Trong 5 bệnh nhân trong nghiên cứu đã có 3
bệnh nhân đã không được chẩn đoán hội chứng
ALCAPA trong lần thăm khám và siêu âm đầu
tiên có hai bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị
theo hướng bệnh cơ tim dãn và một nhân hở van
2 lá bẩm sinh. Các tài liệu tham khảo được đều
khuyên rằng trong thực hành lâm sàng, cần loại
trừ bất thường xuất phát động mạch vành nói
chung và ALCAPA nói riêng khi chẩn đoán
bệnh cơ tim dãn và hở van hai lá bẩm sinh.
Không có bệnh nhân nào trong nhóm nghiên
cứu được chụp mạch vành, việc chụp mạch
vành là không cần thiết trong những trường hợp
điển hình. Chụp vành chỉ thực hiện ở những
bệnh nhân lớn tuổi, siêu âm hạn chế do độ bắt
echo kém. Ở bệnh nhân lớn tuổi, siêu âm tim
qua thực quản có thể giúp chẩn đoán.
MSCT là phương tiện ít xâm nhập có thể
chẩn đoán được rất tốt các bất thường mạch
vành, đặc biệt quan trong trong đo đạc các chỉ
số, giúp can thiệp phẫu thuất được dễ dàng hơn.
Điều trị nội khoa chỉ là điều trị tạm thời
trong thời gian chờ đợi phẫu thuật, cho nên
chúng tôi chỉ dùng các thuốc điều trị triệu chứng
khi thật sự phải dùng mà thôi.
Liên quan đến điều trị các tác giả đều đồng ý
cần phẫu thuật để thiết lập tuần hoàn động mạch
vành trái và động mạch chủ thông qua nhiều kỹ
thuật được cải tiến theo thời gian. Phẫu thuật
được thực hiện sớm ngay khi có chẩn đoán.
Giảm chức năng thất trái và tuổi nhỏ là hai yếu
tố nguy cơ phẫu thuật chính. Tuy nhiên nhóm này
lại hồi phục chức năng thất trái tốt hơn và nhanh
hơn sau mổ khi so sánh với nhóm còn lại. Sauer
ghi nhận nếu động mạch vành phải dãn lớn trên
siêu âm thì nguy cơ sau mổ sẽ thấp hơn và ngược
lại nếu động mạch vành trái dãn lớn, hay kích
thước vành trái và động mạch vành phải bằng
nhau thì kết quả sau mổ sẽ kém hơn.
Hở van hai lá mức độ nặng cũng là yếu tố
nguy cơ cho các biến chứng và kết quả sau mổ.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Động mạch vành trái xuất phát bất thường từ động mạch phổi (hội chứng Alcapa) những nhận xét bước đầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề Nhi khoa 1
ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI XUẤT PHÁT BẤT THƯỜNG
TỪ ĐỘNG MẠCH PHỔI (HỘI CHỨNG ALCAPA) NHỮNG NHẬN XÉT
BƯỚC ĐẦU
Nguyễn Văn Đông*, Nguyễn Ngọc Thiện**, Trương Bá Lưu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng ALCAPA.
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu trường hợp lâm sàng
Kết quả: Hội chứng ALCAPA được phát hiện trong nhiều tình huống khác nhau. Có hai trẻ đang điều trị theo
hướng bệnh cơ tim dãn và hở van hai lá được làm siêu âm khi tái khám định kỳ phát hiện hội chứng ALCAPA, hai trẻ
đến khám bệnh do mệt khi gắng sức và một trẻ phát hiện do viêm phổi và suy tim. Tất cả các trẻ đều có sàng tim to và lớn
thất trái trên X quang. Siêu âm tim phát hiện hội chứng ALCAPA trong tất cả các trường hợp.
Kết luận: mặc dù hội chứng ALCAPA là bệnh lý hiếm gặp, cần nghi ngờ hội chứng ALCAPA ở tất cả các trẻ có rối
loạn chức năng cơ tim đặc biệt ở những trẻ được chẩn đoán bệnh cơ tim giãn hay hở van hai lá.
ABSTRACT
ANOMALOUS ORIGIN OF LEFT CORONARY ARTERY FROM THE PULMONARY ARTERY:
CASE SERIES REPORT
Nguyen Van Dong, Nguyen Ngoc Thien, Truong Ba Luu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 131 – 137
Objective: Describe clinical and laboratory characteristics of anomalous origin of left coronary artery from the
pulmonary artery (ALCAPA’s syndrome).
Methods: case series report.
Result: ALCAPA was diagnosed with different context. In two cases, ALCAPA was found in the routine
echocardiography of the follow-up for a dilated cardiomyopathy or a mitral regurgitation. Two children showed a minimal
congestive heart failure and an infant was hospitalized because of a pneumonia. All infants presented with the signs of left
ventricle enlargement on the radiography. One patient had changes of anterolateral infarction on the electrocardiography.
Diagnostic was made on the basis of echocardiography on all patients.
Conclusions: although ALCAPA is very rare, a high index of suspicion is required during the workup any infant or
child with global myocardial dysfunction. The most important differential diagnosis are a dilated cardiomyopathy and/or a
mitral regurgitation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ALCAPA một bất thường hiếm
gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 0.5% bệnh tim bấm
sinh, chiếm khoảng 60% các bất thường mạch
vành bẩm sinh. Tỷ lệ mới mắc trong cộng
đồng vào khoảng 0,0003%. Bệnh có tiên lượng
nặng, tỷ lệ tử vong cao đối với thể nhũ nhi do
thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim và suy tim.
Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi ghi nhận
5 trường hợp hội chứng ALCAPA tại khoa
Tim mạch Bệnh viện Nhi Đồng 2 và Viện tim.
Các trường hợp lâm sàng sẽ được miêu tả chi
tiết dưới đây kèm theo những ghi nhận ban
đầu về bệnh lý này thông qua các trường hợp
bệnh và tham khảo y văn.
BỆNH ÁN LÂM SÀNG
Bệnh án số 1
Họ và tên bệnh nhân: Nguyễn Thị Thúy V.
Ngày sinh: 11/07/2007
Ngày nhập viện
Địa chỉ: Ấp 2 xã phú xuân, Nhà Bè, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Lý do nhập viện: thở mệt
Tiền căn
* Bệnh viện Nhi đồng 2 ** Viện Tim TP. HCM
Chuyên đề Nhi khoa 2
PARA 2002, sinh ngôi mông, CNLS 2.8Kg,
nuôi bằng sữa mẹ, chủng ngừa đủ. Không có
tiền căn bất thường khác.
Bệnh sử
Bốn ngày trước khi nhập viện, bệnh nhi
xuất hiện khò khè thở mệt, không sôt, đi khám
và được chẩn đoán viêm tiểu phế quản, kết
quả chụp phim xquang thấy bóng tim to, chỉ
số tim ngực 0,7 nên hội chẩn và được chuyển
về khoa tim mạch điều trị tiếp.
Tại khoa tim mạch: mạch 120 lần/phút,
nhịp thở 60 lần/phút, không sốt, tỉnh, vẻ đừ vã
mồ hôi nhiều, bú kém. Nghe tim có thổi 3/6
mỏm lan nách, gan 2cm dưới bờ sườn phải.
Kết quả chụp Xquang: chỉ số tim ngực 0,7,
tăng tuần hoàn phổi, lớn thất trái.
ECG: sóng Q ở D1, aVL, V4-V6, lớn thất
trái theo tiêu chuẩn điện thế.
Siêu âm tim
-Thất trái giãn nhiều và giảm động toàn bộ
-Tăng sang cột cơ van 2 lá
-Hở 2 lá 3/4
-Động mạch vành phải dãn d=3,6mm
-Nghi ngờ động mạch vành trái xuât phát
từ động mạch phổi
-Nghi nhận flow trong động mạch phổi.
-EF=43%
Troponin I=0,06ng/ml, Ure và creatinin
máu, SGOT, SGPT bình thường.
Kết quả chụp MSCT: Hội chứng ALCAPA.
Chẩn đoán
Viêm tiểu phế quản, Hội chứng ALCAPA,
suy tim.
Điều trị với Digoxin, furrosemine,
captopril, kháng sinh.
Diễn tiến trong thời gian điều trị, bệnh nhi
hết ho và khò khè, nhịp tim 120 lần/phút. Hội
chẩn viện tim để phẫu thuật.
Bệnh án số 2
Họ và tên bện nhân: Nguyễn Đoàn Thu P.
Sinh Ngày: 26/01/2004
Địa chỉ: KP 3 Linh chiểu thủ đức
Ngày vào viện 26/11/2007
Ngày ra viện : 13/12/2007
Bệnh sử
Chẩn đoán và điều trị theo hướng bệnh cơ
tim dãn từ khi cháu 7 tháng tuổi. Đang điều trị
với Digoxin, lợi tiểu, furossemide, captopril
Carvedilol. Ba ngày nay bé ho kèm chảy mũi
nước nên vào viện.
Ghi nhận lúc vào viện
Mạch 100 lần/phút, nhiệt độ = 370C, HA
10/6 cmHg, thở 20 lần/phút, cân nặng 16kg,
Tổng trạng ổn định, mệt khi gắng sức
Gan lách không lớn
TTT 3/6 ở mỏm lan nách.
Âm thổi liên tục gian sườn 2 trái
Phổi không ran
Xét nghiệm.
CK-CKMB=44 mg/l, SGOT=32 mg/l,
SGPT=18 mg/l
ECG: nhịp xoang, trục trái qSV1,V2, ST
chênh xuống D2, aVL, V5, V6
Nhịp tim =120, nhịp thở = 25 lần/phút
X quang
RCT=0,65, tăng tuần hoàn phổi, lớn thất
trái.
Siêu âm
-Động mạch vành trái xuất phát từ động
mạch phổi
-Dãn động mạch vành phải d=5mm
-Dãn thất trái, tăng sáng cột cơ
-Vị trí 2 cột cơ bình thường
-Flow ngược dòng trong ĐMP, FE=43%
-PAPs=30 mmHg
Kết quả MSCT: Hội chứng ALCAPA
Điều trị trong thời gian chờ phẫu thuật
-Captopril; 1/4viên x 3, Spiromide 20/50mg
1/3v, Cardivas 6,25 mg 1/8 x 2
Chuyên đề Nhi khoa 3
Bệnh án số 3
Họ tên bệnh nhân: Phạm Văn H., ngày
sinh: 20/3/2001
Địa chỉ: Huyện Ngã Năm, Sóc Trăng
Tiền căn bệnh lý không có gì đặc biệt.
Lý do khám bệnh: Mệt khi gắng sức.
Ghi nhận tại thời điểm khám bệnh: tổng
trạng trung bình, nhịp tim 84 lần/phút, thổi
tâm thu 3/6 ở mỏm tim lan nách.
Các cơ quan khác chưa phát hiện gì thêm.
ECG có hình ảnh nhịp xoang
Xquang: chỉ số tim lồng ngực =0,6, tim lớn
xu hướng thất trái
Siêu âm
Thất trái lớn, nhĩ trái lớn, còn ống động
mạch nhỏ, shunt trái-phải
Hở 2 lá 1,5/4, hai cột ở vị trí bình thường,
FE 67%.
Theo dõi và điều trị theo hướng hai lá.
Siêu âm bản 2 trong khi tái khám.
Dãn nhĩ trái và thất trái
Dãn động mạch vành phải tại gốc d=5,4
mm nghi ngờ dò vào thất phải
Đường kính động mạch trái tại gốc là 4mm
Hở 2 lá 3/4 type IIA2 và IIP1 do dày dây
chằng
Cột cơ trước bên phì đại và rất sang
Cột cơ sau giữa bình thường.
PAPs=40mmHg
Chụp MSCT
Động mạch vành trái xuất phát từ động
mạch phổi
Dãn nhẹ động mạch vành phải và nhánh
PDA đổ vào thất phải.
Bệnh án số 4.
Bệnh nhân: Nguyễn Châu Quang H; 9
tháng tuổi
Địa chỉ, Thuận An, An Phú, Bình Dương.
Tiền căn viêm phổi tái diễn nhiều lần.
Ghi nhận khi khám bệnh:
Tổng trạng trung bình, mạch 160 lần /phút,
nhịp thở 62 lần/phút, CN=6,3kg.
Diện tim đập rộng
Thổi tâm thu 3/6 mỏm tim lan nách.
Bụng mềm, gan không lớn.
Các cơ quan khác chưa phát hiện gì thêm.
ECG: trục trái, lớn thất trái, T âm V4-V6
X quang: chỉ số tim lồng ngực = 0,65
Lớn thất trái, tăng tuần hoàn phổi
Siêu âm tim (3/12/2007)
Dãn thất trái và nhĩ trái
Hai cột cơ vị trí bình thường
Chức năng tâm thu tốt 60%
Siêu âm tim bản ngày 20/12/2007
-Không có động mạch vành trái xuất phát
từ xoang Valsava động mạch chủ.
-Động mạch vành phải dãn
-Hở van 2 lá 3,5/4, type III sau do nhồi
máu.
-Cột cơ tăng sáng
-Hở 3 lá 1/4, PAPs
Dãn thất trái, giảm động vùng mỏm,
EF=40%
MSCT: Hội chứng ALCAPA kèm giảm
động thất trái nặng.
Điều trị: bệnh nhân được hội chẩn hẹn
phẫu thuật, điều trị nội khoa trong thời gian
chờ mổ bằng captopril 1m/kg/ngàyvà lasix
1mg/kg/ngày.
Bệnh án số 5
Nguyễn Thị Ánh T.; 9 tháng; địa chỉ huyện
Châu Phú, An Giang.
Bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị theo
hướng bệnh cơ tim dãn, được điều trị ngoại
trú với Digoxin, captopril, lasix, carvedilol.
Lâm sàng: tổng trạng trung bình, nhịp tim
130 lần/ phút, phổi không (nahe??) ran.
Siêu âm tim ngày 25/12/2007.
Dãn thất trái và nhĩ trái
Không thấy ostium động mạch vành trái từ
sinus valsava động mạch chủ.
Chuyên đề Nhi khoa 4
Động mạch vành phải dãn
Hở van 2 lá 3/4 type III sau nhồi máu
Van hai lá dày, cột cơ rất tăng sáng
Ghi nhân Flux phổ liên tục và hình ảnh
aliasing trong thân động mạch phổi.
Thất trái dãn, giảm động thành bên
Chức năng tâm thu thất trái giảm FE=40%
Không cao áp phổi PAPs =20mmHg.
Chụp MSCT động mạch vành trái xuất
phát từ động mạch phổi. Dãn nhẹ động mạch
vành trái.
BÀN LUẬN
Hội chứng ALCAPA hay động mạch vành
trái xuất phát bất thường từ động mạch phổi
được miêu tả lần đầu tiên vào năm 1885 bởi
Brook và Abbott vào năm 1908. Đến năm 1933,
bất thường này được miêu tả đầy đủ hơn dưới
tên gọi hội chứng Bland, White và Garland trên
một trẻ nhũ nhi có triệu chứng kém linh hoạt, vả
mồ hôi, khó thở và xanh tái, đau ngực khi gắng
sức. Nếu không được chẩn đoán và điều trị bệnh
có tiên lượng rất xấu với tỷ lệ tử vong cao, 90%
số bệnh nhân có biểu hiện suy tim do thiếu máu
cơ tim nặng và chết trong giai đoạn nhũ nhi.
Bình thường động mạch vành trái và động
mạch vành phải xuất phát từ xoang vành cùng
tên của động mạch chủ. Bất thường xuất phát
động mạch vành do kết nối bất thường giữa hệ
thống mạch máu dưới thượng tâm mạc và khu
vực troncus arteriosus là nguồn gốc trong thời
kỳ bào thai tạo hình thành động mạch phổi. Bình
thường sự kết nối này phải xảy ra giữa hệ thống
mạch máu thượng tâm mạc và động mạch chủ.
Edwards là người đầu tiên tìm hiểu cơ chế
huyết động mạch vành của hội chứng ALCAPA.
Trong giai đoạn sơ sinh áp lực động mạch phổi
còn cao nên cung cấp đủ máu cho động mạch
vành trái xuất phát từ động mạch phổi.
Sau sinh áp lực động mạch phổi giảm dần,
dòng máu nuôi động mạch vành giảm dần cho
đến khi dòng máu trong mạch vành đảo chiều
thành ĐM vành phải – tuần hoàn bàng hệ- động
mạch vành trái. Lúc này tưới máu tim trái phụ
thuộc vào tuần hoàn bàng hệ có phát triển hay
không cũng như động mạch vành trái sẽ dãn lớn
tùy theo mức độ tuần hoàn bàng hệ. Dựa vào
mức độ diễn tiến thiếu máu mạch vành, hội
chứng ALCAPA có hai kiểu tuần hoàn vành.
Khi tuần hoàn mạch vành kém phát triển,
hiện tượng thiếu máu mạch xảy ra sớm và nặng.
Rối loạn chức năng thất trái và thất trái dãn, hở
van hai lá nặng do thiếu máu cột cơ hay dãn
vòng van hoặc cả hai. Nếu không phẫu thuật kịp
thời, bệnh nhi tử vong vài tháng sau sinh.
Trong 10-15% bệnh nhi còn lại, tuần hoàn
bàng hệ giữa hai mạch vành phát triển tốt, động
mạch vành phải phát triển tốt tưới máu thất trái
tốt hơn nên tiên lượng bệnh tốt hơn. Bệnh nhân
thường không có triệu chứng lâm sàng cho đến
tuổi thiếu niên. Nếu không điều trị, 80%-90%
bệnh nhân thuộc nhóm này tử vong vào khoảng
35 tuổi.
Smith và cộng sự đã miêu tả mô học của 14
trường hợp giải phẫu tử thi hội chứng AlCAPA
thấy có hiện tượng thiểu sản đoạn gần hay đoạn
xa hoặc cả hai động mạch vành trái khi quan sát
đại thể. Trên vi thể thấy hiện tượng thiểu sản
trung mô, lớp nội mạc kém phát triển gợi ý bất
thường này có thể ảnh hưởng dến sự phát triển
của mạch vành.
Bệnh cảnh lâm sàng
Hội chứng ALCAPA khá đa dạng, tuỳ thuộc
vào mức độ tuần hoàn bàng hệ. Trong số bệnh
nhân của chúng tôi có hai bệnh nhân đến khám
bệnh do triệu chứng mệt khi gắng sức. Một
trường hợp cháu vào viện do viêm phối và chẩn
đoán hội chứng ALCAPA được gợi ý do bóng
tim lớn trên X quang. Hai trường hợp còn lại
phát hiện trên trẻ đang được chẩn đoán và điều
trị theo hướng bệnh cơ tim dãn nở trong khi làm
siêu âm theo dõi định kì.
Mặc dù hội chứng ALCAPA là bệnh hiếm
găp, cần nghi ngờ bất thường này trên tất cả
những trẻ có rối loạn chức năng cơ tim. Một số
trẻ vào viện trong tình trạng suy tim nặng và
truỵ mạch. Một số có mức độ suy tim nhẹ hơn
Chuyên đề Nhi khoa 5
như mệt khi gắng sức, có khi bệnh chỉ được phát
hiện tình cờ trên siêu âm. Hiếm hơn, người ta
cũng ghi nhận một đứa trẻ được phát hiện bất
thường này khi nhập viện do rung thất.
Tuổi của trẻ tại thời điểm chẩn đoán hội
chứng ALCAPA là từ 4 tháng cho đến 8 tuổi.
Theo y văn, 80% đến 85% hội chứng ALCAPA
được phát hiện ở giai đoạn trước trưởng thành.
15%-20% phát hiện trên đối tượng trưởng thành.
Có một trường hợp phát hiện tình cờ trên phụ nữ
72 tuổi có biểu hiện shunt trái-phải trên lâm sàng.
Về lâm sàng
Tất cả số bệnh nhân ghi nhận được đều có
triệu chứng suy tim với mức độ khác nhau. Nhịp
tim đều khi thăm khám cũng là triệu chứng loại
trừ bệnh cơ tim dãn do rối loạn nhịp (Nhịp
nhanh nhĩ đa ổ hay nhịp nhanh nhĩ ngoại vi). Có
một trường hợp đáng lưu ý là bệnh nhân biểu
hiện khóc rên khi bú do đau ngực. Đây là triệu
chứng quan trọng khi thăm khám.
Tất cả các bệnh nhân đều nghe được tiếng
thổi tâm thu ở mỏm tim lan nách của hở van hai
lá. Mức độ tiếng thổi phụ thuộc vào mức độ hở
van hai lá. Tuy nhiên đây là triệu chứng có thể
gặp trong nhiều bệnh lý khác nhau nên không
giúp ích nhiều cho chẩn đoán.
Triệu chứng X quang
Tất cả 5 bệnh nhân đều có hình ảnh bóng tim
lớn trên X quang tim-phổi thẳng. Hình ảnh lớn
thất trái trên Xquang khá gợi ý, đôi khi là triệu
chứng đầu tiên để chẩn đoán. Có một bệnh nhân
trong nghiên cứu này nhập viện trong bệnh cảnh
viêm phổi. Chụp phim x quang có hình ảnh
bóng tim lớn và hội chẩn với khoa tim mạch.
Tăng lưu lượng máu lên phổi không phải là
triệu chứng hay gặp, có 2/5 số bệnh nhi có hình
ảnh tăng lưu lượng máu lên phổi. Mức độ tăng
áp phổi phụ thuộc vào tuần hoàn bàng hệ giữa
hai động mạch vành.
Hình ảnh ECG
Khá đặc hiệu cho hội chứng ALCAPA khi có
dấu hiệu thiếu máu hay nhồi máu cơ tim thường
gặp ở chuyển đạo trước bên.
Trong 5 bệnh nhi của nghiên cứu, có 1
trường hợp sóng Q hoại tử ở các chuyển đạo
trước bên với biên độ trên 3mm thường thấy rõ
ở DII, D3 và AVL, ngoài ra hiện tượng rối loạn
tái cực gặp trong 3 trường hợp, 2 trường hợp còn
lại ECG được xem là bình thường vào thời điểm
chẩn đoán bệnh.
ECG là xét nghiệm quan trọng trong định
hướng chẩn đoán hội chứng ALCAPA. Trên một
đứa trẻ có bệnh cơ tim giảm động và sóng Q
xuất hiện trên D1 và AVL cần xem là hội chứng
ALCAPA cho đến khi có bằng chứng ngược lại.
Tác giả Johnsrude và cộng sự đã đưa ra công
thức ALCAPA = 12d (d là chiều sâu sóng Q ở DI)
+14s (s là biên độ đoạn ST ở AVL) – w (w là
chiều sâu sóng Q ở D1). Nếu đẳng thức này
được thoả mãn thì hội chứng ALCAPA được
chẩn đoán trong 98% trường hợp với độ nhạy
100%, độ đặc hiệu 96% và giá trị dự báo dương
tính là 85%.
Siêu âm tim
Là xét nghiệm quan trọng trong chẩn đoán
hội chứng ALCAPA, trong trường hợp điển
hình có thể thấy được gốc động mạch vành trái
xuất phát từ xoang sau-trái của động mạch phổi
với kích thước bình thường hay hơi nhỏ, động
mạch vành phải xuất phát bình thường từ xoang
trước phải của động mạch chủ với kích thước
dãn. Thông thường động mạch vành phải cung
cấp máu cho động mạch trái thông qua tuần
hoàn bàng hệ. Máu trong động mạch vành trái
sẽ được hút vào động mạch phổi nơi có áp lực
thấp hơn. Ở nhát cạnh ức trục ngang có thể thấy
động mạch vành trái xuất phát từ động mạch
phổi trên 2D, và không thấy động mạch vành
trái xuất phát từ động mạch chủ. Trên siêu âm
màu, ghi nhận dòng máu vận tốc thấp chảy
hướng về đầu dò với phổ liên tục vào động
mạch phổi.
Các hình ảnh gián tiếp bao gồm thất trái dãn
lớn, hở van hai lá, cột cơ van hai lá và nội mạc cơ
tim tăng sáng do hiện tượng thiếu máu.
Tất cả nhóm bệnh nhân nghiên cứu đều có
hình ảnh siêu âm khá điển hình với không thấy
Chuyên đề Nhi khoa 6
động mạch vành trái xuất phát từ động mạch
phổi, động mạch vành trái xuất phát từ động
mạch phổi, động mạch vành phải dãn lớn và hở
van hai lá với hình ảnh cột cơ tăng sang.
Triệu chứng siêu âm dòng máu ngược dòng
trong vách liên thất hiếm gặp hơn (2/5) trường
hợp. Khi tuần hoàn bàng hệ phát triển tốt thì
mới có thể ghi nhận được hình ảnh này.
Chang và Allada dựa vào máy tính để thiết
lập phương trình với tham vọng phân biệt bệnh
cơ tim dãn và hội chứng ALCAPA. Tác giả đi
đến kết luận, nếu ở bệnh nhân có QT ở chuyển
đạo AVL + tỷ số đường kính động mạch vành
phải/D2 động mạch chủ lớn hơn 0,14 + tăng sáng
cột cơ mạch vành + phổ doppler màu trong động
mạch phổi thì chẩn đoán hội chứng ALCAPA
được chẩn đoán với độ nhạy 100% và độ đặc
hiệu là 91%.
Trong 5 bệnh nhân trong nghiên cứu đã có 3
bệnh nhân đã không được chẩn đoán hội chứng
ALCAPA trong lần thăm khám và siêu âm đầu
tiên có hai bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị
theo hướng bệnh cơ tim dãn và một nhân hở van
2 lá bẩm sinh. Các tài liệu tham khảo được đều
khuyên rằng trong thực hành lâm sàng, cần loại
trừ bất thường xuất phát động mạch vành nói
chung và ALCAPA nói riêng khi chẩn đoán
bệnh cơ tim dãn và hở van hai lá bẩm sinh.
Không có bệnh nhân nào trong nhóm nghiên
cứu được chụp mạch vành, việc chụp mạch
vành là không cần thiết trong những trường hợp
điển hình. Chụp vành chỉ thực hiện ở những
bệnh nhân lớn tuổi, siêu âm hạn chế do độ bắt
echo kém. Ở bệnh nhân lớn tuổi, siêu âm tim
qua thực quản có thể giúp chẩn đoán.
MSCT là phương tiện ít xâm nhập có thể
chẩn đoán được rất tốt các bất thường mạch
vành, đặc biệt quan trong trong đo đạc các chỉ
số, giúp can thiệp phẫu thuất được dễ dàng hơn.
Điều trị nội khoa chỉ là điều trị tạm thời
trong thời gian chờ đợi phẫu thuật, cho nên
chúng tôi chỉ dùng các thuốc điều trị triệu chứng
khi thật sự phải dùng mà thôi.
Liên quan đến điều trị các tác giả đều đồng ý
cần phẫu thuật để thiết lập tuần hoàn động mạch
vành trái và động mạch chủ thông qua nhiều kỹ
thuật được cải tiến theo thời gian. Phẫu thuật
được thực hiện sớm ngay khi có chẩn đoán.
Giảm chức năng thất trái và tuổi nhỏ là hai yếu
tố nguy cơ phẫu thuật chính. Tuy nhiên nhóm này
lại hồi phục chức năng thất trái tốt hơn và nhanh
hơn sau mổ khi so sánh với nhóm còn lại. Sauer
ghi nhận nếu động mạch vành phải dãn lớn trên
siêu âm thì nguy cơ sau mổ sẽ thấp hơn và ngược
lại nếu động mạch vành trái dãn lớn, hay kích
thước vành trái và động mạch vành phải bằng
nhau thì kết quả sau mổ sẽ kém hơn.
Hở van hai lá mức độ nặng cũng là yếu tố
nguy cơ cho các biến chứng và kết quả sau mổ.
KẾT LUẬN
Qua năm trường hợp lâm sàng và tham khảo
y văn các trường hợp mắc hội chứng ALCAPA
chúng tôi xin có những nhận xét như sau:
Hội chứng ALCAPA là bệnh lý hiếm gặp
nhưng có thể thay đổi được tiên lượng về đời
sống của bệnh nhân thông qua phẫu thuật. Phẫu
thuật cần thực hiện sớm ngay khi có chẩn đoán
để tránh các biến đổi trên cơ tim lâu dài. Trên
lâm sàng cần nghĩ đến hội chứng ALCAPA ở tất
cả bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái hay hở
van hai lá, đặc biệt ở trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Acar P; echocardiologie pediatrique, masson, 2006, 77-79.
2. Ali DK, constantine mavroudis and carl l. Backer;
anomalous origin of the left coronary artery from the
pulmonary artery: collective review of surgical therapy;
Ann thorac surg 2002;74:946-955
3. Batisse A; Cardiologie pediatrique, Doin, 2008; 172-173
4. Chang RKR, Allada V. Electrocardiographic and
echocardiographic features that distinguish anomalous
origin of the left coronary artery from pulmonary artery
from idiopathic dilated cardiomyopathy. Pediatr Cardiol
2001; 22:3–10.
5. Edwards JE. The direction of blood flow in coronary
arteries arising from the pulmonary trunk. Circulation
1964; 29: 163–6.
6. Fierens C, Budts W, Denef B and van de werf F; a 72 year
old woman with ALCAPA; heart 2000;83;e2
7. Germanakis I, Dittrich S, Schlensak C, Kececioglu D.
Ventricular fibrillation in a teenager as first manifestation
Chuyên đề Nhi khoa 7
of anomalous origin of left coronary artery from
pulmonary artery; Hellenic J Cardiol 44: 155-158, 2003.
8. Johnsrude CL, Perry JC, Cecchin F, et al. Differentiating
anomalous left main coronary artery orginating from the
pulmonary artery in infants from myocarditis and dilated
cardiomyopathy by electrocardiogram. Am J Cardiol 1995;
75:71–4.
9. Muresian H, A Journal of clinical medicine, Volume1
no.1 2006; Coronary arterial anomalies and variations
10. Pandey R, Ciotti G and Pozzi M; anomalous origin of the
left coronary artery from the pulmonary artery: results of
surgical correction in five infants; Ann Thorac Surg
2002;74:1625-1630
11. Smith A, Arnold R, Anderson RH, et al. Anomalous origin
of the left coronary artery from the pulmonary trunk.
Anatomic findings in relation to pathophysiology and
surgical repair; J Thorac Cardiovasc Surg 1989; 98:16–24.
12. Wollenek G; anomalous left coronary artery from the
pulmonary artery problems and trends in surgical
treatment; Heart views vol. 1 no. 7 march / may 2000:
251-257
Chuyên đề Nhi khoa 8
Chuyên đề Nhi khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dong_mach_vanh_trai_xuat_phat_bat_thuong_tu_dong_mach_phoi_h.pdf