Kết luận
Doanh nghiệp là đơn vị cơ sở của nền kinh tế, là nơi trực tiếp tạo việc làm
cho người lao động, tạo các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội, tạo
nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sức mạnh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
là yếu tố quyết định thực lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Trong những năm vừa qua, tuy được phát triển khá nhanh và có những đóng
góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng sự phát
triển ấy còn thấp xa so với tiềm năng và yêu cầu. Để thúc đẩy sự gia tăng về số
lượng và nâng cao chất lượng các loại hình doanh nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề từ nhiều phía khác nhau. Tiếp tục đổi mới tư duy về phát triển
và quản lý sự phát triển là nền tảng cơ bản của đổi mới, hoàn thiện các quan điểm,
cơ chế chính sách và công tác quản lý điều hành nhằm thúc đẩy phát triển có hiệu
quả và bền vững các loại hình doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới tư duy trong phát triển các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13
ĐỔI MỚI TƢ DUY TRONG PHÁT TRIỂN
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Tóm tắt
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển có hiệu quả
và bền vững của nền kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển hiệu quả và bền
vững của hệ thống doanh nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của hệ thống doanh
nghiệp chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chất lượng thể chế.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở
hữu và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các loại hình doanh nghiệp ở nước
ta đã được phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những đóng góp tích cực vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp cũng bộc lộ nhiều yếu kém bất cập,
trong đó nổi bật là năng lực cạnh tranh còn thấp kém. Để tranh thủ cơ hội và vượt
qua thách thức của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi phải giải
quyết đồng bộ nhiều vấn đề từ bản thân các doanh nghiệp và từ các cơ quan quản lý
nhà nước.
Bài viết phân tích quá trình phát triển hệ thống doanh nghiệp, xác định xu
hướng vận động của các loại hình doanh nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị đổi
mới tư duy để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh
nghiệp ở nước ta.
Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, Loại hình doanh nghiệp, Thể chế kinh tế thị trường.
Giới thiệu
Thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển các hình
thức sở hữu và các thành phần kinh tế, ngày 21/12/1990, Quốc hội khóa 8 đã thông
qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Các luật này quy định về tổ chức
và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân (công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân). Sau gần 9 năm
thực hiện, ngày 12/06/1999, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay
thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Ngoài quy định về các loại
hình doanh nghiệp nêu trên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 còn bổ sung loại hình
công ty hợp danh và quy định loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
là tổ chức.
14
Cùng với việc ban hành đạo luật về các loại hình doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân, ngày 20/04/1995, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh
nghiệp nhà nước. Luật này quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của
Nhà nước đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 26/11/2003, Quốc hội
khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước mới thay thế cho Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 1995. Luật này quy định 3 mô hình quản lý các doanh nghiệp
nhà nước: công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước và công ty cổ
phần nhà nước.
Việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(doanh nghiệp FDI) được quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài do Quốc hội khóa 9
thông qua ngày 12/11/1996.
Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và hướng tới xóa bỏ sự phân biệt
giữa doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế ngoài
nhà nước, ngày 29/11/2005, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp
(2005). Đạo luật này đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp
nhà nước năm 2003 và các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh
nghiệp FDI tại Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996.
Ngày 26/11/2014, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm
2014 thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo luật này, các loại hình doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty
hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; nhóm công ty.
Việc bổ sung và sửa đổi các đạo luật về doanh nghiệp để hình thành một đạo
luật chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp đã tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi
cho việc phát triển mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp ở nước ta, từ đó, huy động
được rộng rãi các các nguồn lực trong xã hội vào đầu tư phát triển và đóng góp to
lớn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết quả
tích cực đã đạt được, những yếu kém của hệ thống doanh nghiệp và thực thi Luật
Doanh nghiệp cũng bộc lộ ngày càng rõ. Về phía các doanh nghiệp, tuy có sự tăng
lên về số lượng, nhưng nguồn lực tài chính, trình độ trang bị công nghệ, chất lượng
tổ chức quản trị điều hành, hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp còn thấp kém. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, việc đổi mới hoạt
động theo tinh thần “đồng hành cùng doanh nghiệp, phục vụ doanh nghiệp” còn
chậm, chưa tạo lập được môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, chưa tháo gỡ được những khó khăn cản trở hoạt động
đầu tư – kinh doanh
15
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư tạo ra những cơ hội to lớn và đặt ra những thách thức gay
gắt với nền kinh tế nước ta nói chung, hệ thống doanh nghiệp nói riêng. Để phát
triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề trên nền tảng đổi mới tư duy về phát triển và quản lý quá
trình phát triển. Dưới đây xin trình bày khái quát tình hình phát triển các loại
hình doanh nghiệp ở nước ta và một số khuyến nghị về đổi mới tư duy nhằm
thúc đẩy phát triển có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp trong bối cảnh phát
triển mới.
Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong giai đoạn 2000 - 2016
Trong quá trình thực hiện chủ trương về phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, hệ thống doanh nghiệp ở nước ta
đã được phát triển mạnh mẽ với các loại hình khác nhau (Bảng 1).
Bảng 1: Số lƣợng và tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp
Loại hình
doanh nghiệp
2000 2005 2010 2015 2016
Số
lƣợng
%
Số
lƣợng
%
Số
lƣợng
%
Số
lƣợng
%
Số
lƣợng
%
Tổng số 42.228 100,0 112.950 100,0 279.360 100,0 442.485 100,0 505.059 100,0
Doanh nghiệp nhà nước 5.759 13,62 4.086 3,62 3.281 1,18 2.835 0,64 2.662 0,52
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 35.004 82,78 105.167 93,11 268.831 96,23 427.710 96,66 488.395 96,71
Doanh nghiệp tư nhân 20.548 48,59 34.646 30,67 48.007 17,18 47.741 10,79 48.409 9,59
Công ty hợp danh 4 0,01 37 0,03 79 0,03 751 0,13 859 0,17
Công ty TNHH 10.458 24,73 52.505 46,49 163.978 58,70 287.786 65,04 336.884 66,70
Công ty cổ phần 757 1,80 11.645 10,31 56.767 20,32 91.592 20,70 102.243 20,25
Doanh nghiệp FDI 1.525 3,61 3.697 3,27 7.248 2,59 11.940 2,7 14.002 2,77
100% vốn nước ngoài 854 2,02 2.852 2,52 5.989 2,14 10.238 2,31 11.974 2,37
Liên doanh 671 1,59 854 0,75 1.259 0,45 1.702 0,39 2.028 0,40
Nguồn: Niên giám thống kê 2005, 2010 và 2017
Từ các số liệu trong Bảng 1, có thể nhận diện được hai xu hướng phát triển
các loại hình doanh nghiệp ở nước ta:
1/ Sự thay đổi trong cơ cấu các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế.
16
Số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống rõ rệt. Năm 2000, có 5.759
doanh nghiệp, chiếm 13,62% tổng số doanh nghiệp; năm 2016, còn 2.662 doanh
nghiệp, giảm gần 2,2 lần và chỉ chiếm 0,52% tổng số doanh nghiệp.
Số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước trong nước và doanh nghiệp doanh
nghiệp FDI tăng lên mạnh mẽ. Năm 2000, chỉ có 35.004 doanh nghiệp ngoài nhà
nước; năm 2016 đã có 488.395 doanh nghiệp, tăng gần 14 lần và chiếm tới 96,71%
tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp FDI tăng hơn 9 lần, từ 1.525 đơn vị năm
2000, lên 14.002 đơn vị năm 2016, chiếm 2,77% tổng số doanh nghiệp.
Sự thay đổi về số lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong quá
trình này là kết quả của việc thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng tập trung hơn vào những
lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh tế nhằm thu
hút rộng rãi các nguồn lực trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển.
2/ Sự thay đổi trong cơ cấu các loại hình doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu chuyển đổi sang mô hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong khu vực kinh tế tư nhân, loại hình doanh
nghiệp một chủ sở hữu (doanh nghiệp tư nhân) tuy có tăng về số lượng, nhưng với
tốc độ không cao và tỉ trọng trong tổng số các loại hình doanh nghiệp có xu hướng
giảm khá mạnh. Năm 2000 có 20.548 doanh nghiệp tư nhân, chiếm 48,59% tổng số
doanh nghiệp; năm 2016 có 48.409 doanh nghiệp, tăng 2,36 lần nhưng chỉ còn
chiếm 9,59%. Trong khi đó, các loại hình doanh nghiệp đa chủ sở hữu (công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần) có xu hướng tăng lên mạnh mẽ và trở thành
lực lượng chủ yếu trong các loại hình doanh nghiệp. Năm 2000, có 10.458 công ty
trách nhiệm hữu hạn, chiếm 24,73% tổng số doanh nghiệp, 757 công ty cổ phần,
chiếm 1,8%; năm 2016, có 336.884 công ty trách nhiệm hữu hạn, tăng hơn 32 lần
và chiếm 66,70%, 102.243 công ty cổ phần, tăng 135 lần, chiếm 20,25%. Với kết
quả của quá trình đa dạng hóa hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước thông qua
cổ phần hóa, số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước (không chi phối) cũng tăng
lên đáng kể: năm 2000 có 305 đơn vị; năm 2016 tăng lên 1.710 đơn vị.
Sự thay đổi về số lượng và cơ cấu các loại hình doanh nghiệp đa chủ sở hữu
thể hiện xu hướng phát triển quan hệ liên kết giữa các chủ sở hữu cá biệt để tăng
năng lực đầu tư và kinh doanh. Sự thay đổi này phù hợp với xu hướng phát triển các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Gắn liền với sự thay đổi của các loại hình doanh nghiệp là sự thay đổi cơ cấu
lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp ấy (Bảng 2).
17
Bảng 2: Số lƣợng và tỷ trọng lao động trong các loại hình doanh nghiệp
Loại hình
doanh nghiệp
2000 2005 2010 2015 2016
Số
lượng
(1.000
người)
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
(1.000
người)
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
(1.000
người)
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
(1.000
người)
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
(1.000
người)
Tỷ
trọng
(%)
Tổng số 3.537 100,0 6.237,4 100,0 9.741,8 100,0 12.856,9 100,0 14.012,3 100,0
Doanh nghiệp nhà
nước
2.089 59,05 2.037,7 32,67 1.602,7 16,45 1.371,6 10,64 1.285,9 9,18
Doanh nghiệp ngoài
nhà nước
1.041 29,43 2.979,1 47,76 5.983,01 61,42 7.712,6 59,99 8.572,45 61,17
Doanh nghiệp tư nhân 236,3 6,68 481,4 7,72 631,0 6,48 470,2 3,66 472,5 3,37
Công ty hợp danh 0,113 0,00 490 0,01 1,0 0,01 4,5 0,04 6,2 0,04
Công ty TNHH 516,8 14,61 1.594,8 25,56 3.086,9 31,69 4.103,8 31,92 4.608,9 32,89
Công ty cổ phần 104,5 2,89 742,4 11,90 1.264,1 23,24 3.134,1 24,01 3.848,9 24,87
Doanh nghiệp FDI 407,6 11,52 1.220,6 19,57 2.156,1 22,13 3.772,7 29,34 4.154,0 29,65
100% vốn nước ngoài 286 8,09 1.028,5 16,49 1.902,4 19,53 3.469,7 26,99 3.817,9 27,25
Liên doanh 121,6 3,44 192,1 3,08 253,7 2,60 303,0 2,63 336,1 2,40
Nguồn: Niên giám thống kê 2005, 2010 và 2017
Có hai nhận xét rút ra từ số liệu ở Bảng 2:
1/ Trong vòng 17 năm (2000 – 2016), khi tổng số lao động làm việc trong
khu vực doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tăng gần 4 lần, từ 3.537 ngàn
người năm 2000 lên 14,012 ngàn năm 2016, thì lao động của các doanh nghiệp nhà
nước giảm hơn 1,6 lần, từ 2.089 ngàn xuống còn 1.286 ngàn, của các doanh nghiệp
ngoài nhà nước tăng hơn 8,2 lần, từ 1.042 ngàn lên 8.572 ngàn, của các doanh
nghiệp FDI tăng hơn 10 lần, từ 407,6 ngàn lên 4.154 ngàn. Các doanh nghiệp ngoài
nhà nước và các doanh nghiệp FDI đã trở thành lực lượng chủ yếu tạo việc làm cho
người lao động, qua đó góp phần tích cực vào giải quyết các vấn đề xã hội.
2/ Nếu xét quy mô doanh nghiệp theo tiêu chí lao động quy định tại Nghị
định 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thì hiện nay các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là doanh
nghiệp quy mô lớn, còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI là
các doanh nghiệp quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Năm 2016, số lao động bình quân
của một doanh nghiệp nhà nước là 483 người, của một doanh nghiệp ngoài nhà
nước là hơn 17 người và doanh nghiệp FDI là hơn 296 người. Trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước, số lao động bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ là
18
dưới 10 người, của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ gần 14 người và của công ty cổ
phần là hơn 37 người. Trong các doanh nghiệp FDI, số lao động bình quân của một
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hơn 19 người và của doanh nghiệp liên
doanh là hơn 16 người. Tính chung, có 385,3 nghìn doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 10
lao động), chiếm 74,4% tổng số doanh nghiệp.
Việc xem xét theo tiêu chí vốn kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp,
sẽ thấy rõ hơn năng lực kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp (Bảng 3).
Bảng 3: Tổng vốn kinh doanh bình quân hàng năm
của các loại hình doanh nghiệp
Loại hình
doanh nghiệp
2000 2005 2010 2015 2016
Giá trị
(1.000 tỉ
VND)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
(1.000 tỉ
VND)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
(1.000 tỉ
VND)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
(1.000 tỉ
VND)
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
(1.000 tỉ
VND)
Tỷ
trọng
(%)
Tổng số 998,4 100,0 2.430,7 100,0 10.841,1 100,0 22.144,2 100,0 26.049,1 100,0
Doanh nghiệp nhà
nước
670,3 67,13 1.333,9 51,92 3.701,8 34,13 6.944,9 31,36 7.608,9 29,21
Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
98,35 9,86 607,3 28,16 5.451,8 50,30 11.020,9 49,77 13.713,2 52,64
Doanh nghiệp tư
nhân
15,8 1,59 62,2 2,68 323,9 2,99 402,0 1,82 296,4 1,14
Công ty hợp danh - - 0,05 0,002 0,6 0,01 3,4 0,02 3,7 0,01
Công ty TNHH 44,5 4,46 275,9 11,35 2.084,9 19,23 4.828,2 21,8 4.438 17,04
Công ty cổ phần 30,2 3,02 254,1 10,46 3.042,4 28,07 5.787,3 26,13 8.974,2 34,45
Doanh nghiệp FDI 229,5 23,02 489,5 20,14 1.687,5 15,57 4.187,3 18,87 4.727,5 18,15
100% vốn nước
ngoài
83,9 8,4 277,2 10,40 1.050,3 9,69 3.384,4 15,28 3.857,3 14,81
Liên doanh 145,9 14,62 212,4 8,74 637,2 5,88 794,0 3,59 870,2 3,34
Nguồn: Niên giám thống kê 2005, 2010 và 2017
Tuy chỉ chiếm 0,52% tổng số doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp nhà
nước lại chiếm tới 29,21% tổng vốn kinh doanh bình quân của cả hệ thống doanh
nghiệp. Mặc dù chiếm tới 96,77% số lượng doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp
ngoài nhà nước trong nước lại chỉ chiếm có 52,64% tổng vốn kinh doanh. Điều này
trực tiếp phản ánh các doanh nghiệp ngoài nhà nước có quy mô nhỏ bé, trình độ
trang bị công nghệ và năng lực đổi mới công nghệ thấp kém.
19
Trong khi vốn kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp nhà nước đạt
mức 2.858 tỷ đồng, thì mức này của một doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ là 28 tỷ
đồng, trong đó của một doanh nghiệp tư nhân là hơn 6 tỷ đồng, của một công ty
trách nhiệm hữu hạn là 13 tỷ đồng và của một công ty cổ phần là 87 tỷ đồng. Mức
vốn của các doanh nghiệp liên doanh cũng chỉ đạt 429 tỷ đồng, cao hơn các doanh
nghiệp ngoài nhà nước trong nước, nhưng còn thấp xa so với các doanh nghiệp
nhà nước.
Do sự khác biệt về năng lực tài chính, trình độ trang bị công nghệ và năng
lực quản lý,nên hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp
cũng rất khác nhau. Nếu so sánh chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận bình quân (Lợi nhuận
trước thuế/Doanh thu thuần) của các doanh nghiệp có thể thấy: trong năm 2016, các
doanh nghiệp FDI có tỷ suất lợi nhuận cao nhất (6,88%), trong đó các doanh nghiệp
liên doanh với nước ngoài đạt 12,89%, tiếp theo là các doanh nghiệp nhà nước
(6,62%), cuối cùng là các doanh nghiệp ngoài nhà nước (1,88%), trong đó các
doanh nghiệp tư nhân chỉ đạt 1,19%, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1,28%, công
ty cổ phần không có vốn nhà nước đạt 2,07%.
Một số kết luận rút ra từ thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp
Từ khái quát thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp trong thời kỳ
2000 – 2016, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở thực
hiện chủ trương chiến lược về đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế là biểu hiện tập trung của sự đổi mới tư duy trong phát triển kinh tế ở Việt
Nam. Sự đổi mới ấy gắn liền với quá trình nhận thức lại mô hình kinh tế xã hội chủ
nghĩa, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và về kinh tế thị trường. Nếu trong
thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung theo mô hình kinh tế xã hội chủ
nghĩa trước đây, trong nền kinh tế chỉ tồn tại các xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu
nhà nước, thì ngày nay trong nền kinh tế đã có đầy đủ các loại hình doanh nghiệp
của nền kinh tế thị trường. Đó là sự phát triển phù hợp với yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường hiện đại.
Trong bối cảnh phát triển mới, việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nhất quán
tư duy về phát triển và quản lý sự phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại
vẫn phải được coi là điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Theo quy định về quyền tự do kinh
doanh trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp, người dân có quyền lựa chọn loại
hình doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu và điều kiện kinh doanh của mình. Các cơ
quan quản lý nhà nước có trách nhiệm xây dựng những quy định pháp lý rõ ràng về
20
tổ chức và hoạt động của mỗi loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay vẫn đang
tồn tại những quy định pháp lý và hành xử của cơ quan quản lý nhà nước gây khó
khăn, phiền hà cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó chủ
yếu là các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, phân biệt đối
xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Thứ hai, trong xu hướng chung về phát triển các loại hình doanh nghiệp, sự
phát triển mạnh mẽ của loại hình doanh nghiệp đa chủ sở hữu thuộc các hình thức
sở hữu khác nhau, chủ yếu là loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên, là xu hướng chủ đạo trong phát triển các loại hình tổ
chức kinh doanh. Sự hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp này là kết
quả trực tiếp của quan hệ liên kết giữa các chủ sở hữu để hình thành hình thức sở
hữu hỗn hợp trong một pháp nhân kinh tế. Pháp nhân kinh tế này có thể bao gồm
các chủ thể cùng thuộc một hình thức sở hữu (sở hữu nhà nước hoặc sở hữu tư
nhân), hoặc bao gồm các chủ thể thuộc các hình thức sở hữu khác nhau (sở hữu nhà
nước với sở hữu tư nhân). Người góp vốn có thể không trực tiếp tham gia quá trình
điều hành doanh nghiệp, mà ủy quyền quản lý, sử dụng tiền vốn thuộc sở hữu của
mình cho những người do họ lựa chọn theo những cách thức khác nhau, nghĩa là có
sự tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tiền vốn, tài sản. Các
loại hình doanh nghiệp đa sở hữu thể hiện trình độ xã hội hóa cao hơn so với loại
hình doanh nghiệp đơn sở hữu, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Các loại hình
doanh nghiệp này có ưu thế nổi trội trong việc thu hút rộng rãi các nguồn lực xã hội
vào đầu tư phát triển, nắm bắt cơ hội kinh doanh, đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ
công nghệ và năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Thứ ba, chất lượng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nói chung, của các
loại hình doanh nghiệp nói riêng ở Việt Nam còn thấp kém.
Trong khi khẳng định những đóng góp tích cực của các doanh nghiệp vào
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu và đóng góp vào ngân sách
nhà nước, cũng cần thấy rằng: không phải chỉ số lượng doanh nghiệp ở nước ta còn
ít ỏi so với yêu cầu và tiềm năng phát triển, mà chủ yếu là chất lượng hoạt động
của các doanh nghiệp còn thấp kém so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế. Theo Báo cáo Điều tra kinh tế năm 2017 của Tổng
cục Thống kê, các doanh nghiệp quy mô lớn chỉ chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp,
các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm tới 98,1%, trong đó doanh nghiệp
vừa chiếm 1,6%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 22,1% và doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm
74,4%. Trong tình hình chung này, mỗi loại hình doanh nghiệp lại có những biểu
hiện yếu kém cụ thể khác nhau.
21
Với các doanh nghiệp nhà nước, yếu kém nổi bật là hiệu quả sản xuất kinh
doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng
với nguồn lực Nhà nước đầu tư và những ưu đãi được nhận. Tình trạng nợ nần, thua
lỗ, thất thoát các nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước còn lớn. Hiện nay, tổng
số nợ của các doanh nghiệp nhà nước lên đến mức hơn 1,5 triệu tỷ đồng, bằng
56,5% tổng nguồn vốn; Tính bình quân chung, Hệ số nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu là
1,25 lần, một số tổng công ty ở mức trên 3 lần, cá biệt có những công ty hệ số này
lên đến hàng chục lầnVới những yếu kém này, các doanh nghiệp nhà nước chưa
thể hiện được vai trò kỳ vọng trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần.
Đại bộ phận các doanh nghiệp ngoài nhà nước trong nước có quy mô nhỏ
và siêu nhỏ, trình độ trang bị công nghệ, năng lực quản trị thấp kém, thiếu sự liên
kết trong phát triển. Điều này thể hiện không những với loại hình doanh nghiệp tư
nhân, mà còn cả với loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó
là những yếu tố chủ yếu cản trở thành phần kinh tế tư nhân phát huy vai trò “động
lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hạn chế của các doanh nghiệp FDI là tác động lan tỏa tới các doanh nghiệp
trong nước trong việc tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp. Số
doanh nghiệp có trình độ trang bị công nghệ cao chưa nhiều; phần lớn các doanh
nghiệp có trình độ trang bị công nghệ ở mức trung bình, đầu tư vào Việt Nam chủ
yếu để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng thấp và giá rẻ. Một số doanh nghiệp
quản lý không minh bạch, có tình trạng chuyển giá, trốn thuế
Thứ tư, còn tồn tại nhiều bất cập trong quản lý nhà nước về kinh tế cản trở
sự phát triển có hiệu quả và bền vững hệ thống doanh nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều đổi mới, nhưng quản lý nhà nước về kinh tế chưa theo
kịp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Nhìn chung, chất lượng thể chế và chất lượng hoạt động của bộ máy
quản lý nhà nước về kinh tế chưa thể hiện rõ tinh thần xây dựng mô hình Nhà nước
kiến tạo phát triển, Nhà nước hỗ trợ và phục vụ phát triển doanh nghiệp. Nhiều yếu
tố cản trở sự phát triển các doanh nghiệp tồn tại từ nhiều năm nay vẫn chưa được
tháo gỡ một cách cơ bản. Tình trạng bất bình đẳng, phân biệt đối xử với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước thường gặp
nhiều khó khăn hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI
trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng chính
thức và đất đai. Tuy trong thời gian gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã cắt
giảm các quy định về điều kiện kinh doanh và thủ tục thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành, nhưng số điều kiện kinh doanh cắt giảm vẫn chưa đạt yêu cầu của Chính phủ
22
đặt ra. Trong quá trình này, một số nội dung thay đổi về điều kiện kinh doanh vẫn
mang tính hình thức, hơn là mục tiêu vì cải cách, vì doanh nghiệp, chưa thể hiện
được thực chất tinh thần “cắt giảm”.
Đổi mới tƣ duy để thúc đẩy phát triển có hiệu quả và bền vững các loại
hình doanh nghiệp
Để thúc đẩy phát triển các loại hình doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề từ phía các nhà đầu tư và từ phía các cơ quan quản lý nhà
nước. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chỉ xin đề cập một số vấn đề về đổi mới tư
duy trong phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nước ta.
Đổi mới tư duy về các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế
Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp là biểu hiện cụ thể của sự phát triển
các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Do vậy, để thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, cần tiếp tục đổi mới tư duy về
các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Xin nêu một số khía cạnh trong tổng thể các vấn đề phức tạp về hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế.
- Tư duy về cơ sở giải quyết vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế làm nền
tảng để phát triển các loại hình doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta, việc giải quyết
vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế phải dựa trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan
về sự phù hợp của quan hệ sở hữu với sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong khi nhận
thức rằng, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác, là
tiêu chuẩn khách quan phân biệt các chế độ xã hội khác nhau, nhưng cũng không thể
quên rằng sự phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, cơ sở
hạ tầng là yếu tố quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này hoàn toàn không mới về lý
luận, nhưng cần thiết phải nhấn mạnh vì đây là cơ sở để phòng ngừa các hành vi lạm
dụng tác động tích cực của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất, của kiến trúc
thượng tầng đến cơ sở hạ tầng mà thoát ly các điều kiện thực tại của lực lượng sản xuất
và cơ sở hạ tầng. Sự lạm dụng này là biểu hiện trực tiếp của việc vi phạm quy luật
khách quan, ảnh hưởng đến sự phát triển các loại hình doanh nghiệp.
- Tư duy về cơ sở phân chia các thành phần kinh tế.
Trên thực tế, việc phân chia các thành phần kinh tế ở nước ta chủ yếu dựa
trên cơ sở quan hệ sở hữu. Theo đó, trong khi phạm vi các thành phần kinh tế ngoài
23
nhà nước trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm các tài sản
hữu hình và vô hình, tức là “những yếu tố doanh nghiệp”, đã được huy động vào
hoạt động để mang lại lợi ích cho chủ sở hữu và đóng góp vào lợi ích chung, thì
phạm vi đối tượng sở hữu của kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm “các yếu tố
doanh nghiệp”, mà còn bao gồm các “yếu tố phi doanh nghiệp” mà Nhà nước được
giao quyền đại diện chủ sở hữu. Để xóa bỏ tình trạng “bất đối xứng” này, cần xác
định lại phạm vi của thành phần kinh tế nhà nước theo hướng chỉ tính đến “các yếu
tố doanh nghiệp”. Trên thực tế, các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê về
thành phần kinh tế nhà nước chỉ bao hàm các thông tin về doanh nghiệp nhà nước,
không bao hàm toàn bộ các thông tin về tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Tư duy về vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế
nhà nước.
Lâu nay, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thường được giải thích: “Là
lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo
môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”1. Có một
số điểm cần bàn thêm về nội hàm của vai trò này. Về nguyên tắc, trách nhiệm
“định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển” không thể thuộc về một thành phần kinh tế, “một lực
lượng vật chất” nào, mà phải thuộc về Nhà nước – “người nhạc trưởng” – trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Trong nền kinh tế thị trường, để thực hiện vai trò này,
Nhà nước sẽ phải sử dụng nhiều công cụ quản lý khác nhau. Trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền, hệ thống luật pháp, gồm cả các chiến lược phát triển,
các văn bản pháp quy thể hiện cơ chế chính sách,được coi là công cụ chủ yếu
được Nhà nước đề thực hiện vai trò, chức năng định hướng và điều tiết nền kinh tế,
tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Các
doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và loại hình tổ
chức đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Các doanh nghiệp này
hoạt động trong môi trường cạnh tranh và hợp tác, tìm kiếm lợi ích hợp pháp cho
mình và đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế. Lực
lượng vật chất được Nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò, chức năng “định
hướng và điều tiết” không phải chỉ là các doanh nghiệp nhà nước, mà chủ yếu là
Ngân sách nhà nước, các nguồn lực dự trữ quốc gia và các nguồn tài nguyên thiên
nhiên mà Nhà nước được trao quyền đại diện chủ sở hữu. Theo tinh thần ấy, việc
lạm dụng các doanh nghiệp nhà nước như một “lực lượng vật chất” sẽ dẫn đến tình
1
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 337
24
trạng bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh, gây khó khăn trong việc xác định
tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Tư duy nhận thức trên đây là cơ sở xác định các hành động để xóa bỏ triệt để
tình trạng phân biệt đối xử, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng cho các loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Đổi mới tư duy về vai trò của Nhà nước để thúc đẩy phát triển các loại
hình doanh nghiệp
Xây dựng mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển là định hướng chủ đạo trong
đổi mới quản lý nhà nước ở nước ta. Trong mô hình này, Nhà nước tập trung vào
việc xác định đường hướng, mục tiêu chung, tạo lập khuôn khổ thể chế phù hợp và
các điều kiện cần thiết cho các chủ thể phát huy năng lực, sức sáng tạo để tìm kiếm
lợi ích hợp pháp của mình và đóng góp cho sự phát triển chung của cộng đồng xã
hội, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực vào những
mục tiêu hợp lý và có hiệu quả. Đồng thời, với chức năng được xã hội ủy quyền,
Nhà nước, một mặt, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội
(Corporate Social Responsibility - CSR), mặt khác, sử dụng các công cụ điều tiết,
chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập để thực hiện các nhiệm vụ xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, thu hẹp chênh lệch giàu nghèo.
Để thực hiện chức năng định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước
sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền, hệ thống
luật pháp là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu. Công cụ vật chất mà Nhà
nước có thể sử dụng để thực hiện các chức năng của mình là Ngân sách nhà nước,
lực lượng dự trữ quốc gia, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hộiViệc tạo ra một
môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực vừa là
yêu cầu, vừa là mục tiêu của quản lý nhà nước.
Trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, vấn đề
mang tính nguyên tắc đòi hỏi phải quán triệt là: Nhà nước phải đối xử bình đẳng với
tất cả các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu và
loại hình tổ chức.
Trong mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển, việc xây dựng nền hành chính
công cần phải đặt nhiệm vụ hỗ trợ, phục vụ doanh nghiệp lên hàng đầu. Thể chế
hành chính nhà nước được quy định phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và theo hướng tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, chứ không phải từ
yêu cầu thuận lợi của cơ quan hành chính nhà nước. Người dân và doanh nghiệp
25
phải được coi là khách hàng có quyền yêu cầu cung cấp các dịch vụ phù hợp với
quy định của pháp luật, chứ không phải cầu xin sự ban ơn của các cơ quan quản lý
nhà nước và công chức nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải thay đổi
căn bản tư duy, trách nhiệm và phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức
các cơ quan quản lý nhà nước; phải lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp
là thước đo đánh giá kết quả và hiệu quả làm việc của mỗi cán bộ, công chức.
Việc xây dựng mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển cũng phải bảo đảm yêu
cầu mở rộng dân chủ trong hoạt động kinh tế. Việc mở rộng dân chủ này thể hiện
trên cả hai khía cạnh: (i) Mở rộng quyền tự do thực hiện hoạt động kinh doanh của
các chủ thể trong khuôn khổ luật pháp; (ii) Mở rộng quyền tham gia của các chủ thể
kinh doanh vào quá trình hình thành hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách. Một
Nhà nước mạnh là Nhà nước tạo được điều kiện thúc đẩy phát triển hệ thống doanh
nghiệp và đưa được chúng vào hoạt động theo quỹ đạo chung, chứ không phải là
Nhà nước tư duy và hành động theo kiểu “quản được đến đâu thì mở đến đó”, hoặc
“không quản được thì cấm”. Để tạo thuận lợi cho chính Nhà nước trong việc “điều
khiển cuộc chơi”, Nhà nước cần mở rộng sự tham gia của “những người chơi” vào
quá trình hình thành các “luật chơi” và “luật chơi” đó phải được xây dựng xuất phát
từ yêu cầu bình đẳng và thuận lợi cho những “người chơi” chứ không phải xuất phát
từ yêu cầu tạo thuận lợi cho “người điều khiển cuộc chơi”.
Đổi mới tư duy giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng trong
phát triển các loại hình doanh nghiệp
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về “Hỗ trợ và phát
triển doanh nghiệp” đặt mục tiêu “Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam
có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp
hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh”. Từ thực
tế phát triển doanh nghiệp trong thời gian vừa qua và yêu cầu phát triển trong thời
gian tới, vấn đề quan trọng đặt ra là phải giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa phát
triển số lượng doanh nghiệp và nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp.
Tuy trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh
hàng năm tăng khá nhanh, nhưng Việt Nam vẫn là nước có số doanh nghiệp so với
dân số vào loại thấp. Trong khi ở Mỹ và Nhật bản, cứ 10 – 12 người dân có 1 doanh
nghiệp, tính bình quân chung ở các nước ASEAN, cứ 80 – 100 người dân có 1
doanh nghiệp, thì ở Việt Nam, 259 người dân mới có 1 doanh nghiệp. Việc tiếp tục
phát triển số lượng doanh nghiệp để huy động rộng rãi các nguồn lực trong xã hội
vào đầu tư phát triển là một trong những yêu cầu của quá trình phát triển đất nước.
Đây cũng là cách thức chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động. Hiện nay, nguồn
26
chủ yếu để thực hiện yêu cầu này là chuyển các cơ sở kinh doanh cá thể (hộ cá thể)
thành doanh nghiệp1. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi phải giải quyết những khó
khăn vướng mắc từ cả cơ quan quản lý nhà nước và các chủ hộ cá thể.
Theo Luật Doanh nghiệp, thủ tục chuyển hộ cá thể thành doanh nghiệp khá
đơn giản. Những việc quan trọng mà các cơ quan quản lý nhà nước cần làm là: (i)
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho các chủ hộ về lợi ích khi chuyển đổi thành
doanh nghiệp (Ví dụ: tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức; tiếp cận các chính
sách ưu đãi quy định trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;); (ii) Tư vấn
cho các chủ hộ cá thể soạn thảo các hồ sơ cần thiết theo quy định; (iii) Đẩy mạnh
cải cách hành chính, ngăn chặn các hành vi gây phiền hà, sách nhiễu với các chủ hộ
có yêu cầu chuyển đổi;
Về phía các chủ hộ cá thể, cùng với đổi mới tư duy kinh doanh kiểu “cò
con”, phân tán, ngắn hạn sang tư duy đầu tư kinh doanh có tính dài hạn phù hợp với
phát triển thể chế kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, cần có tư duy mới
về phát triển quan hệ liên kết để nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực nắm bắt
các cơ hội kinh doanh, năng lực cạnh tranh trên thị trường. Tư duy mới về liên kết
kinh doanh của các chủ hộ cá thể sẽ là tiền đề để hình thành các loại hình doanh
nghiệp nhiều chủ sở hữu phù hợp với xu thế phát triển các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.
Gia tăng số lượng doanh nghiệp là điều cần phải được quan tâm, nhưng trọng
tâm của phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nước ta, kể cả trong ngắn hạn và dài
hạn, phải được đặt vào yêu cầu nâng cao chất lượng hệ thống doanh nghiệp. Chất
lượng của hệ thống doanh nghiệp được đánh giá bằng nhiều tiêu chí khác nhau: chất
lượng các nguồn lực đầu tư và kinh doanh; chất lượng quản trị điều hành; chất
lượng sản phẩm và dịch vụ; chất lượng thực hiện trách nhiệm xã hội; hiệu quả kinh
doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trườngChất lượng hệ thống doanh nghiệp là
yếu tố cơ bản tạo nên tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Với một
số thông tin khái quát đã nêu ở phần trên, đánh giá một cách tổng quát, chất lượng
hệ thống doanh nghiệp nước ta còn hết sức thấp kém. Đó là thách thức lớn nhất với
các doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng.
Theo các tiêu chí đánh giá chất lượng doanh nghiệp nêu trên, thực chất của
việc nâng cao chất lượng hệ thống doanh nghiệp chính là thực hiện các nhiệm vụ:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ trang bị công nghệ; Nâng cao trình
1
Cả nước hiện có 5,1 triệu cơ sở sản xuất – kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, thu hút 8,7
triệu lao động.
27
độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản trị điều hành; Vận dụng các phương pháp
quản trị tiên tiến vào điều hành sản xuất - kinh doanh; Mở rộng áp dụng các hệ
thống quản trị chất lượng tiên tiến; Mở rộng quan hệ liên kết, liên doanh giữa các
doanh nghiệp dưới những hình thức phù hợp; Nâng cao trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệpĐó là những điều kiện thiết yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh và
năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và toàn bộ hệ thống doanh nghiệp.
Phù hợp với các nguyên tắc thị trường, việc thực hiện những công việc trên
đây phải trên cơ sở nền tảng tư duy coi đó là nhiệm vụ thiết thân của doanh nghiệp
và phải do chính doanh nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, có nhiều việc bàn thân một
doanh nghiệp không thể thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu quả. Trước khi tìm
đến sự trợ giúp của Nhà nước, cần phải chú ý việc tìm kiếm, thiết lập và mở rộng
quan hệ liên kết với các doanh nghiệp khác. Vai trò của Nhà nước là tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ ấy. Sự hỗ trợ của Nhà nước
dưới những hình thức và mức độ khác nhau, nhưng không được dẫn đến làm méo
mó các quan hệ thị trường.
Kết luận
Doanh nghiệp là đơn vị cơ sở của nền kinh tế, là nơi trực tiếp tạo việc làm
cho người lao động, tạo các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội, tạo
nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sức mạnh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
là yếu tố quyết định thực lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Trong những năm vừa qua, tuy được phát triển khá nhanh và có những đóng
góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng sự phát
triển ấy còn thấp xa so với tiềm năng và yêu cầu. Để thúc đẩy sự gia tăng về số
lượng và nâng cao chất lượng các loại hình doanh nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề từ nhiều phía khác nhau. Tiếp tục đổi mới tư duy về phát triển
và quản lý sự phát triển là nền tảng cơ bản của đổi mới, hoàn thiện các quan điểm,
cơ chế chính sách và công tác quản lý điều hành nhằm thúc đẩy phát triển có hiệu
quả và bền vững các loại hình doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, VII, VIII, IX, X, XI và XII.
- Lương Xuân Qùy (Chủ biên): Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam trong bối cảnh mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015.
28
- Nguyễn Kế Tuấn và Ngô Kim Thanh: Các loại hình tổ chức kinh doanh gắn
với đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở nước ta. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
9/2009.
- Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên): Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2010.
- Nguyễn Kế Tuấn: Một số vấn đề về xu hướng phát triển các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Tạp chí Thông tin
Khoa học xã hội, 4/2018.
- Quốc hội: Luật Công ty (1991), Luật Doanh nghiệp tư nhân (1991), Luật
Doanh nghiệp nhà nước (1995), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Doanh
nghiệp (2014).
- Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2005, 2010 và 2017.
- Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về Kết quả tổng điều tra kinh tế năm
2017. Gso.gov.vn, 19/9/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_tu_duy_trong_phat_trien_cac_loai_hinh_doanh_nghiep_o.pdf