Giá trị vận tốc sóng biến dạng lan truyền trong mô gan người bình thường đo được qua kĩ thuật xung áp lực nén siêu âm
Bàn LUận
Kĩ thuật tạo ra sóng biến dạng bằng áp lực của
chuỗi xung nén siêu âm (ARFI: Acoustic Radiation
Force Impulse) đã được đề cập đến trong hai năm
trở lại đây và được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực lâm
sàng khác nhau [1, 2, 3]. Nguyên lý của kĩ thuật này
là người ta phóng một xung sóng siêu âm ngắn vào
trong mô kế cận vùng tham khảo (ROI), chính áp lực
nén-giãn của xung sóng siêu âm này đã tạo ra dịch
chuyển mô theo hướng vuông góc với nó, kết quả
là đã hình thành sóng biến dạng trong mô và hướng
truyền của sóng biến dạng vuông góc với xung sóng
nén. Bước kế tiếp là thực hiện việc đo vận tốc của
sóng biến dạng bằng cách liên tục gởi vào mô vùng
tham khảo (ROI) các chùm sóng siêu âm để phát hiện
đỉnh sóng biến dạng đầu tiên hiện diện ở vùng ROI.
Khoảng cách giữa vị trí ROI với đường đi của xung
sóng siêu âm và quảng thời gian từ lúc phát đi xung
sóng nén siêu âm, cho đến khi phát hiện đỉnh sóng
biến dạng hiện diện trong ROI sẽ cho phép tính được
vận tốc của sóng biến dạng.
Việc tính toán được vận tốc của sóng biến dạng
trong mô cho phép biết được đặc tính đàn hồi (từ đó
nói lên được độ cứng) của mô qua công thức tính suất
YOUNG (E = 3ρ.v2), trong đó E có đơn vị là kPa, ρ là
tỉ trọng của mô có đơn vị là kg/m3 và v là vận tốc của
sóng biến dạng lan truyền bên trong mô khảo sát.
Để có thể áp dụng kĩ thuật đánh giá độ đàn hồi (qua
đó biết được độ cứng) của mô gan bệnh lý ở người Việt
Nam, chúng tôi thiết nghĩ cần có giá trị nền ở người
bình thường để lấy đó làm tham khảo. Qua 241 người
khỏe mạnh bình thường và 2.532 lần đo vận tốc sóng
biến dạng bằng kĩ thuật ARFI, giá trị vận tốc thu được
là 1,05m/s ± 0,12. Giá trị vận tốc mà chúng tôi thu được
khá tương đồng với các kết quả của các tác giả trong
nước [4] và cũng khá tương đồng với các tác giả ngoài
nước [1, 2, 5].
Kết quả bảng 3.2 cho thấy, kĩ thuật đo hầu như
không phụ thuộc vào tính chủ quan của người làm, điều
này phản ánh tính khách quan trong phép đo định lượng
của kĩ thuật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đo vận
tốc sóng biến dạng, có 72 lần đo có kết quả không chấp
nhận được do lúc tiến hành đo thì đối tượng có cử động
hô hấp mặc dù đã được hướng dẫn ngưng thở trước
khi tiến hành đo. Thường kết quả những lần đo có cử
động hô hấp thì sai lệch nhiều so với những lần đo
không có cử động hô hấp.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị vận tốc sóng biến dạng lan truyền trong mô gan người bình thường đo được qua kĩ thuật xung áp lực nén siêu âm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201238
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
Objectives: The purposes of this study were to measure the
reference value of average velocity of shear wave in healthy’s liver
by using acoustic radiation force impulse imaging.
Methods: Two hundred and of healthy volunteers with normal
liver function test values were selected for the study. Shear wave
velocity measurements, expressed in meters per second, were
taken in liver segment 7 or 8 at depth from 3 to 4cm below the body
surface portion of. Among these volunteers, we chose fifty ones to
whom two observers with different levels of experience performed
the measurements independently and blindly.
Results: Total the measurements are taken 2.532 times. The
value of average velocity of shear wave in the health’s liver is 1.05
± 0.12m/s. There is no statistically significant difference in shear
wave velocity between two genders. In term of interobserver results,
there is no statistically significant difference in shear wave velocity
obtained by two observers with different levels of experiences (p
< .005).
Conclusions: The results of this study show that shear
wave velocity measurement in health’s liver by using the acoustic
radiation force impulse technique is about 1.05 ± 0.12m/s and this
technique is reproducible and independent to user.
GIÁ TRỊ VẬN TỐC SÓNG BIẾN DẠNG LAN TRUYỀN
TRONG MÔ GAN NGƯỜI BÌNH THƯỜNG ĐO ĐƯỢC
QUA KĨ THUẬT XUNG ÁP LỰC NÉN SIÊU ÂM
the value of shear wave average velocity in healthy’s
liver by using acoustic radiation force impulse imaging
Nguyễn Phước Bảo Quân*, Trần Chí Thành*, Ngô Xuân Lan*
*Bệnh viện Trung ương Huế
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 39
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Vận tốc lan truyền của sóng cơ học trong mô phụ
thuộc vào đặc tính vật lý của loại mô đó, một trong
những đặt tính này là độ đàn hồi của mô, mà đại lượng
đặc trưng cho độ đàn hồi là suất YOUNG (E). Vận tốc
của sóng cơ học trong mô càng lớn thì chứng tỏ mô
càng cứng. Như thế, việc đo được vận tốc lan truyền
của sóng cơ học trong mô có ý nghĩa rất lớn trong việc
chỉ ra đặc tính vật lý của mô, từ đó mở ra chân trời mới
về khảo sát một thuộc tính vật lý của mô - cứng hay
mềm bên cạnh khảo sát hình thái và huyết động.
Từ vài năm trước, phương pháp đo khoảng dịch
chuyển mô gan được tạo ra từ sự lan truyền vào mô
gan một sóng biến dạng dọc (hướng lan truyền trùng
với hướng dịch chuyển mô) bởi kĩ thuật fibroscan đã
được các trung tâm lớn ở châu Âu sử dụng để đánh giá
mức độ xơ của gan. Tuy nhiên, kĩ thuật này không phải
là không có hạn chế [4, 6]. Kĩ thuật này không kết hợp
được với kĩ thuật ghi hình nên kĩ thuật đo còn mang tính
chất “mù”, nghĩa là người làm không chắc chắn về loại
mô bên dưới đang tiến hành đo.
Gần đây trên y văn thế giới, kĩ thuật tạo sóng biến
dạng bằng áp lực của chuỗi xung nén siêu âm (ARFI:
Acoustic Radiation Force Impulse) đã được đưa vào
ứng dụng trong một vài lĩnh vực lâm sàng. Kĩ thuật này
cho phép đo được vận tốc của sóng biến dạng trong
mô, qua đó giúp đánh giá độ đàn hồi của mô. Trong khi
đó, y văn Việt Nam đề cập rất ít đến vấn đề này.
Chúng tôi thực hiện để tài này để xác định thông
số vận tốc của sóng biến dạng lan truyền trong mô gan
ở người Việt Nam bình thường nhằm có cơ sở cho việc
đánh giá tình trạng bệnh lý như xơ gan. Qua đó, đánh
giá tính khả thi của kĩ thuật ARFI trong việc đưa vào
ứng dụng lâm sàng.
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CỨU
2.1. đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu: tất cả đối tượng được đưa
vào nghiên cứu thỏa mãn các điều kiện sau:
- Đồng ý tham gia vào nhóm nghiên cứu sau khi
được giải thích về kĩ thuật và tính vô hại của sóng siêu
âm.
- Không có bất kỳ tiền sử về các bệnh lý của gan
mật như: viêm gan, nghiện rượu bia, không dùng các
thuốc gây độc cho gan. Không có tiền sử nào về bệnh
lý thận, tim mạch, tụy.
- Thời điểm hiện tại không có biểu hiện nào về
bệnh lý gan mật, thận, tim mạch.
- Các xét nghiệm về chức năng gan, mật, chức
năng thận, chức năng tụy đều trong giới hạn bình
thường.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các đội tượng không thỏa mãn các tiêu chí trên.
- Các đội tượng không đảm bảo về mặt kĩ thuật khi
tiến hành đo.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Mô tả, cắt ngang.
2.2.2. Thu thập số liệu
Thiết bị: máy ACUSON S2000 Siemens có cài đặt
tính năng ARFI trên đầu dò cong 4C1.
Quy trình:
- Đặt đầu dò ở vị trí kẻ gian sườn từ đường nách
trước đến đường trung đòn với hướng cắt dọc kẻ gian
sườn.
- Xác định hạ phân thùy VII hoặc VIII.
- Đặt ROI (Region Of Interest) ở ví trí cách mặt da
3 đến 4cm, thường ở độ sâu này tương ứng với cách
bề mặt bao gan khoảng 1 đến 2cm.
- Đối tượng ngưng thở (không cần thiết hít sâu rồi
giữ hơi thở).
- Tiến hành ấn phim khởi động đo khi đã chắc chắn
trên hình siêu âm kiểu B không có hình ảnh di động
của gan.
- Thực hiện việc đo đạt 10 lần trên mỗi đối tượng.
Trong quy trình chọn ra hai bác sĩ: (1) có 10 năm
kinh nghiệm và (2) có 5 năm kinh nghiệm trong siêu
âm bụng tổng quát, lần lượt thực hiện đo một nhóm 50
người.
2.2.3. Biến số nghiên cứu
Giá trị trung bình của vận tốc sóng biến dạng lan
truyền trong nhu mô gan ở hai nhóm nam và nữ. Giá trị
trung bình của vận tốc sóng biến dạng lan truyền trong
nhu mô gan ở trên 50 người ngẫu nhiên đo được bởi
hai bác sĩ có kinh nghiệm khác nhau.
2.2.4. Xử lý số liệu
Dùng phần mềm MedCal và sử dụng các phép
toán thống kê thích hợp cho loại biến số định lượng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201240
nghiên CỨU KHoa HỌC
iii. KẾt QUẢ
- Tổng số đối tượng tự nguyện tham gia vào nghiên
cứu là 241 người. Tuy nhiên, sau khi sàng lọc lại với
các tiêu chuẩn chọn lọc và loại trừ bệnh nhân thì chúng
tôi chỉ lấy 50 người để đưa vào phân tích số liệu cho
nghiên cứu, trong đó phân bố giữa nam và nữ theo
bảng 3.1.
nam nữ
Số lượng
(%)
95
(39,41)
146
(60,59)
Tổng 241
- Phân bố tuổi của đối tượng tham gia nghiên cứu
từ 21 đến 72 tuổi, tuổi trung bình của nhóm đối tượng
tham gia vào nghiên cứu là 43,72.
- Tổng số lần thực hiện phép đo là 2532 lần, tuy
nhiên chúng tôi chấp nhận kết quả và đưa vào tính toán
ở 2460 lần đo, trong đó có 50 người được đo hai lần bởi
hai bác sĩ có số năm kinh nghiệm khác nhau. Có 72 lần
đo có kết quả không chấp nhận được.
- Giá trị trung bình vận tốc sóng biến dạng thu nhận
được qua kĩ thuật ARFI của hai nhóm nam và nữ, nêu
lên ở bảng 3.2. và hình 3.1.
Bảng 3.1. Vận tốc trung bình của hai giới
nam nữ
Vận tốc trung bình và độ
lệch chuẩn
1,07 m/s ± 0,12 1,04 m/s ± 0,12
Chung cho nam và nữ 1,05 m/s ± 0,12
Nhận xét: Không có sự khác biệt đáng kể về giá trị
vận tốc trung bình của sóng biến dạng đo được ở nam
và ở nữ (p<0,05).
hình 3.1. Giá trị vận tốc của sóng biến dạng. Hình A- Đo tại vùng ROI đặt ở vị trí HPT VIII.
Hình B-Kết quả qua 10 lần đo được và giá trị trung bình cùng độ lệch chuẩn
- Giá trị trung bình vận tốc sóng biến dạng thu nhận
được qua kĩ thuật ARFI của nhóm 50 người được chọn
ngẫu nhiên thực hiện bởi hai bác sĩ có kinh nghiệm
khác nhau, nêu lên ở bảng 3.3.
Bảng 3.2. Vận tốc trung bình đo được của hai bác sĩ
Bác sĩ (1) Bác sĩ (2)
Vận tốc trung bình
và độ lệch chuẩn
1,06 m/s ± 0,12 1,05 m/s ± 0,11
Nhận xét: Không có sự khác biệt đáng kể về giá trị
vận tốc trung bình của sóng biến dạng đo được bởi hai
bác sĩ có số năm kinh nghiệm khác nhau (p<0,05).
iV. Bàn LUận
Kĩ thuật tạo ra sóng biến dạng bằng áp lực của
chuỗi xung nén siêu âm (ARFI: Acoustic Radiation
Force Impulse) đã được đề cập đến trong hai năm
trở lại đây và được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực lâm
sàng khác nhau [1, 2, 3]. Nguyên lý của kĩ thuật này
là người ta phóng một xung sóng siêu âm ngắn vào
trong mô kế cận vùng tham khảo (ROI), chính áp lực
nén-giãn của xung sóng siêu âm này đã tạo ra dịch
chuyển mô theo hướng vuông góc với nó, kết quả
là đã hình thành sóng biến dạng trong mô và hướng
truyền của sóng biến dạng vuông góc với xung sóng
nén. Bước kế tiếp là thực hiện việc đo vận tốc của
sóng biến dạng bằng cách liên tục gởi vào mô vùng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 41
nghiên CỨU KHoa HỌC
tham khảo (ROI) các chùm sóng siêu âm để phát hiện
đỉnh sóng biến dạng đầu tiên hiện diện ở vùng ROI.
Khoảng cách giữa vị trí ROI với đường đi của xung
sóng siêu âm và quảng thời gian từ lúc phát đi xung
sóng nén siêu âm, cho đến khi phát hiện đỉnh sóng
biến dạng hiện diện trong ROI sẽ cho phép tính được
vận tốc của sóng biến dạng.
Việc tính toán được vận tốc của sóng biến dạng
trong mô cho phép biết được đặc tính đàn hồi (từ đó
nói lên được độ cứng) của mô qua công thức tính suất
YOUNG (E = 3ρ.v2), trong đó E có đơn vị là kPa, ρ là
tỉ trọng của mô có đơn vị là kg/m3 và v là vận tốc của
sóng biến dạng lan truyền bên trong mô khảo sát.
Hình 4.1. Kĩ thuật đo vận tốc sóng biến dạng bằng
cách tạo ra sóng biến dạng bằng áp lực của xung
sóng siêu âm
Để có thể áp dụng kĩ thuật đánh giá độ đàn hồi (qua
đó biết được độ cứng) của mô gan bệnh lý ở người Việt
Nam, chúng tôi thiết nghĩ cần có giá trị nền ở người
bình thường để lấy đó làm tham khảo. Qua 241 người
khỏe mạnh bình thường và 2.532 lần đo vận tốc sóng
biến dạng bằng kĩ thuật ARFI, giá trị vận tốc thu được
là 1,05m/s ± 0,12. Giá trị vận tốc mà chúng tôi thu được
khá tương đồng với các kết quả của các tác giả trong
nước [4] và cũng khá tương đồng với các tác giả ngoài
nước [1, 2, 5].
Kết quả bảng 3.2 cho thấy, kĩ thuật đo hầu như
không phụ thuộc vào tính chủ quan của người làm, điều
này phản ánh tính khách quan trong phép đo định lượng
của kĩ thuật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đo vận
tốc sóng biến dạng, có 72 lần đo có kết quả không chấp
nhận được do lúc tiến hành đo thì đối tượng có cử động
hô hấp mặc dù đã được hướng dẫn ngưng thở trước
khi tiến hành đo. Thường kết quả những lần đo có cử
động hô hấp thì sai lệch nhiều so với những lần đo
không có cử động hô hấp.
V. KẾt LUận
Đo vận tốc sóng biến dạng được tạo ra trong mô
gan bằng áp lực xung sóng nén siêu âm là kĩ thuật
tương đối mới, đã mở ra hướng áp dụng đầy hứa hẹn
trong lâm sàng. Giá trị sóng biến dạng trung bình trong
gan ở người bình thường qua tiến hành đo ở 241 đối
tượng là 1,05m/s ± 0,12 được đề xuất như giá trị tham
khảo cho các nghiên cứu sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Goertz R.S et al, 2010. “Measurement of
liver elasticity with acoustic radiation force impulse
technology: an alternative noninvasive method for
staging liver fibrosis in viral hepatis”. Ultraschall Med.
2010 Apr, 31(2):151-5.
2. Florentina Guzman-Aroca et al. “Reproducibility of
shear wave velocity measurements by acoustic radiation
force impulse imaging of the Live. A study in healthy
voluntees”. J Ultrasound Med 2011; 30:975-979.
3. Lazebnik et al. “Tissue strain analytics Virtual
touch imaging and quantification”. Siemens Medical
Solution, 2008.
4. Liem Thanh Le et al, 2011. “Noninvasive Liver
Fibrosis evaluation by Acuson S2000 and Fibroscan on
554 cases: comparison ARFI technique to Transient
Elastography”. Medic center.
5. Lupsor M et al, 2009. “Perfomance of a new
elastographic method (ARFI technology compared to
unidimensional transient elastography in the noninvasive
assessment of chronic hepatic C. Preliminary results”. J
Gastrointestin Liver Dis. 2009, Dec; 18(4) 411-2.
6. Martinez S.M et al,2011. “Noninvasive
Assessment of Liver Fibrosis”. Hepatology 2011,
53:325-335.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201242
nghiên CỨU KHoa HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định giá trị tham khảo về vận tốc của sóng biến dạng lan truyền
trong mô gan qua kĩ thuật tạo xung nén áp lực siêu âm.
Đối tượng và phương pháp: Khảo sát ở 241 người bình thường, không có tiền sử về bệnh lý gan mật, thận
mạn, suy tim. Tiến hành đo sóng biến dạng ở vị trí cách bề mặt da từ 3 đến 4cm ở hạ phân thùy 7 hay 8 khi đối
tượng được hướng dẫn nhịn thở. Trong số này, chọn ra ngẫu nhiên 50 đối tượng được đo hai lần bởi hai bác sĩ có
kinh nghiệm khác nhau.
Kết quả: Tất cả số lần đo là 2.532. Giá trị trung bình vận tốc của sóng biến dạng là 1,05 ± 0,12m/s. Giá trị vận
tốc này không khác biệt đáng kể giữa hai giới. Không có sự khác biệt giữa kết quả của hai bác sĩ có số năm kinh
nghiệm khác nhau.
Kết luận: Đo vận tốc sóng biến dạng bằng kĩ thuật xung áp lực nén siêu âm (ARFI) ở người bình thường là 1,05
± 0,12 m/s. Kĩ thuật đo có tính lặp lại tốt và hầu như không có phụ thuộc vào người làm.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS.TS. Nguyễn Duy Huề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_van_toc_song_bien_dang_lan_truyen_trong_mo_gan_nguoi.pdf