Trường hợp đấu giá theo thủ tục rút gọn, tổ
chức đấu giá vẫn phải thực hiện các thủ tục
tương tự như trường hợp đấu giá thông thường,
chỉ khác ở một số thủ tục sau:
- Giảm thời gian niêm yết việc đấu giá tài
sản: tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc
đấu giá tài sản là động sản ít nhất là 03 ngày
làm việc, tài sản là bất động sản ít nhất là 05
ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá
(khoản 2 Điều 53 Luật ĐGTS);
- Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham
gia đấu giá, tổ chức tiếp nhận hồ sơ tham gia
đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ
ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến
trước ngày mở cuộc đấu giá 01 ngày (khoản 3
Điều 53 Luật ĐGTS).
- Tổ chức đấu giá tài sản thông báo công
khai một lần việc đấu giá tài sản trên báo in
hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu
giá (khoản 2 Điều 57 Luật ĐGTS).
Trên đây là những điểm mới của Luật
ĐGTS về trình tự, thủ tục trước khi tổ chức
cuộc đấu giá. Đây là những nội dung quan trọng
mà nếu được thực hiện đúng sẽ góp phần đảm
bảo cho cuộc đấu giá được tổ chức thành công,
đạt hiệu quả. Với những quy định trên, có thể
thấy Luật ĐGTS đã có những thay đổi cơ bản,
toàn diện nhằm tiếp tục công khai hóa, minh
bạch hóa hơn nữa hoạt động đấu giá tài sản, tạo
cơ sở thúc đẩy dịch vụ đấu giá phát triển theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điểm mới của luật đấu giá tài sản năm 2016 về trình tự, thủ tục thực hiện các công việc trước khi tổ chức cuộc đấu giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
9
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN NĂM 2016 VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
THỰC HIỆN CÁC CÔNG VIỆC TRƯỚC KHI TỔ CHỨC CUỘC ĐẤU GIÁ
Nguyễn Thị Thu Hồng1
Tóm tắt: Luật đấu giá tài sản đã được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
17/11/2016, có hiệu lực từ ngày 01/7/2017. Luật đấu giá tài sản năm 2016 (Luật ĐGTS năm
2016) có nhiều quy định mới về điều kiện cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá, về doanh nghiệp
đấu giá, về trình tự, thủ tục đấu giá, về quản lý nhà nước trong đấu giá tài sản... Riêng về trình
tự, thủ tục đấu giá, Luật đã dành 02 chương để quy định (Chương III - Trình tự, thủ tục đấu giá
và Chương IV - Đấu giá tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá). Bài viết
này trao đổi những điểm mới của Luật đấu giá tài sản năm 2016 về trình tự, thủ tục trước khi
tổ chức cuộc đấu giá. Đây là những nội dung quan trọng bắt buộc các đấu giá viên/tổ chức đấu
giá phải biết để thực hiện cho phù hợp.
Từ khóa: Đấu giá tài sản, điểm mới Luật đấu giá
Nhận bài: 05/5/2017; Hoàn thành biên tập: 29/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017
Về trình tự, thủ tục thực hiện các công việc
trước khi tổ chức cuộc đấu giá, Luật đấu giá tài
sản năm 2016 có một số điểm mới như sau:
1. Về xác định giá khởi điểm của tài sản
đấu giá
Trước 01/7/2017, trình tự, thủ tục đấu giá
đối với phần lớn tài sản bắt buộc phải bán qua
đấu giá được thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản (viết tắt là
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP) và Thông tư số
23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư
pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (viết tắt là
Thông tư số 23/2010/TT-BTP). Một số loại tài
sản đấu giá theo trình tự, thủ tục quy định tại
các văn bản pháp luật chuyên ngành như: đấu
giá quyền khai thác khoáng sản, đấu giá nợ xấu
và tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu,
quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, v.v... Nhìn
chung, trình tự, thủ tục bán đấu giá giữa các
loại tài sản có một số điểm khác biệt, trong đó
điểm khác biệt lớn nhất là việc xác định giá
khởi điểm và ký hợp đồng, giao tài sản sau khi
đấu giá thành. Luật ĐGTS đã xây dựng trình
tự, thủ tục đấu giá tài sản áp dụng thống nhất
cho các loại tài sản phải bán thông qua đấu giá
và tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tự
nguyện lựa chọn dịch vụ đấu giá, đồng thời
tách quy trình bán đấu giá với quy trình xác
định giá khởi điểm và ký hợp đồng mua bán,
giao tài sản đấu giá.
Việc xác định giá khởi điểm được Luật
ĐGTS quy định tại Điều 8 Chương 1, phần
“Những quy định chung” (Nghị định số
17/2010/NĐ-CP quy định trong phần “Trình
tự, thủ tục đấu giá”). Về cơ bản, Điều 8 Luật
ĐGTS đã kế thừa các quy định của Nghị định
1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa đào tạo Công chứng viên và các chức danh khác, Học viện Tư pháp
Abstract: Law on Property Auction passed at the 2rd session of the XIV National Assembly
on November 17,2016 took effect from July 1, 2017. Law on Property Auction in 2016 includes
many regulations regarding to condition of granting Certificate of practicing as an auctioneer,
auction enterprise, order and procedure of auction, state management in property auction... The
order and procedure of auction have been included in the 2 chapters in the Law (Chapter III-
Order, procedure of auction and Chapter IV-Property auction, which is sold via auction by the
law). This article discuss new points of the Law of property auction in 2016 in term of order,
procedure before opening auction. These are important contents which auctioneers/auction
organizations should know to perform properly.
Keywords: Property auction, new points in the Law on auction.
Date of receipt: 05/5/2017; Date of revision: 29/6/2017; Date of approval: 01/8/2017.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
10
số 17/2010/NĐ-CP (giá khởi điểm của tài sản
đấu giá được xác định trước khi ký kết hợp
đồng dịch vụ đấu giá tài sản/trước khi thành
lập Hội đồng đấu giá tài sản/ trước khi tổ chức
mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do
Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ
chức tín dụng tự đấu giá). Việc xác định giá
khởi điểm vẫn thuộc trách nhiệm của người có
tài sản đấu giá. Điểm mới của Luật ĐGTS về
vấn đề này là:
- Chỉ bắt buộc công khai giá khởi điểm đối
với tài sản mà pháp luật quy định phải bán
thông qua đấu giá (khoản 1 Điều 58); không
bắt buộc công khai giá khởi điểm đối với tài
sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tự
nguyện lựa chọn dịch vụ đấu giá (pháp luật
trước đây buộc phải công khai giá khởi điểm
đối với mọi tài sản đấu giá);
- Cho phép tổ chức đấu giá tài sản được
thực hiện việc xác định giá khởi điểm đối với
tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tự
nguyện lựa chọn dịch vụ đấu giá khi được
người có tài sản đấu giá ủy quyền (điểm b
khoản 2 Điều 8 Luật ĐGTS).
2. Về lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản
Theo quy định tại Nghị định số 17/2010/
NĐ-CP, quyền lựa chọn tổ chức bán đấu giá
thuộc về người có tài sản bán đấu giá, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác (Điều 22). Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP không quy định về tiêu
chí, cách thức lựa chọn tổ chức đấu giá để thực
hiện việc bán đấu giá tài sản. Thực tế thời gian
qua, việc lựa chọn tổ chức đấu giá phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của người có tài sản, dẫn tới hiện
tượng có doanh nghiệp “sân sau” trong hoạt
động bán đấu giá.
Luật ĐGTS đã bổ sung cách thức và tiêu
chí lựa chọn tổ chức đấu giá để thực hiện việc
bán đấu giá tài sản (Điều 56). Tuy nhiên, quy
định này chỉ bắt buộc áp dụng đối với tài sản
mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu
(các tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 4
Luật ĐGTS). Theo quy định tại Điều 56 Luật
ĐGTS thì người có tài sản đấu giá phải thông
báo công khai trên trang thông tin điện tử của
mình và trang thông tin điện tử chuyên ngành
về đấu giá tài sản về việc lựa chọn tổ chức đấu
giá và thực hiện việc lựa chọn tổ chức đấu giá
dựa trên các tiêu chí quy định tại khoản 4 Điều
56; trường hợp pháp luật quy định việc lựa
chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu
thì việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản được
thực hiện theo quy định của Luật ĐGTS và
pháp luật về đấu thầu.
3. Về hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản
Điều 33 Luật ĐGTS đã kế thừa quy định
của các Điều 25, 26, 27, 47 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP về chủ thể ký hợp đồng dịch
vụ đấu giá tài sản; về trách nhiệm của người có
tài sản đấu giá, của tổ chức đấu giá trong việc
chứng minh quyền được bán tài sản; trách
nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đấu
giá. Ngoài ra, Luật ĐGTS có một số điểm mới
như sau:
- Về loại/tên hợp đồng: xác định rõ tên hợp
đồng phù hợp với tính chất dịch vụ mà tổ chức
đấu giá tài sản cung cấp, là “Hợp đồng dịch vụ
đấu giá tài sản” (thay vì “Hợp đồng bán đấu
giá tài sản” theo quy định tại Nghị định số
17/2010/NĐ-CP).
- Về nội dung và việc thực hiện hợp đồng:
Điều 33 Luật ĐGTS cho phép các bên có thể
linh hoạt thỏa thuận và thực hiện các nội dung
của hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản theo quy
định của Luật ĐGTS, pháp luật dân sự và quy
định khác của pháp luật có liên quan (thay vì
phải thực hiện theo các quy định cứng tại khoản
2 Điều 25 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP).
- Về trách nhiệm của người có tài sản đấu
giá trong việc chứng minh quyền sở hữu, quyền
sử dụng hoặc quyền được bán tài sản theo quy
định của pháp luật và trách nhiệm của tổ chức
đấu giá tài sản trong việc kiểm tra thông tin về
quyền được bán tài sản do người có tài sản đấu
giá cung cấp: Điều 33 Luật ĐGTS đã có những
sửa đổi phù hợp hơn. Theo quy định tại khoản
2, khoản 3 Điều 33 Luật ĐGTS, có thể thấy
trách nhiệm của tổ chức đấu giá “nhẹ” hơn, phù
hợp hơn so với quy định của pháp luật về đấu
giá trước đây (tổ chức đấu giá “có trách nhiệm
kiểm tra thông tin về quyền được bán tài sản do
người có tài sản đấu giá cung cấp” thay vì “có
trách nhiệm kiểm tra tính chính xác của các
thông tin về nguồn gốc tài sản, quyền sở hữu,
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
11
quyền sử dụng của tài sản do người có tài sản
bán đấu giá cung cấp” - khoản 3 Điều 26 Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP).
- Về thời điểm đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng: Khoản 5 Điều 33 Luật ĐGTS
quy định người có tài sản đấu giá/hoặc tổ chức
đấu giá tài sản có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản theo
quy định của pháp luật về dân sự trước khi tổ
chức đấu giá tài sản nhận hồ sơ tham gia đấu
giá của người tham gia đấu giá, trừ trường hợp
luật có quy định khác (Điều 27 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP quy định về thời điểm các bên
được thực hiện quyền này là “trước khi tổ chức
bán đấu giá chuyên nghiệp niêm yết, thông báo
công khai việc bán đấu giá tài sản, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác”).
- Bổ sung quy định mới về việc người có
tài sản đấu giá có quyền hủy bỏ hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản khi có một trong các
căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 Luật
ĐGTS nhằm khắc phục những hạn chế của
pháp luật hiện hành cũng như bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài
sản đấu giá.
4. Về xây dựng và ban hành Quy chế
cuộc đấu giá tài sản
Luật ĐGTS đã dành một điều luật để quy
định về Quy chế cuộc đấu giá (Điều 34). Điều
này là hết sức cần thiết và phù hợp với tính
chất quan trọng của Quy chế cuộc đấu giá
do“Nội quy, quy chế bán đấu giá tài sản là
những quy định do tổ chức bán đấu giá tài sản
ban hành trên cơ sở các quy định của pháp
luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý, tạo ‘‘sân
chơi’’ cho người tham gia đấu giá lựa chọn...
Nếu khách hàng chấp nhận những quy định đó
thì sẽ tham gia đấu giá và khi đã tham gia đấu
giá, khách hàng bị điều chỉnh và phải tuân thủ
các quy định của nội quy, quy chế bán đấu giá
tài sản’’2.
Trước đây, pháp luật về đấu giá tài sản
chưa có quy định thống nhất về vấn đề này.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP thì tổ chức bán đấu giá tài
sản có nghĩa vụ “ban hành nội quy bán đấu
giá tài sản”. Điều 13 Thông tư số 23/2010/TT-
BTP quy định tổ chức đấu giá “ban hành quy chế
bán đấu giá tài sản của tổ chức mình phù hợp với
quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP”.
Trên thực tế việc xây dựng, ban hành và thực
hiện nội quy, quy chế đấu giá tài sản được
thực hiện rất khác nhau giữa các địa phương,
giữa các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
“Có tổ chức bán đấu giá ban hành quy chế bán
đấu giá tài sản áp dụng cho mọi cuộc bán đấu
giá, quy định toàn bộ các vấn đề có liên quan
đến việc tổ chức bán đấu giá tài sản (bao gồm
các hoạt động trước khi tổ chức cuộc bán đấu
giá, tại cuộc bán đấu giá và sau cuộc bán đấu
giá tài sản); trên cơ sở quy chế bán đấu giá tài
sản đó, đối với mỗi tài sản bán đấu giá sẽ ban
hành một nội quy bán đấu giá. Tổ chức bán
đấu giá khác lại ban hành quy chế bán đấu giá
tài sản cho mỗi tài sản bán đấu giá và không
ban hành nội quy bán đấu giá. Có tổ chức bán
đấu giá lại ban hành nội quy cho từng cuộc
bán đấu giá tài sản, không ban hành quy chế
bán đấu giá. Lại có tổ chức bán đấu giá ban
hành cả nội quy và quy chế bán đấu giá tài
sản, trong đó nội quy bán đấu giá được ban
hành một lần nhưng được sử dụng nhiều lần
để điều chỉnh các quy tắc xử sự tại phòng (hội
trường) bán đấu giá; quy chế bán đấu giá tài
sản được ban hành đối với mỗi tài sản bán đấu
giá, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động trong
quá trình tổ chức bán đấu giá đó”3. Căn cứ
khái niệm về nội quy, quy chế trong Từ điển
tiếng Việt, Từ điển Luật học và nội hàm các
khái niệm, quy định về Quy chế cuộc đấu giá
tại Điều 33 Luật ĐGTS trong bối cảnh hiện
nay, theo chúng tôi là hết sức cần thiết và phù
hợp với tình hình thực tiễn.
Khoản 2 Điều 33 Luật ĐGTS đã pháp điển
hóa một số quy định tại Điều 13 Thông tư số
23/2010/TT-BTP, đồng thời bổ sung một số
quy định mới và sắp xếp các nội dung chính
phải có trong Quy chế cuộc đấu giá logic hơn
2 Học viện Tư pháp, Giáo trình kỹ năng bán đấu giá tài sản, năm 2014, Tr. 273
3 Học viện Tư pháp, Giáo trình kỹ năng bán đấu giá tài sản, năm 2014, Tr. 276
12
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
theo trình tự đấu giá tài sản. Các quy định tại
khoản 2 Điều 33 của Luật ĐGTS tương đối rõ
ràng, đầy đủ các thông tin cần thiết, qua đó
người tham gia đấu giá có thể biết được các
điều kiện tham gia đấu giá, trình tự, thời gian
thực hiện việc đấu giá, từ đó kết hợp việc xem
tài sản để quyết định việc đăng ký tham gia đấu
giá. Mặt khác, việc thực hiện các quy định này
sẽ buộc tổ chức đấu giá phải công khai, minh
bạch, hạn chế tiêu cực phát sinh từ việc xem
tài sản, bán hồ sơ, tổ chức đăng ký tham gia
đấu giá, tổ chức cuộc đấu giá và xử lý khoản
tiền đặt trước.
Khoản 1 và khoản 3 Điều 33 Luật ĐGTS
là những quy định hoàn toàn mới nhằm quy
định rõ và phát huy hơn nữa vai trò của Quy
chế cuộc đấu giá tài sản với các quy định như:
- Quy chế cuộc đấu giá áp dụng cho từng
cuộc đấu giá;
- Quy chế cuộc đấu giá được ban hành
trước ngày niêm yết việc đấu giá tài sản;
- Tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm
thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá4.
5. Về niêm yết việc đấu giá tài sản
Cùng với việc thông báo công khai, niêm
yết việc đấu giá tài sản là một thủ tục quan
trọng nhằm chuyển tải thông tin đấu giá tài sản
đến với nhiều người, đảm bảo sự công khai,
minh bạch, khách quan trong đấu giá tài sản.
Luật ĐGTS đã có những quy định mới về việc
niêm yết đấu giá tài sản như sau:
- Về nội dung niêm yết: Khoản 2 Điều 35
Luật ĐGTS đã bổ sung tương đối đầy đủ các
thông tin chính phải niêm yết, qua đó tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho người tham gia đấu giá
nắm được các thông tin cần thiết về việc đấu
giá tài sản, đồng thời ngăn chặn tình trạng một
số tổ chức đấu giá có những hành vi hạn chế
người tham gia đấu giá;
- Về địa điểm niêm yết: Luật ĐGTS bỏ quy
định bắt buộc phải niêm yết tại nơi có bất động
sản đấu giá vì thực tiễn thực hiện quy định này
thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn, khó khả
thi và mang tính hình thức.
- Về cách thức niêm yết: Theo quy định tại
khoản 3 Điều 35 Luật ĐGTS thì tổ chức đấu
giá phải lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết
đấu giá đối với mọi tài sản đấu giá (trước đây,
khoản 2 Điều 14 Thông tư số 23/2010/TT-BTP
chỉ bắt buộc thực hiện đối với tài sản là bất
động sản). Mặt khác, khoản 3 Điều 35 Luật
ĐGTS quy định: “đối với trường hợp niêm yết
tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản
đấu giá thì tổ chức đấu giá tài sản lưu tài liệu,
hình ảnh về việc niêm yết hoặc lập văn bản có
xác nhận về việc niêm yết của Ủy ban nhân dân
cấp xã” (trước đây là niêm yết tại nơi có bất
động sản theo khoản 2 Điều 14 Thôngtư số
23/2010/TT-BTP).
- Về thời gian niêm yết: Khoản 1 Điều 35
Luật ĐGTS đã tăng thời gian niêm yết đối với
tài sản đấu giá là động sản lên “ít nhất là 07
ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá” và
giảm thời gian niêm yết đối với tài sản là bất
động sản còn “ít nhất là 15 ngày trước ngày
mở cuộc đấu giá” (theo khoản 1 Điều 28 Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP thì thời gian niêm yết
đối với động sản “chậm nhất là bảy ngày trước
khi tiến hành bán đấu giá” và với bất động sản
“chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày mở
cuộc bán đấu giá”).
6. Thông báo công khai việc đấu giá
tài sản
Theo quy định tại khoản 4 Điều 35 Luật
ĐGTS, “Ngoài việc niêm yết quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức đấu giá
tài sản thực hiện thông báo công khai việc đấu
giá tài sản theo quy định tại Điều 57 của Luật
này theo yêu cầu của người có tài sản đấu giá”.
Theo quy định tại Điều 55 Luật ĐGTS quy
định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản mà pháp
luật quy định phải bán thông qua đấu giá thì
“Việc đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều
4 của Luật này được thực hiện theo trình tự,
thủ tục quy định tại Chương III của Luật này và
quy định tại Chương này”.
Khoản 1 Điều 57 Luật ĐGTS quy định:
“đối với tài sản đấu giá là động sản có giá khởi
4 Xem thêm: Nguyễn Thị Thu Hồng,“Tổ chức bán đấu giá cần ban hành nội quy hay quy chế bán đấu giá tài sản”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 6/2014, Tr.55-57
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
13
điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất
động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông
báo công khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc
báo hình của Trung ương hoặc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi có tài sản đấu giá
và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu
giá tài sản; mỗi lần thông báo công khai cách
nhau ít nhất 02 ngày làm việc”.
Căn cứ vào các quy định trên cho thấy:
- Về phạm vi tài sản phải thực hiện thủ tục
thông báo công khai việc đấu giá tài sản: Chỉ
bắt buộc áp dụng đối với tài sản mà pháp luật
quy định phải bán thông qua đấu giá nếu tài
sản đó là động sản có giá khởi điểm từ 50 triệu
đồng trở lên và bất động sản. Đối với tài sản
thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tự nguyện
lựa chọn dịch vụ đấu giá thì thực hiện thông
báo công khai việc đấu giá tài sản nếu người
có tài sản yêu cầu (trước đây, khoản 2 Điều 28
Nghị định 17/2010/NĐ-CP bắt buộc thông báo
công khai việc đấu giá đối với tất cả các loại
tài sản là động sản có giá khởi điểm từ 30 triệu
đồng trở lên/ hoặc dưới 30 triệu đồng mà
người có tài sản đấu giá yêu cầu và tài sản là
bất động sản).
- Về cách thức thực hiện việc thông báo:
Khoản 1 Điều 57 Luật ĐGTS đã bổ sung các
quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn, cụ thể:
+ Quy định rõ tổ chức đấu giá tài sản phải
thông báo công khai việc đấu giá tài sản trên
báo in hoặc báo hình của Trung ương hoặc
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử
chuyên ngành về đấu giá tài sản. Trước đây,
theo quy định của khoản 2 Điều 28 Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP thì tổ chức bán đấu giá tài
sản phải thông báo công khai “trên phương tiện
thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa
phương nơicó tài sản bán đấu giá”. Pháp luật
hiện không có quy định cụ thể “phương tiện
thông tin đại chúng” bao gồm những phương
tiện gì và “phương tiện thông tin đại chúng của
địa phương” là của cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp
xã, dẫn đến thực tế thời gian qua đã xảy ra tình
trạng một số tổ chức đấu giá bưng bít thông tin
nhằm hạn chế người tham gia đấu giá bằng
cách thông báo đấu giá tài sản trên một số trang
điện tử, đài phát thanh, trên một số loại báo in
mà rất ít người biết. Với sự ra đời và vận hành
của trang thông tin điện tử chuyên ngành về
đấu giá tài sản - nơi tập trung các thông tin về
đấu giá tài sản tới đây sẽ góp phần đảm bảo
cho thông tin của hầu hết các tài sản đấu giá
đều đến được với những người quan tâm và có
nhu cầu mua tài sản đấu giá.
+ Quy định thông báo công khai việc đấu
giá tài sản được thực hiện ít nhất là 02 lần, mỗi
lần thông báo công khai cách nhau ít nhất 02
ngày làm việc là phù hợp với thực tiễn hơn
(khoản 2 Điều 28 Nghị định số 17/2010/NĐ-
CP quy định mỗi lần cách nhau 03 ngày). Cách
tính thời hạn thực hiện theo Bộ luật dân sự năm
2015.
- Về thời gian thông báo: Theo quy định tại
khoản 3 Điều 57, “Thời gian thông báo công
khai lần thứ hai ít nhất là 07 ngày làm việc đối
với tài sản là động sản, 15 ngày đối với tài sản
là bất động sản trước ngày mở cuộc đấu giá”.
Như vậy, Luật ĐGTS đã tăng thời gian thông
báo công khai đối với động sản và giảm đối với
bất động sản; đồng thời quy định mốc tính thời
gian thông báo được tính từ lần thông báo thứ
hai chứ không tính từ lần thông báo đầu tiên
như quy định Điều 28 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP. Do vậy, các tổ chức đấu giá
tài sản cần lưu ý để thực hiện cho phù hợp.
- Bổ sung quy định bắt buộc tổ chức đấu
giá tài sản phải lưu tài liệu, hình ảnh về việc
thông báo công khai trong hồ sơ đấu giá
(khoản 5 Điều 57).
Như vậy, kể từ thời điểm Luật ĐGTS có
hiệu lực, với quy định về việc niêm yết, thông
báo công khai việc đấu giá tài sản như trên sẽ
góp phần ngăn chặn tình trạng các tổ chức đấu
giá bưng bít thông tin nhằm hạn chế người
tham gia đấu giá tài sản.
7. Về tổ chức cho người tham gia đấu giá
xem tài sản đấu giá
Theo quy định tại Điều 36 Luật ĐGTS thì
kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho
đến ngày mở cuộc đấu giá, tổ chức đấu giá phải
tổ chức cho người tham gia đấu giá được trực
tiếp xem tài sản hoặc mẫu tài sản trong khoảng
thời gian liên tục ít nhất là 02 ngày; trên tài sản
14
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
hoặc mẫu tài sản phải ghi rõ tên của người có
tài sản đấu giá và thông tin về tài sản đó. Như
vậy, Luật ĐGTS đã quy định việc xem tài sản
đấu giá áp dụng chung cho cả tài sản là động
sản và bất động sản, quy định rõ thời gian mà
người tham gia đấu giá được xem tài sản
(Trước đây, Điều 31 Nghị định số 17/2010/
NĐ-CP quy định về việc xem tài sản đối với tài
sản là động sản và bất động sản là khác nhau).
Luật ĐGTS đã bổ sung quy định buộc tổ chức
đấu giá tài sản phải tổ chức cho người tham gia
đấu giá xem giấy tờ về quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản và tài liệu liên quan trong khoảng
thời gian liên tục ít nhất là 02 ngày đối với tài
sản đấu giá là quyền tài sản hoặc tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng (khoản 2
Điều 36).
8. Về đăng ký tham gia đấu giá
Về cơ bản, Điều 38 Luật ĐGTS đã kế thừa
quy định tại Điều 29 Nghị định số 17/2010/
NĐ-CP về đăng ký tham gia đấu giá. Tuy nhiên,
để ngăn ngừa tình trạng thực tế đã xảy ra (một
số tổ chức đấu giá gây khó khăn cho người
tham gia đấu giá trong việc mua hồ sơ và hạn
chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia
đấu giá), tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho
người tham gia đấu giá, đảm bảo việc đăng ký
tham gia đấu giá được minh bạch, công bằng,
Luật ĐGTS đã bổ sung quy định buộc tổ chức
đấu giá tài sản phải “bán hồ sơ tham gia đấu
giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ
hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc
đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc
đấu giá 02 ngày” (khoản 2 Điều 38 Luật
ĐGTS).
Luật ĐGTS không cho phép người có tài
sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản đặt thêm
yêu cầu, điều kiện đối với người tham gia đấu
giá ngoài những điều kiện đăng ký tham gia
đấu giá quy định tại Luật ĐGTS và pháp luật
có liên quan (khoản 3 Điều 38 Luật ĐGTS).
Về những người không được đăng ký tham
gia đấu giá, khoản 4 Điều 38 Luật ĐGTS đã cơ
bản kế thừa các quy định tại Điều 30 Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP, đồng thời bổ sung một số
quy định mới như:
- Bổ sung một số trường hợp trường hợp
không được tham gia đấu giá như các trường
hợp: người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi (điểm a khoản 4 Điều 38), cha, mẹ,
vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền xử lý
tài sản, người có quyền quyết định bán tài sản,
người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản,
người có quyền quyết định bán tài sản của
người khác theo quy định của pháp luật (điểm
c, d khoản 4 Điều 38 Luật ĐGTS).
- Mở rộng phạm vi đối tượng được tham
gia đấu giá: cho phép cha, mẹ, vợ, chồng, con,
anh ruột, chị ruột, em ruột, của những người
làm việc trong tổ chức đấu giá tài sản thực hiện
cuộc đấu giá được tham gia, trừ cha, mẹ, vợ,
chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của đấu
giá viên điều hành cuộc đấu giá đó (điểm b
khoản 4 Điều 38 Luật đấu giá tài sản). Trước
đây, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (khoản 2
Điều 30) cấm tất cả các đối tượng này tham gia
đấu giá.
9. Về tiền đặt trước và xử lý tiền đặt
trước
Điều 39 Luật ĐGTS có một số điểm mới
như:
- Nâng mức tiền đặt trước cao hơn (tối
thiểu là 5% và tối đa là 20% giá khởi điểm của
tài sản đấu giá) nhằm hạn chế những đối tượng
không thực sự có nhu cầu mua nhưng vẫn tham
gia đấu giá để trục lợi, gây khó khăn cho cuộc
đấu giá (trước đây, Điều 29 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP quy định mức tiền đặt trước
tối thiểu là 1% và tối đa không quá 15% giá
khởi điểm của tài sản bán đấu giá);
- Sửa đổi phương thức thu tiền đặt trước
nhằm nâng cao tính minh bạch trong hoạt động
đấu giá tài sản, phù hợp với các quy định của
pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt:
tiền đặt trước phải được gửi vào một tài khoản
thanh toán riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở
tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam; trường hợp khoản
tiền đặt trước có giá trị dưới 05 triệu đồng thì
người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp cho
tổ chức đấu giá tài sản;
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
15
- Cho phép người tham gia đấu giá và tổ
chức đấu giá tài sản có thể thỏa thuận thay thế
tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng (theo
Điều 29 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì chỉ
có duy nhất một hình thức là người tham gia
đấu giá nộp khoản tiền đặt trước bằng tiền mặt
cho tổ chức đấu giá tài sản);
- Ấn định rõ thời hạn mà tổ chức đấu giá
được thu và phải trả lại khoản tiền đặt trước:
chỉ được thu trong thời hạn 03 ngày làm việc
trước ngày mở cuộc đấu giá, trừ trường hợp tổ
chức đấu giá tài sản và người tham gia đấu giá
có thỏa thuận khác nhưng phải trước ngày mở
cuộc đấu giá và phải trả lại khoản tiền đặt trước
cho người không trúng đấu giá và thanh toán
tiền lãi (nếu có) trong thời hạn 03 ngày làm
việc kể từ ngày kết thúc cuộc đấu giá hoặc
trong thời hạn khác do các bên thỏa thuận, trừ
trường hợp không được nhận lại tiền đặt trước
quy định tại khoản 6 Điều 39 Luật ĐGTS
(khoản 2, 4 Điều 39 Luật ĐGTS);
- Ngoài ba trường hợp người tham gia đấu
giá không được nhận lại tiền đặt trước đã được
quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, Luật
ĐGTS đã bổ sung một số trường hợp người
tham gia đấu giá không được nhận lại tiền đặt
trước (người tham gia đấu giá bị truất quyền
tham gia đấu giá do có hành vi vi phạm quy định
tại khoản 5 Điều 9 của Luật ĐGTS, người trúng
đấu giá từ chối ký biên bản đấu giá), đồng thời
gộp các trường hợp người tham gia đấu giá
không được nhận lại tiền đặt trước vào cùng một
điều khoản (khoản 6 Điều 39 Luật ĐGTS).
Ngoài ra, để tháo gỡ, giải quyết những khó
khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hiện
nay, Luật ĐGTS đã bổ sung quy định về xử lý
khoản tiền đặt trước của người trúng đấu giá,
theo đó trường hợp trúng đấu giá thì khoản tiền
đặt trước và tiền lãi (nếu có) được chuyển thành
tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện giao kết hoặc
thực hiện hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc
thực hiện nghĩa vụ mua tài sản đấu giá sau khi
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Việc xử
lý tiền đặt cọc thực hiện theo quy định của pháp
luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có
liên quan (khoản 5 Điều 39 Luật ĐGTS);
- Cấm các tổ chức đấu giá tài sản quy định
thêm các trường hợp người tham gia đấu giá
không được nhận lại tiền đặt trước trong Quy
chế cuộc đấu giá ngoài các trường hợp đã quy
định khoản 6 Điều 39 Luật ĐGTS. Thực tiễn
hiện nay, ngoài ba trường hợp người tham gia
đấu giá không được trả lại tiền đặt trước đã
được quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-
CP, nhiều tổ chức đấu giá đã quy định thêm
nhiều trường hợp người tham gia đấu giá
không được trả lại tiền đặt trước trong nội
quy/quy chế bán đấu giá tài sản (khoản 7 Điều
39 Luật ĐGTS);
- Sửa đổi về chủ thể có quyền nhận khoản
tiền đặt trước của người tham gia đấu giá trong
trường hợp không hoàn trả lại, theo đó khoản
tiền này sẽ thuộc về người có tài sản đấu giá,
trong trường hợp người có tài sản đấu giá là
cơ quan nhà nước thì tiền đặt trước được nộp
vào ngân sách nhà nước theo quy định của
pháp luật, sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản
(Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định hai
trường hợp khoản tiền đặt trước thuộc về tổ
chức bán đấu giá là trường hợp người trả giá
cao nhất rút lại giá đã trả và không tham gia
cuộc đấu giá mà không thuộc trường hợp bất
khả kháng).
10. Về đấu giá theo thủ tục rút gọn
Bên cạnh trình tự, thủ tục chung, Điều 53
Luật ĐGTS đã quy định trình tự, thủ tục đấu
giá theo thủ tục rút gọn để tạo điều kiện xử lý
nhanh, phù hợp với thực tiễn đối với một số
trường hợp đặc thù, qua đó tiết kiệm thời gian,
chi phí cho việc xử lý tài sản. Đây là quy định
hoàn toàn mới so với pháp luật trước đây. Tổ
chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá
có thể thỏa thuận thực hiện việc đấu giá theo
thủ tục rút gọn trong các trường hợp: đấu giá
tài sản thi hành án, tài sản là tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu mà giá khởi
điểm của tất cả tài sản đấu giá trong một cuộc
đấu giá dưới 50 triệu đồng; đấu giá lại trong
trường hợp đã đấu giá lần thứ hai nhưng vẫn
không thành và đấu giá tài sản thuộc sở hữu
của cá nhân, tổ chức mà các bên thỏa thuận lựa
chọn theo trình tự, thủ tục rút gọn.
16
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Trường hợp đấu giá theo thủ tục rút gọn, tổ
chức đấu giá vẫn phải thực hiện các thủ tục
tương tự như trường hợp đấu giá thông thường,
chỉ khác ở một số thủ tục sau:
- Giảm thời gian niêm yết việc đấu giá tài
sản: tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc
đấu giá tài sản là động sản ít nhất là 03 ngày
làm việc, tài sản là bất động sản ít nhất là 05
ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá
(khoản 2 Điều 53 Luật ĐGTS);
- Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham
gia đấu giá, tổ chức tiếp nhận hồ sơ tham gia
đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ
ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến
trước ngày mở cuộc đấu giá 01 ngày (khoản 3
Điều 53 Luật ĐGTS).
- Tổ chức đấu giá tài sản thông báo công
khai một lần việc đấu giá tài sản trên báo in
hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu
giá (khoản 2 Điều 57 Luật ĐGTS).
Trên đây là những điểm mới của Luật
ĐGTS về trình tự, thủ tục trước khi tổ chức
cuộc đấu giá. Đây là những nội dung quan trọng
mà nếu được thực hiện đúng sẽ góp phần đảm
bảo cho cuộc đấu giá được tổ chức thành công,
đạt hiệu quả. Với những quy định trên, có thể
thấy Luật ĐGTS đã có những thay đổi cơ bản,
toàn diện nhằm tiếp tục công khai hóa, minh
bạch hóa hơn nữa hoạt động đấu giá tài sản, tạo
cơ sở thúc đẩy dịch vụ đấu giá phát triển theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.
Ngoài ra theo quy định tại Khoản 8 Điều
70 Hiến pháp năm 2013, các thành viên
Chính phủ đều thuộc đối tượng chịu hình
thức giám sát “bỏ phiếu tín nhiệm” của Quốc
hội. Theo quy định tại Điều 70, 74, 77 Hiến
pháp năm 2013, Chính phủ và các thành viên
Chính phủ cũng là đối tượng chịu sự giám sát
tối cao của Quốc hội, chịu sự giám sát của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc
và các ủy ban của Quốc hội. Theo quy định
tại Điều 80 Hiến pháp năm 2013, Chính phủ
và các thành viên Chính phủ có thể bị đại
biểu Quốc hội chất vấn.
Điều bổ sung, phát triển quan trọng trong
các quy định của Hiến pháp năm 2013 rất cần
nhắc ở đây chính là sự bổ sung quy định báo
cáo trước nhân dân của các thành viên Chính
phủ. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 6 Điều
98, Thủ tướng Chính phủ “thực hiện chế độ
báo cáo trước nhân dân thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ”. Khoản 2 Điều
99 Hiến pháp năm 2013 quy định “Bộ trưởng
thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về
những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm
quản lý”./.
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp năm 1946
2. Hiến pháp năm 2013
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Hà Nội,
Nxb Chính trị quốc gia, 2016)
4. Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 (Khóa
XII).
5. TS. Uông Chu Lưu (chủ biên), Hiến
pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 và thành tựu lập pháp trong
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (Hà Nội, Nxb
Chính trị quốc gia, 2016).
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ THEO HIẾN PHÁP NĂM 1946
VÀ SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
(Tiếp theo trang 8)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- diem_moi_cua_luat_dau_gia_tai_san_nam_2016_ve_trinh_tu_thu_t.pdf