Thứ tư, trước khi quyết định rời ngành, chủ tàu thường phải nghĩ đến việc sẽ gia nhập
một lĩnh vực kinh doanh khác. Các rào cản nhập ngành lúc này sẽ buộc họ phải cân nhắc giữa
việc ngừng kinh doanh vận tải biển để tham gia vào ngành mới. Thường thì chủ tàu sẽ không
có nhiều cơ hội để lựa chọn do mỗi lĩnh vực kinh doanh đều cần có những điều kiện riêng.
Một khi đã dự báo được những khó khăn có thể gặp phải, nhiều chủ tàu sẽ chấp nhận tiếp tục
cầm cự và trông chờ vào cứu cánh từ bên ngoài. Để viết bài báo này, tác giả đã có một cuộc
khảo sát chính thức hơn 50 doanh nghiệp vận tải biển. Kết quả cho thấy, khi được hỏi về lựa
chọn kinh doanh trong điều kiện hiện nay, 87,5% chủ tàu chấp nhận tiếp tục kinh doanh dù
thua lỗ vì họ cho rằng khó khăn chỉ là tạm thời, và không có chủ tàu nào chọn phương án rời
ngành.
Cuối cùng, các trở lực tình cảm không thể không đề cập tới. Kinh doanh kiếm lời cũng
như các hoạt động khác của con người. Nó cũng chịu sự chi phối mạnh của yếu tố cảm xúc.
Gắn bó với vận tải biển, các chủ tàu chắc chắn phải có tình cảm với ngành nghề mà mình theo
đuổi. Ngoài mục tiêu lợi nhuận, việc đầu tư vào vận tải biển có một lý do không nhỏ, đó là do
yêu mến nó. Rời bỏ một thứ mà mình yêu quí, gắn bó là một trong những quyết định khó
khăn nhất của mỗi chúng ta. Vì thế, đối với các chủ tàu, quyết định rút lui khỏi ngành không
hễ dễ dàng.
4. Kết luận
Các rào cản ngành là một trong những nhân tố khiến cho câu chuyện tái cơ cấu đội tàu
biển Việt Nam khó có được một cái kết đẹp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trong chiến
lược phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển ngành Vận tải biển Việt Nam nói
riêng, chúng ta cần phải chấp nhận loại bỏ những nhân tố bất hợp lý đang cản trở con đường
phát triển. Để có một đội tàu biển mạnh về mọi phương diện, cần giảm thiểu sự tham gia của
nhà nước vào lĩnh vực kinh doanh vận tải biển bằng cách tư nhân hóa phần vốn nhà nước còn
lại tại các doanh nghiệp vận tải biển lớn. Thay vào đó, quản lý nhà nước về vận tải biển nên
giữ đúng vai trò của nó. Đó là thiết lập môi trường chính sách thuận lợi, phù hợp với sự phát
triển ngành vận tải biển. Việc đưa kinh doanh vận tải biển vào danh mục các lĩnh vực kinh
doanh có điều kiện cũng cần được xem xét. Thông qua đó, những công ty vận tải biển siêu
nhỏ phải được loại bớt để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Giải pháp sáp nhập
các doanh nghiệp vận tải biển và thành lập các cluster để tập hợp nguồn lực nhằm đẩy mạnh
tiến trình tái cơ cấu đội tàu nên được khuyến khích và thực hiện bài bản.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất hướng mở rộng vùng hấp dẫn đối với khu vực cảng biển phía bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 514
Đề xuất hướng mở rộng vùng hấp dẫn đối với
khu vực cảng biển phía bắc Việt Nam
Proposals for the trends of expansion attractive regions for group of ports
in the North of Vietnam
Đặng Công Xưởng
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam,
xuongdc@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Bài báo giới thiệu xu hướng mở rộng chức năng cảng biển và vùng hấp dẫn cảng của
các nước trên thế giới và phát triển Trung tâm phân phối vận tải hỗ trợ đắc lực cho các cảng
biển chính. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước, bài báo đề xuất hướng mở rộng vùng hấp
dẫn đối với Nhóm cảng biển Phía Bắc trong thời gian tới.
Từ khóa: Cảng biển, phân phối vận tải.
Abstract
This paper presents the trend to extend the functionality of seaports and attractive
regions of the world, while developing transportation distribution centers support its main
ports. On the basis of the experience of other countries, this paper proposes expanding the
attractive area for group of ports in the North of Vietnam in the near future.
Keywords: Seaports, developing transportation distribution.
1. Xu hướng mở rộng chức năng cảng biển trên thế giới
Trước đây, vai trò truyền thống của cảng là nơi xếp dỡ hàng hoá xuất nhập khẩu, là
một mắt xích trong dây chuyền vận tải, với 5 chức năng cơ bản: vận tải; thương mại; công
nghiệp; xây dựng thành phố, địa phương và du lịch.
Một vài thập kỷ gần đây, vai trò và chức năng của cảng cùng các dịch vụ mà cảng
cung cấp đã có những thay đổi đáng kể, đáng chú ý nhất là sự phát triển vùng hấp dẫn cảng và
mở rộng thêm các chức năng của cảng biển.
Mô hình phát triển cảng biển trong tương lai là tổ hợp của 3 chức năng cơ bản: xuất
nhập khẩu; trung chuyển và logistics.
Hình 1. Mô hình phát triển cảng biển trong tương lai
Về cơ bản, có 2 loại hàng hoá qua cảng: hàng hoá xuất/nhập khẩu và hàng hoá trung
chuyển.
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 515
Trung chuyển hàng hoá thường được xác định là việc vận chuyển hàng hoá qua cảng
trung gian từ cảng xuất phát đến cảng nhận.Việc thực hiện chức năng bốc xếp hàng xuất nhập
khẩu qua cảng chủ yếu để phục vụ phát triển kinh tế đất nước, còn trung chuyển hàng hoá là
sự tối ưu cho sự phát triển kinh tế đất nước, đem lại thu nhập tăng thêm và tạo cơ hội phát
triển ngành Logistics.
Hiện trên thế giới có 3 cảng đã áp dụng được cả tổ hợp 3 chức năng phát triển cảng là:
Cảng Hongkong, cảng Singapore và cảng Rotterdam (Hà Lan), được thể hiện ở sơ đồ trên.
2. Xu hướng mở rộng vùng hấp dẫn cảng và hình thành trung tâm phân phối vận tải
Trước đây, những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều tài liệu đề cập đến khu vực ảnh
hưởng của cảng thường bao gồm [4]:
- Miền tiền phương của cảng: là khu vực địa lý thuộc vùng đất bên kia bờ biển có
quan hệ với cảng bằng các loại hàng hóa vận chuyển đến và đi từ cảng;
- Miền hậu phương của cảng: là khu vực địa lý gắn liền với cảng. Đây là khu đất ở khu
vực sau nối liền với cảng bằng hệ thống giao thông: sắt, thủy, bộ,....
Ngày nay, khái niệm cảng biển không còn bó hẹp là điểm đầu và điểm cuối của quá
trình vận tải nữa nên khu vực ảnh hưởng của cảng cũng được mở rộng ra thành vùng hấp dẫn
cảng.
Vùng hấp dẫn cảng (Hinterland port) là một khái niệm quan trọng trong địa lý giao
thông vận tải. Hiểu theo nghĩa hẹp thì vùng hấp dẫn cảng là khu đất thuộc thành phố hoặc
cảng từ đó có thể thu hút khách hàng nhằm cung cấp các dịch vụ đối với hàng hoá qua cảng,
còn nghĩa rộng hơn thì vùng hấp dẫn cảng là nơi mà cảng có thể thu hút được hàng hoá qua
cảng.
Vùng hấp dẫn của cảng được chia làm 2 loại:
- Vùng hấp dẫn chính: nơi mà cảng có vị trí độc quyền thu hút hàng hoá;
- Vùng hấp dẫn bên ngoài: là vùng cạnh tranh, nơi có từ 2 cảng cạnh tranh phục vụ
hàng hoá.
Hình 2. Khu vực ảnh hưởng của cảng
Chú thích: - Cảng chính: là cảng biển, cửa ngõ ra biển của toàn bộ vùng hấp dẫn sau cảng;
- Cảng vệ tinh: là nơi tập kết, thu gom hàng hóa phục vụ cảng chính như: ICD,
CD.
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 516
- FDC (trung tâm phân phối): hoạt động như đầu mối vận tải trung gian đến
cảng chính.
Trung tâm phân phối vận tải (Freight Distribution Centre - FDC) nằm trong vùng hấp
dẫn của cảng chính (Hub port), hoạt động như là đầu mối vận tải trung gian. Hoạt động của
FDC được thể hiện theo sơ đồ ở trên.
Trung tâm này có nhiệm vụ thu gom, phân phối hàng hoá đến và đi cho cảng chính,
kết nối cảng với các khu vực hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hệ thống giao thông
vận tải nội địa.
Như vậy, do có sự thay đổi các chức năng chủ yếu và sự phát triển vùng hấp dẫn cảng
nên việc đầu tư cũng như việc xác lập và hoàn thiện mô hình quản lý, kinh doanh khai thác
cảng biển phải có những thay đổi nhằm đáp ứng phù hợp.
3. Đề xuất hướng mở rộng và phát triển vùng hấp dẫn cảng biển khu vực Phía Bắc
Cơ sở đề xuất
- Theo năng lực của các cảng :
Theo Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 về điều chỉnh quy hoạch phát triển
hệ thống cảng biển Việt Nam đến 2020. Định hướng đến 2030, cảng biển khu vực phía Bắc
(cảng biển nhóm 1) gồm 03 nhóm cảng biển loại 1 và một số cảng biển loại 2 với số lượng
cầu bến, phao neo như sau:
Tên cảng/ bến
Số lượng cầu cảng/ mét dài
Tổng hợp
bách hóa
Container
Chuyên
dùng
Dịch vụ
khác
Phao
neo
CẢNG BIỂN NHÓM 1 30/4156m 14/2395m 24 08 15
CẢNG BIỂN LOẠI 1 24/3753m 14/2395m 24 08 14
1. Cảng Hải Phòng 21/3137m 13/2165m 08 08 13
2. Cảng Hòn Gai 03/616m 01/230m 10
3. Cảng Cẩm Phả 06 01
CẢNG BIỂN LOẠI 2 06/403m 01
4. Cảng Vạn Gia 01
5. Cảng Mũi Chùa 01/54m
6. Cảng Diêm Điền 03/149m
7. Cảng Hải Thịnh 02/200m
Nguồn: Từ BQL các cảng & tổng hợp tư vấn
Trong đó, khu vực cảng biển Hải Phòng hiện có 42 bến cảng biển lớn nhỏ, gồm các
bến cảng tổng hợp bách hóa, bến container, bến chuyên dụng và các bến thực hiện dịch vụ
hàng hải, Ngoài ra, dự kiến đến năm 2018, sẽ đưa vào khai thác 02 bến cảng nước sâu Lạch
Huyện, và sẽ tiếp tục khai thác thêm 04 bến nữa đến 2020. Như vậy, năng lực của các cảng
biển Nhóm I sẽ đạt khoảng 80 - 100 triệu tấn vào 2020 [1].
- Theo lượng hàng xuất nhập khẩu:
Vùng hấp dẫn của các cảng biển mhóm I là toàn bộ các tỉnh Phía Bắc Việt Nam và các
tỉnh Tây - Nam Trung Quốc qua các cửa khẩu Lạng Sơn, Lao Cai của Việt Nam. Trong
những năm qua, lượng hàng xuất nhập khẩu qua cảng biển phía Bắc ngày càng tăng và tốc độ
tăng ước tính khoảng 10 - 15 %/năm. Khối lượng hàng hóa qua cảng biển nhóm I năm 2011
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 517
của các cảng biển khu vực Phía Bắc đạt gần 50 triệu tấn, nhưng đến năm 2015 đã đạt 76,7
triệu tấn. Theo dự báo lượng hàng hóa qua cảng biển khu vực Phía Bắc sẽ gấp 1,5 đến 1,8 lần
so với hiện nay vào những năm 2020 [2]. Vì vậy để đáp ứng được lượng hàng qua cảng tăng
nhanh thì việc mở rộng và phát triển vùng hấp dẫn của các cảng biển khu vực phía Bắc là hết
sức cấp thiết.
Hướng đề xuất
Để đáp ứng những yêu cầu về lượng tàu và hàng hóa đến cảng tăng mạnh trong những
năm tới, và tránh tình trạng bất bình hành với lượng hàng đến cảng lúc ùn tắc, lúc không có
hàng đến cảng, cần phát triển trung tâm phân phối vận tải và mở rộng vùng hấp dẫn theo các
xu hướng sau:
Phát triển các cảng vệ tinh trong vùng hấp dẫn:
Các cảng vệ tinh có thể là các cảng cạn (ICD) kết nối với cảng biển bằng hệ thống
đường bộ hoặc đường sắt, hoặc có thể là các cảng sông, liên kết với cảng biển bằng hệ thống
đường thủy nội địa. Cảng vệ tinh làm nhiệm vụ thu gom, tập kết hàng hóa từ các khu công
nghiệp, các cơ sở sản xuất, chế biến, để hình thành mạng lưới gom hàng cho cảng biển.
Mặt khác, cảng vệ tinh còn đóng vai trò là các trung tâm phân phối khi rút hàng khỏi cảng với
hàng hóa nhập khẩu.
Tùy theo khu vực địa lý, tình hình giao thông và đặc biệt mật độ các khu công nghiệp,
khu sản xuất, chế biến hàng hóa mà có các mô hình tính toán để xác định địa điểm quy hoạch
cảng vệ tinh đạt hiệu quả kinh tế. Sơ bộ tính toán có thể cần khoảng từ 10 - 15 cảng vệ tinh
trong vùng hấp dẫn cảng Phía Bắc trong những năm tới.
Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng giao thông theo mô hình công - tư:
Giao thông là mạch máu của nền kinh tế và càng đặc biệt quan trọng đối với việc kết
nối từ vùng hấp dẫn với cảng biển. Với kinh nghiệm của các nước phát triển, để kinh tế tăng
trưởng nhanh thì hạ tầng giao thông phải đi trước một bước, đặc biệt mạng lưới giao thông
kết nối với cảng biển. Tuy nhiên, để xây dựng hạ tầng giao thông phải cần rất nhiều vốn,
trong khi các nước đang phát triển như Việt Nam lại đang gặp nhiều khó nhăn về tài chính vì
ngân sách phải đầu tư cho nhiều lĩnh vực. Vì vậy rất cần áp dụng mô hình công - tư (PPP)
trong việc huy động vốn cho đầu tư hạ tầng giao thông, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối
với cảng biển [3].
Mở rộng và phát triển các hình thức dịch vụ cảng:
Nhằm giảm tối đa hao phí thời gian cho việc luân chuyển hàng hóa từ/hoặc đến cảng
trong phạm vi vùng hấp dẫn của cảng, cần tính toán và phối hợp các khâu trong dây chuyền
vận tải một cách hợp lý và hiệu quả nhất. Ngoài ra, để tiết kiệm chi phí (giá trị gia tăng) đối
với hàng qua cảng, rất cần phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ tại khu vực cảng biển như:
đại lý vận tải, giao nhận, kiểm đếm, vận chuyển, lưu kho bãi, bốc xếp, một cách đầy đủ và
đồng bộ.
Như vậy, với hướng mở rộng và phát triển vùng hấp dẫn của các cảng biển khu vực
Phía Bắc như trên, chắc chắn sẽ giải quyết tốt bài toán gom và rút hàng từ/đến cảng một cách
hiệu quả, an toàn và tiết kiệm, góp phần đáp ứng tốc độ tăng trưởng kinh tế và sản lượng hàng
qua cảng trong những năm tới từ 2015 - 2020.
Tài liệu tham khảo
[1]. Quyết định 1037/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2014.
[2]. Báo cáo tổng kết các năm: 2011, 2012, 2013, 2014, 2015 của Cục Hàng hải Việt Nam.
[3]. Tài liệu về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ vận tải biển theo WTO.
[4]. Giáo trình: Cơ giới hóa xếp dỡ tại cảng. Phan Nhiệm 1982.
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 518
Rào cản rời ngành - yếu tố cản trở quá trình tái cơ cấu
đội tàu biển Việt Nam
Barrier to exit-the factor inhibits restructuring process of the Vietnam’s merchant fleet
Nguyễn Thị Thúy Hồng
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam,
ntthong74@yahoo.com
Tóm tắt
Ngành Vận tải biển nói chung và các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam nói
riêng đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do tác động tiêu cực của
quá trình phục hồi kinh tế chậm chạp gây ra. Trong bối cảnh đó, việc tái cơ cấu đội tàu để
phù hợp với điều kiện và môi trường mới trở nên rất cấp bách và cần thiết. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy quá trình này diễn ra chậm hơn nhiều so với kỳ vọng. Một trong những nguyên
nhân là do rào cản rời ngành quá lớn. Có nhiều nhân tố tạo nên rào cản rời ngành, cản trở
quá trình tái cơ cấu. Bài báo này tập trung phân tích các nhân tố đó. Bao gồm: sự chi phối
của cổ đông nhà nước tại nhiều công ty vận tải biển lớn, cơ cấu ngành không phù hợp dẫn
đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, việc bán phương tiện để thu hồi vốn tốn kém cả
về thời gian và tiền bạc, khó khăn mà các chủ tàu gặp phải khi chuyển hướng kinh doanh để
bắt đầu tham gia vào một lĩnh vực mới, tâm lý gắn bó với nghề làm cho các chủ tàu không dễ
dàng quyết định rời bỏ công việc kinh doanh quen thuộc của mình.
Từ khóa: Cản trở tái cơ cấu đội tàu.
Abstract
Shipping industry in general and shipping companies in particular in Vietnam are
facing many difficulties in production and business activities due to the negative impact of the
sluggish economic recovery. In this context, the restructuring of the fleet to match the new
conditions of the economy becomes very urgent and necessary. However, infact, this process
has been slower than expected. Strong exit barrier is considered one of the reasons. There
are many factors that obstructing to leave the industry, hindering the process of
restructuring. This paper focuses on analyzing these factors. Including: the domination of
state shareholders in many shipping companies, industry structure mismatch led to a
situation of unfair competition, the sale vessels to payback costs both time and money,
difficulties of shipowners if moving the business to begin participating in a new industry,
many shipowners still want to keep the business hence they do not easily decide to leave their
unprofitable business.
Keywords: Obstructing fleet’s, restructuring.
1. Dẫn nhập
Hầu hết các nghiên cứu về kinh tế xã hội đều chỉ ra tính chu kỳ của các hoạt động
kinh tế ở cấp độ doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế quốc dân. Trong đó, các giai đoạn tiến
triển và sa sút diễn ra liên tục. Đặc biệt, ở pha suy thoái, chúng ta thường đồng thời quan sát
được quá trình tái cơ cấu vẫn đang trong quá trình này. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều
chuyên gia, quá trình tái cơ cấu đội tàu biển Việt Nam đang diễn ra rất chậm chạp và thiếu
định hướng.
2. Thực trạng đội tàu biển Việt Nam từ sau thời điểm 2008
Được đánh giá là một quốc gia hội tụ nhiều thế mạnh về địa chính trị để phát triển
kinh tế biển, Việt Nam hiện nay có đội tàu biển qui mô khoảng 8 triệu DWT, chiếm 0,48%
trọng tải đội tàu biển thế giới, đứng thứ 5/10 nước ASEAN về tổng trọng tải, nhưng chỉ đứng
thứ 9/10 về trọng tải tàu bình quân. Trong đó 21% là tàu hàng rời, 42,7% là tàu chở hàng
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 519
bách hóa, đội tàu container chỉ chiếm khoảng 3,5%. Tỷ lệ này rất khác so với thế giới. Về
tổng trọng tải, kết cấu của đội tàu thế giới hiện nay gồm khoảng 42,9% là tàu hàng rời, 4,6%
là tàu chở hàng bách hóa và khoảng 12,8% là tàu chở container. Xu hướng chuyên môn hóa
đội tàu trên thế giới gần như rất ít tác động đến Việt Nam. Với gần một nửa là tàu chở hàng
bách hóa, chúng ta cần rất nhiều thời gian và nguồn lực để thay đổi kết cấu đội tàu sao cho
thực sự phù hợp với nhu cầu vận chuyển, và quan trọng hơn là để có thể nâng cao được năng
suất chuyên chở.
Nguồn: UNCTAD
Hình 1. Qui mô và kết cấu đội tàu buôn của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2014
Khủng hoảng kinh tế cuối 2008 đã tạo ra một cú sốc lớn đối với vận tải biển của Việt
Nam, làm thay đổi hoàn toàn vị thế của nhiều doanh nghiệp vận tải biển, đẩy ngành vận tải
biển vào một thời kỳ khó khăn chưa từng thấy trong lịch sử phát triển. Hàng loạt các hãng tàu
lớn rơi vào tình trạng lỗ vốn triền miên, đứng trước nguy cơ đóng cửa, mất lợi thế trên thị
trường chứng khoán.
Bảng 1. Thực trạng kết quả SXKD của một số doanh nghiệp vận tải biển
Tên công ty (Mã
CK)
Lợi
nhuận
sau thuế
2014
(109tỷ
đồng)
Mô tả trạng thái
Lĩnh vực hoạt
động
Công ty CP Hàng
Hải Sài Gòn
(SHC)
6,772
Bị hủy niêm yết từ 21/5/2013 vì thua lỗ triền
miên vượt vốn điều lệ.
Năm 2014 bán hết tàu biển, chuyển lĩnh vực
kinh doanh vận tải contaier tuyến Sài Gòn -
Miền Tây, dịch vụ Logistics và VTĐPT.
Vận tải
container
đường sông,
dịch vụ
Logistics và
VTĐPT
Công ty CP Vận
tải và Thuê tàu
(VST)
-179,12
Lỗ 3 năm liên tiếp. Đã bán 1 tàu năm 2013, bán
2 tàu trong năm 2014 và tiếp tục lỗ vốn năm
2014
Vận tải hàng
khô
Công ty vận tải
biển Việt Nam
(VOS)
-203,262
Lỗ 2 năm liên tiếp. Bán 3 tàu năm 2014.
Vào diện cảnh báo từ giữa năm 2015 do lỗ vốn
triền miên
Vận tải đa
chủng loại hàng
hóa
DDM (Công ty -118,724 Hủy niêm yết từ năm 2013 vì thua lỗ vượt vốn Vận tải hàng
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 520
CP Hàng Hải
Đông Đô)
điều lệ. khô
VNA (Công ty
CP Vận tải biển
VINASHIP)
-36,868
Lỗ 3 năm liên tiếp. 5/13 tàu trên 25 tuổi. Thuộc
diện cảnh báo không được ký quĩ giao dịch
chứng khoán
Vận tải hàng
khô
VSG (Công ty CP
Vontainer phía
Nam)
-77,867 Thua lỗ 6 năm liên tiếp từ 2009 đến 2014
Vận tải
container
SSG (Công ty CP
Vận tải biển Hải
Âu)
-34,7
Thua lỗ 3 năm liên tiếp. Đã bán 1 tàu trong nửa
đầu năm 2014. Còn lại 2 tàu. Dự kiến tiếp tục
lỗ vốn năm 2015
Vận tải hàng
khô
TJC (Công ty cổ
phần Dịch vụ
Vận tải thương
mại)
9,07
Còn 3 tàu sau khi bán tàu Transco Sun năm
2013. Bán tàu Hà Yây trong năm 2014.
Vận tải hàng
khô
VFR (Công ty cổ
phần Vận tải và
Thuê tàu)
-8,264
Lãi năm 2013 nhờ hoạt động dịch vụ trên bờ và
bán tàu Vietfracht 02. Còn 3 tàu kinh doanh
không hiệu quả năm 2014
Vận tải hàng
khô
PJT (Công ty cổ
phần Vận tải
xăng dầu đường
thủy
PETROLIMEX)
14,867
Có lãi nhờ nguồn hàng ổn định từ Tổng Công
ty Xăng dầu PETROLIMEX
Vận tải xăng
dầu
VTO (Công ty
CP Vận tải xăng
dầu VITACO)
58,173
4/10 tàu dưới 10 tuổi. Doanh thu được hỗ trợ từ
Petrolimex
Vận tải xăng
dầu
VIP (Công ty CP
Vận tải xăng dầu
VIPCO)
69,583
Hơn 110 tỷ đồng LNST đến từ bán tài sản và
đất thuê dự án cảng container. Lãi này được
góp vào thành lập công ty Cảng Nam Hải Đình
Vũ. Doanh thu chủ yếu từ cho PETROLIMEX
thuê định hạn toàn bộ đội tàu
Vận tải xăng
dầu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ cafef
Sau 7 năm kể từ cú sốc khủng hoảng 2008, rất nhiều doanh nghiệp vận tải biển của
Việt Nam vẫn đang loay hoay với bài toán thoát lỗ. Bức tranh tổng thể ngành Vận tải biển có
rất ít các điểm sáng.
3. Tái cơ cấu đội tàu biển Việt Nam và các rào cản xuất ngành
Thông thường, sau mỗi cú sốc kinh tế, làn sóng tái cơ cấu sẽ thúc đẩy các doanh
nghiệp thay đổi và lột xác để thích nghi với điều kiện và môi trường kinh doanh mới. Quá
trình này có thể bắt đầu ngay sau mỗi cú sốc và kéo dài từ một đến vài năm. Khi công cuộc
tái cấu trúc doanh nghiệp kết thúc, nền kinh tế cũng đồng thời trải qua giai đoạn hồi phục và
chuẩn bị bước vào thời kỳ phát triển mới. Kinh doanh vận tải biển cũng không phải là ngoại
lệ. Cú sốc kinh tế 2008 làm cước vận tải biển lao dốc, BDI giảm nhanh từ hơn 11000 điểm
cuối năm 2008 xuống mức trên dưới 1000 điểm ngay trong quí I năm 2009 và không có dấu
hiệu phục hồi ổn định suốt từ đó đến nay. Trong bối cảnh đó, các hãng tàu lớn trên thế giới đã
buộc phải thay đổi chiến lược kinh doanh theo hướng sáp nhập, bán tàu, hợp tác vận chuyển
trên một số tuyến, bỏ qua một số cảng trong hành trình và giảm tốc độ chạy tàu để cắt giảm
chi phí. Ở Việt Nam, mặc dù qui mô doanh nghiệp nhỏ hơn, phạm vi hoạt động của đội tàu
biển cũng hẹp hơn rất nhiều nhưng xem ra tiến trình tái cơ cấu còn gặp rất nhiều cản trở. Để
thay đổi kết cấu đội tàu biển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và cạnh tranh trong tình hình hiện
nay, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, loại bớt các doanh nghiệp qui mô quá nhỏ, sở hữu một
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 521
vài con tàu già, trọng tải thấp, thậm chí, chấp nhận xóa sổ một vài hãng tàu lớn hoạt động
không hiệu quả. Việc doanh nghiệp bị kìm giữ trong ngành không sinh lời, trong điều kiện
nhu cầu vận chuyển giảm hoặc không thay đổi, tất yếu dẫn đến dư cung trọng tải, làm sâu sắc
hơn cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều nhân tố, gồm cả chủ quan và
khách quan, cản trở các doanh nghiệp vận tải biển rời ngành.
Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp vận tải biển lớn, dù đã chuyển thành công ty cổ phần
nhưng vốn nhà nước vẫn chiếm đa số. Các doanh nghiệp này, bên cạnh sức ép cạnh tranh với
các đối thủ trong và ngoài nước, còn phải chịu sự chỉ đạo hành chính từ các cơ quan chức
năng khác. Cổ phần hóa chỉ làm thay đổi tên gọi mà chưa làm thay đổi cách thức tổ chức
quản lý và khai thác vận tải, yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên sự khác biệt nhằm khai thác
triệt để nguồn lực, đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhiều người đặt câu hỏi, nếu như VINASHIN
không phá sản, VOSCO, VINASHIP, VINALINES không buộc phải gánh nợ hộ bằng cách
buộc phải nhận những con tàu cũ nát của VINASHIN thì các doanh nghiệp này có phải chịu
khó khăn như thời gian vừa qua hay không? Với cơ chế xin cho, phân phối lợi ích và cả trách
nhiệm mà chúng ta đang làm như hiện nay thì khó có thể nói tới sự cách tân để nâng tầm vị
thế các doanh nghiệp vận tải biển trong nước. Nhà nước liệu có để cho các công ty “con đẻ”
chết hay sống kiểu “thoi thóp” như hiện nay. Nhiều khả năng là những doanh nghiệp này vẫn
phải tồn tại, bằng cách nào đó, chỉ để chứng tỏ rằng quản lý nhà nước trong hoạt động vận
chuyển đường biển vẫn còn hiệu quả.
Thứ hai, theo số liệu thống kê, hiện Việt Nam có khoảng gần 600 chủ tàu biển, bình
quân mỗi chủ tàu sở hữu khoảng 13.000 DWT. So với một số cường quốc vận tải biển như
Đan Mạch (59 chủ tàu 69,48 triệu tấn), Đức (95 chủ tàu, 103 triệu DWT), Singapore (36 chủ
tàu, 129,71 triệu DWT), Trung Quốc (28 chủ tàu, 143,12 triệu DWT, trong đó, 9 chủ tàu quốc
tịch Đài Loan), rõ ràng việc có quá nhiều chủ tàu sở hữu các đội tàu siêu nhỏ không phù hợp
với thực tiễn kinh doanh vận tải biển. Ở góc độ lý thuyết kinh tế, vận tải biển là một trong
những ngành có lợi thế qui mô vì đầu tư ban đầu rất lớn. Vì thế, nó không phải là một ngành
cạnh tranh, nó là một ngành độc quyền tập đoàn. Tuy nhiên, ở Việt Nam đang tồn tại một
thực tế trái ngược, đó là các doanh nghiệp vận tải biển đang cạnh tranh để tồn tại. Và nghịch
lý ở chỗ trong cuộc cạnh tranh này, có vẻ phần lợi thế đang nghiêng về các chủ tàu tư nhân,
sở hữu 1 vài con tàu chở hàng bách hóa, trọng tải vài nghìn tấn. Với bộ máy quản lý gọn nhẹ,
cách thức khai thác đơn giản, các hãng tàu tư nhân của Việt Nam có thể dễ dàng tìm kiếm các
đơn hàng khối lượng nhỏ với mức cước cạnh tranh. Việc các hãng tàu nhỏ tồn tại, cạnh tranh
và tạo ra áp lực giảm cước phí với các hãng tàu lớn gây rất nhiều khó khăn cho quá trình tái
cơ cấu đội tàu biển. Khi còn có thể kiếm lời bằng các hoạt động vận chuyển hàng hóa đường
biển, các chủ tàu tư nhân qui mô nhỏ sẽ không có động cơ rời ngành. Vì thế, cơ cấu đội tàu
biển Việt Nam cũng khó mà thay đổi được.
Thứ ba, việc rút lui khỏi ngành có thể khiến cho các chủ tàu gặp phải những mất mát
lớn. Vì vậy, họ sẽ cố gắng cầm cự để trụ lại. Để kinh doanh vận tải biển, các chủ tàu phải đầu
tư mua phương tiện với mức giá hàng triệu USD. Khi rời ngành, họ phải bán được con tàu đó.
Với những tài sản giá trị lớn như vậy, tìm được người mua trong bối cảnh kinh tế hiện nay là
rất khó khăn. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, mức giá được trả rất thấp, ngang với giá bán
sắt vụn. Vì thế, các chủ tàu chấp nhận tiếp tục kinh doanh thua lỗ thay vì chỉ thu hồi một
lượng vốn nhỏ từ bán phương tiện. Hơn nữa, dưới quyền quản lý của mình, các chủ tàu có
khoảng từ vài chục đến hàng nghìn nhân viên, thuyền viên. Việc họ rời ngành đồng nghĩa với
tuyên bố sa thải từng đó con người. Nghĩa vụ đạo lý với những người đã từng gắn bó, sát
cánh để cùng phát triển doanh nghiệp cản trở quyết định xuất ngành. Bên cạnh đó, tuyên bố
rời ngành sẽ làm mất toàn bộ uy tín mà các chủ tàu đã gây dựng lâu nay, ảnh hưởng đến lợi
ích của các chủ nợ, các đối tác kinh doanh. Những lý do trên làm giảm đáng kể động cơ xuất
ngành của các chủ tàu.
THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 522
Thứ tư, trước khi quyết định rời ngành, chủ tàu thường phải nghĩ đến việc sẽ gia nhập
một lĩnh vực kinh doanh khác. Các rào cản nhập ngành lúc này sẽ buộc họ phải cân nhắc giữa
việc ngừng kinh doanh vận tải biển để tham gia vào ngành mới. Thường thì chủ tàu sẽ không
có nhiều cơ hội để lựa chọn do mỗi lĩnh vực kinh doanh đều cần có những điều kiện riêng.
Một khi đã dự báo được những khó khăn có thể gặp phải, nhiều chủ tàu sẽ chấp nhận tiếp tục
cầm cự và trông chờ vào cứu cánh từ bên ngoài. Để viết bài báo này, tác giả đã có một cuộc
khảo sát chính thức hơn 50 doanh nghiệp vận tải biển. Kết quả cho thấy, khi được hỏi về lựa
chọn kinh doanh trong điều kiện hiện nay, 87,5% chủ tàu chấp nhận tiếp tục kinh doanh dù
thua lỗ vì họ cho rằng khó khăn chỉ là tạm thời, và không có chủ tàu nào chọn phương án rời
ngành.
Cuối cùng, các trở lực tình cảm không thể không đề cập tới. Kinh doanh kiếm lời cũng
như các hoạt động khác của con người. Nó cũng chịu sự chi phối mạnh của yếu tố cảm xúc.
Gắn bó với vận tải biển, các chủ tàu chắc chắn phải có tình cảm với ngành nghề mà mình theo
đuổi. Ngoài mục tiêu lợi nhuận, việc đầu tư vào vận tải biển có một lý do không nhỏ, đó là do
yêu mến nó. Rời bỏ một thứ mà mình yêu quí, gắn bó là một trong những quyết định khó
khăn nhất của mỗi chúng ta. Vì thế, đối với các chủ tàu, quyết định rút lui khỏi ngành không
hễ dễ dàng.
4. Kết luận
Các rào cản ngành là một trong những nhân tố khiến cho câu chuyện tái cơ cấu đội tàu
biển Việt Nam khó có được một cái kết đẹp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trong chiến
lược phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển ngành Vận tải biển Việt Nam nói
riêng, chúng ta cần phải chấp nhận loại bỏ những nhân tố bất hợp lý đang cản trở con đường
phát triển. Để có một đội tàu biển mạnh về mọi phương diện, cần giảm thiểu sự tham gia của
nhà nước vào lĩnh vực kinh doanh vận tải biển bằng cách tư nhân hóa phần vốn nhà nước còn
lại tại các doanh nghiệp vận tải biển lớn. Thay vào đó, quản lý nhà nước về vận tải biển nên
giữ đúng vai trò của nó. Đó là thiết lập môi trường chính sách thuận lợi, phù hợp với sự phát
triển ngành vận tải biển. Việc đưa kinh doanh vận tải biển vào danh mục các lĩnh vực kinh
doanh có điều kiện cũng cần được xem xét. Thông qua đó, những công ty vận tải biển siêu
nhỏ phải được loại bớt để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Giải pháp sáp nhập
các doanh nghiệp vận tải biển và thành lập các cluster để tập hợp nguồn lực nhằm đẩy mạnh
tiến trình tái cơ cấu đội tàu nên được khuyến khích và thực hiện bài bản.
Tài liệu tham khảo
[1]. Stephanos Avgeropoulos. Barrier to entry and exit. Blackwell Referene 2014.
[2]. Kobuz Lazenby. Tienie Ehlers, Strategic Management. 3rd edition, 2010.
[3]. Webside:
[4]. Webside:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_xuat_huong_mo_rong_vung_hap_dan_doi_voi_khu_vuc_cang_bien.pdf