ
nữ/nam là 3,2/1. Xét nghiệm mô bệnh học có 86,7% thể nhú, 6,7% là thể nhú - nang và 6,7% thể nang. 40% BN ở giai đoạn I;
3,3% ở giai đoạn II, giai đoạn III có 3,3% và có tới 53,4% BN ở giai đoạn IV. Trong đó 13,3% đã có di căn xa tại thời điểm chẩn
đoán. Trung vị thời gian từ khi được chẩn đoán đến khi xác định kháng I-131là 21,5 tháng. Số lần điều trị I -131 trung bình trước
khi được chẩn đoán kháng I-131 là 2,47 ± 1,13 lần với tổng liều trung bình là 301,8 mCi. 70% số BN kháng I-131 được phân
loại thuộc vào nhóm I; 10% thuộc nhóm II; nhóm III và nhóm IV có tỉ lệ lần lượt là 6,7 và 13,3% theo Hiệp Hội Tuyến Giáp
Hoa kỳ. 80% số BN có 1 vị trí tổn thương kháng I-131. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là hạch vùng cổ chiếm 76,8%; 16,7% tổn
thương tại giường tuyến giáp trong đó 13,3% có tổn thương tại giường tuyến giáp kết hợp với các vị trí khác như hạch cổ, phổi.
Từ khoá: Ung thư tuyến giáp biệt hoá, kháng I-131.
Ngày nhận bài: 1.1.2018. Ngày chấp nhận đăng: 30.3.2018
Người liên hệ: Lê Ngọc Hà. Khoa YHHN bệnh viện trung ương quân đội 108. Email: lengocha108@yahoo.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_cua_cac_benh_nhan_ung_thu_tuy.pdf