Các điều kiện bảo đảm tính khả thi của quy phạm xung đột về nuôi con
nuôi trong tư pháp quốc tế
3.1. Cần thừa nhận một nguyên tắc quan trọng: Xung đột pháp luật trong các quan
hệ dân sự có yếu tốc nước ngoài nói chung, trong quan hệ nuôi con nuôi nói riêng là
một hiện tượng thực tế tất yếu, khách quan trong bối cảnh mở rộng quan hệ đối ngoại
giữa các quốc gia. Giải quyết xung đột pháp luật bằng phương pháp xung đột (xây
dựng các quy phạm xung đột làm cơ sở lựa chọn pháp luật áp dụng) là giải pháp hữu
hiệu nhất đã được các quốc gia thừa nhận và áp dụng hàng trăm năm nay.
3.2. Tính khả thi của quy phạm xung đột, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song quan
trọng nhất là:
- Pháp luật xung đột phải đầy đủ, đồng bộ;
- Pháp luật nội dung phải thống nhất, rõ ràng;
- Pháp luật thủ tục phải công khai, minh bạch.
Các điều kiện nêu trên được gọi mà “sự hội tụ Tam Quy kỳ diệu”, bảo đảm tối đa cho
tính khả thi của tư pháp quốc tế nói chung.
Tóm lại, chừng nào con xung đột pháp luật, chừng đó việc xây dựng và áp dụng các
quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế còn được xem như là một “nghệ thuật” lựa
chọn kiểu mẫu!
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
35
Chiều ngày 25- 05-2005
GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VÀ XUNG ĐỘT
THẨM QUYỀN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
NGUYỄN CÔNG KHANH
Phó Cục trưởng Cục Con nuôi quốc tế,
Bộ Tư pháp Việt Nam
Quan hệ nuôi con nuôi trong tư pháp quốc tế Việt Nam là quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài, tức là nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài –
xét theo nghĩa hẹp. Tuy rằng Việt Nam chưa ban hành đạo luật riêng về tư pháp quốc
tế để điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài,
trong đó có quan hệ nuôi con nuôi, song trên thực tế, các quan hệ này đã được điều
chỉnh “lồng ghép” trong các văn bản pháp luật dân sự của Việt Nam. Các quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh chủ yếu trong Bộ luật dân sự; Luật hôn
nhân và gia đình (chương XI); Nghị định 68/2002/NĐ-CP và đặc biệt, trong các hiệp
định song phương về tương trợ tư pháp và hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với
các nước (xin lưu ý, cho đến nay, Việt Nam chưa là thành viên của bất kỳ điều ước
quốc tế đa phương nào trong lĩnh vực tư pháp quốc tế liên quan đến vấn đề nuôi con
nuôi).
Dưới góc độ tư pháp quốc tế, theo tôi, có hai vấn đề cơ bản cần xem xét giải quyết khi
đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là: lựa chọn pháp luật áp dụng
đối với các vấn đề xoay quanh quan hệ nuôi con nuôi (như điều kiện nuôi con nuôi –
đối với người xin nhận con nuôi, đối với trẻ em; sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; hệ
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi) và lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết các
việc về nuôi con nuôi của Việt Nam hay của nước ngoài (cơ quan hành chính đối với
việc đăng ký hộ tịch và cơ quan tố tụng đối với tranh chấp về nuôi con nuôi).
Đó là những vấn đề, tuy được quy định trong pháp luật Việt Nam hiện nay liên quan
đến chế định nuôi con nuôi dưới khía cạnh tư pháp quốc tế, nhưng chắc chắn rằng,
chưa hoàn toàn đầy đủ và ở mức độ nhất định, còn có tính áp đặt chủ quan, mang
nặng tư duy pháp lý của một nước cho trẻ em làm con nuôi là chủ yếu (nước gốc).
1. Luật nhân thân (lex personalis) – nguyên tắc cơ bản được lựa chọn để giải
quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi
Phù hợp với tư pháp quốc tế của nhiều nước, tư pháp quốc tế Việt Nam cũng thừa
nhận và áp dụng hệ thuộc Luật Nhân thân (lex personalis) như một hệ thuộc cơ bản
để giải quyết xung đột pháp luật trong các quan hệ về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, như xung đột về điều kiện nuôi con nuôi, về các hệ quả pháp lý của việc nuôi
con nuôi.
1.1. Điều kiện nuôi con nuôi
1.1.1. Đối với người xin nhận con nuôi
- Theo Điều 105 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (HNGĐ), có hai hệ thuộc
cùng được áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi
là pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước mà người xin nhận con nuôi có quốc tịch
(Lex Nationalis).
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
36
- Theo Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, cũng có hai hệ thuộc cùng được áp dụng
để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi thường trú (Lex
Domicili).
- Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước (Nga, Séc,
Xlôvakia, Bungary, Hungary, Ucraina, Cuba,), áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch (Lex
Nationalis) của người xin nhận con nuôi để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với
người đó; riêng Hiệp định tương trợ tư pháp với Lào thì áp dụng hệ thuộc luật quốc
tịch của trẻ em được xin làm con nuôi.
- Còn trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước
(Pháp, Italia, Đan Mạch, Ailen, Thụy Điển, Bỉ), cũng áp dụng hai hệ thuộc để xác định
điều kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi là pháp luật của Nước nhận
(nơi người xin con nuôi thường trú) và pháp luật của Nước gốc (nơi trẻ em thường trú
và có quốc tịch).
Như vậy, trong tư pháp quốc tế Việt Nam, hệ thuộc luật nhân thân của người xin con
nuôi (Lex Personalis) là hệ thuộc cơ bản được thống nhất áp dụng để xác định điều
kiện nuôi con nuôi đối với người xin nhận con nuôi.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định trên đây, đôi khi cũng nảy sinh những khó
khăn, phức tạp, bởi các quy định trên đây, tưởng như chặt chẽ và phù hợp với thông lệ
quốc tế, nhưng bản thân nó lại chứa đựng những điểm mâu thuẫn hoặc không rõ ràng,
gây khó khăn trong việc áp dụng. Đó là việc áp dụng quy định tại Điều 105 khoản 1
của Luật hôn nhân và gia đình và Điều 37 của Nghị định 68/2002/NĐ-CP.
Ví dụ, trong việc xác định pháp luật áp dụng về điều kiện nuôi con nuôi đối với một
công dân Nga nhưng thường trú tại Pháp, muốn xin nhận trẻ em Việt Nam thường trú
tại Việt Nam làm con nuôi. Về nguyên tắc, trước hết, người đó phải đáp ứng đủ các
điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam (Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình).
Ngoài ra, theo Điều 105 của Luật Hôn nhân và gia đình, người đó còn phải tuân theo
pháp luật của Nga về nuôi con nuôi (theo hệ thuộc lex nationalis). Điều đó cũng phù
hợp với quy định tại Điều 28 khoản 1 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và
Nga. Tuy nhiên, vì người đó thường trú tại Pháp, nên người đó lại còn phải tuân theo
pháp luật của Pháp (nơi thường trú) về điều kiện nuôi con nuôi (theo Điều 37 Nghị
định 68/2002/NĐ-CP và Điều 10 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi Việt – Pháp). Như
vậy, ở đây có ba hệ thống pháp luật cùng được áp dụng để xác định điều kiện nuôi con
nuôi đối với cha mẹ nuôi (pháp luật Việt Nam – nơi trẻ em thường trú và có quốc tịch;
pháp luật Pháp – nơi người đó thường trú). Vấn đề phức tạp đặt ra là, nếu pháp luật
của ba nước này có những quy định khác nhau về điều kiện nuôi con nuôi (mà chắc
chắn là khác nhau), thì áp dụng pháp luật nước nào?
Điều may mắn là, trong pháp luật Việt Nam có quy định một nguyên tắc “nếu điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác, thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó” (Điều 7 khoản 2 Luật HNGĐ, Điều 4 Nghị định 68/2002/NĐ-CP).
Nhưng lưu ý là, trong ví dụ trên đây có hai loại điều ước quốc tế của Việt Nam liên
quan đến vấn đề chọn luật áp dụng để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với cha mẹ
nuôi, trong đó Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga thì theo hệ thuốc luật quốc
tịch và Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi Việt – Pháp thì theo hệ thuộc luật nơi cư
trú.
Do đó, câu hỏi tôi muốn đặt ra tại hội thảo này là, sẽ phải áp dụng quy định của hiệp
định nào trên đây để xác định điều kiện nuôi con nuôi đối với trường hợp cụ thể trong
ví dụ nêu trên?
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
37
1.1.2. Đối với trẻ em được cho làm con nuôi
Trong tất cả các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giứa Việt Nam với các nước, đều
thống nhất áp dụng pháp luật của Nước gốc (nước mà trẻ em có quốc tịch và thường
trú) để xác định điều kiện của trẻ em được cho làm con nuôi. Điều kiện cho trẻ em
Việt Nam làm con nuôi được quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình và Điều
36 Nghị định 68/2002/NĐ-CP.
Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế ở chỗ, trên nguyên tắc chủ quyền quốc
gia, mỗi nước đều có quyền đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn và đối tượng của trẻ
em được cho làm con nuôi, có thể theo hướng mở rộng hoặc hạn chế, tùy thuộc vào
điều kiện đối với trẻ em được cho làm con nuôi là theo hướng “mở rộng có điều kiện”,
bảo đảm chặt chẽ, tránh bị lợi dụng.
1.2. Về sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi
Về sự đồng ý của những người có quyền cho trẻ em làm con nuôi, cũng như hình thức
thể hiện sự đồng ý đó, theo thực tiễn tư pháp quốc tế ở nhiều nước hiện nay, phải
tuân theo pháp luật của nước nơi trẻ em đó có quốc tịch và thường trú (Nước gốc).
Trong các Hiệp định về nuôi con nuôi của Việt Nam được xin làm con nuôi, thì sự đồng
ý của những người có quyền cho trẻ em làm con nuôi, kể cả của bản thân trẻ em đó
(từ đủ 9 tuổi trở lên) và hình thức thể hiện sự đồng ý đó (bằng văn bản), phải tuân
theo pháp luật Việt Nam (Nước gốc). Quy định này cũng được thể hiện thống nhất
trong các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi của Việt Nam với các nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình thực hiện, vẫn có những vướng mắc nhất
định. Đó là trong việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi theo hình thức “trọn vẹn”, nhiều
khi cha mẹ đẻ hoặc những người có quyền khác, không nhận thức được một cách đầy
đủ những hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trọn vẹn là như thế nào. Do đó, trong
biểu mẫu giấy tờ về sự đồng ý của những người này, các cơ quan có thẩm quyền của
các nước đã ký kết hiệp định con nuôi với Việt Nam đều yêu cầu phía Việt Nam phải
đưa thêm một câu là “ sau khi đã nhận thức một cách đầy đủ về các hệ quả pháp lý
của việc nuôi con nuôi, tôi hoàn toàn tự nguyện đồng ý cho con tôi làm con nuôi theo
hình thức trọn vẹn”. Tôi cho rằng, cách làm này cũng là cần thiết, nhưng chỉ là biện
pháp tình thế và có phần áp đặt. Cần tính đến giải pháp lâu dài và an toàn hơn.
1.3. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
1.3.1. Nội dung các hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Theo pháp luật của nhiều nước hiện nay, tùy thuộc vào mỗi hình thức nuôi con nuôi
(đơn giản hay trọn vẹn), có thể làm phát sinh các hệ quả pháp lý sau đây:
- Quan hệ pháp lý cha mẹ và con (đầy đủ) giữa cha mẹ nuôi và con nuôi: quan hệ
cấp dưỡng, quyền đại diện theo pháp luật, quyền đại diện theo pháp luật, quyền thừa
kế tài sản
- Trẻ em mặc nhiên có quốc tịch của cha mẹ nuôi.
- Chấm dứt quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa cha mẹ đẻ (và họ hàng gốc) với
trẻ em được cho làm con nuôi, kể cả quan hệ thừa kế theo pháp luật.
1.3.2. Pháp luật áp dụng
Tuyệt đại đa số các nước đều áp dụng hệ thuộc “nơi thực hiện việc nuôi con nuôi” (nơi
xảy ra hành vi pháp lý) để xác định pháp luật áp dụng đối với hệ quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi. Trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
38
nước cũng áp dụng hệ thuộc này. Điều đó hiểu rằng, trong trường hợp trẻ em Việt
Nam được nhận làm con nuôi tại các nước đã ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con
nuôi với Việt Nam, thì hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi đó sẽ được xác định theo
pháp luật của nước ký kết, nơi thường trú của cha mẹ nuôi. Như vậy, Việt Nam đã
chấp nhận toàn bộ nội dung của hệ quả pháp lý phát sinh từ việc cho trẻ em Việt Nam
làm con nuôi tại nước ký kết Hiệp định, tất nhiên, bao gồm cả việc chấm dứt hoàn
toàn quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giứa cha mẹ đẻ và trẻ em, trong đó có quan hệ
thừa kế theo pháp luật.
Nhưng điều quan trọng cần lưu ý là, hiện nay trong pháp luật Việt Nam, chưa có văn
bản pháp luật nàp quy định một cách đầy đủ, rõ ràng về những hệ quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi giống như pháp luật nhiều nước quy định, ngoại trừ quy định tại
Điều 74 và Điều 75 của Luật hôn nhân và gia đình. Nhưng hai điều này cũng chỉ quy
định một cách chung chung rằng, sau khi việc nuôi con nuôi được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, thì giữa người nuôi và con nuôi phát sinh đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật; cha mẹ nuôi có quyền
thay đổi họ tên cho con nuôi. Còn các hệ quả pháp lý khác thì không được quy định.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 679 và Điều 681 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995,
thì có thể gián tiếp hiểu rằng, pháp luật Việt Nam vẫn cho phép cha mẹ đẻ và trẻ em
(được cho làm con nuôi) duy trì các quan hệ pháp lý của cha mẹ và con. Tức là, trẻ em
được cho làm con nuôi vẫn duy trì quan hệ pháp lý với cha mẹ đẻ, kể cả quan hệ thừa
kế theo pháp luật (vì pháp luật vẫn thừa nhận họ cùng ở hàng thừa kế thứ nhất). Đây
là một thực trạng gây nhiều khó khăn, phức tạp không chỉ cho vấn đề nuôi con nuôi
trong nước (giữa công dân Việt Nam với nhau), mà nhất là vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Vì thế, để giải quyết vấn đề này, giải pháp tối ưu được đưa vào các
hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi là xây dựng quy phạm xung đột, dẫn chiếu đến
pháp luật của Nước nhận để xác định các hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Giải
pháp này được 6 nước đã ký kết hiệp định với Việt Nam hoàn toàn ủng hộ.
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, trao đổi với một số nước khác, nhất là Canađa
(Quê bếc), giải pháp xây dựng quy phạm xung đột lại không được phía Canađa ủng
hộ. Đó cũng là sự khác nhau cơ bản trong dự thảo hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi
Việt Nam – Canađa hiện nay.
2. Lựa chọn cơ quan có thẩm quyền
Giải quyết xung đột về thẩm quyền đối với vấn đề con nuôi quốc tế là nội dung quan
trọng thứ hai của tư pháp quốc tế Việt Nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin phép không đề cập đến thẩm quyền
xét xử của Toà án Việt Nam đối với các tranh chấp về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, mà chỉ đề cập đến thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi, tức là quyền
quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
2.1. Cơ sở pháp lý và căn cứ xác định thẩm quyền
Việc xác định thẩm quyền giải quyết vấn đề con nuôi quốc tế ở Việt Nam hiện nay dựa
trên cơ sở pháp lý sau:
2.1.1. Pháp luật Việt Nam
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: Điều 102 (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Cơ
quan đại diện ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài).
- Nghị định 68/2002/NĐ-CP: Điều 39 (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh – thẩm quyền theo
địa hạt, nơi cư trú của trẻ em được cho làm con nuôi).
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
39
2.1.2. Hiệp định tương trợ tư pháp
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước, việc xác định thẩm
quyền giải quyết vấn đề nuôi con nuôi dựa trên các căn cứ sau:
- Quốc tịch của cha mẹ nuôi.
- Nơi thường trú chung của cha mẹ nuôi, nếu hai người khác quốc tịch.
- Quốc tịch của con nuôi hoặc nơi thường trú của con nuôi.
2.1.3. Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi
Trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước phân biệt hai
giai đoạn (hai thủ tục) trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi, tương ứng với mỗi
giai đoạn là thuộc thẩm quyền của các nước khác nhau và do các cơ quan khác nhau
thực hiện.
- Thẩm quyền (quyết định) cho trẻ em làm con nuôi và tiến hành thủ tục giao nhận
con nuôi, thuộc Nước ký kết mà trẻ em là công dân (Nước gốc). Đối với Việt Nam,
thẩm quyền quyết định việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi thường trú của trẻ em đó; thủ tục giao nhận con nuôi
do Sở Tư pháp tiến hành.
- Thẩm quyền công nhận việc nuôi con nuôi, cũng như các hệ quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi, thuộc Nước ký kết nơi tiến hành việc nuôi con nuôi (Nước nhận). Đối với
Việt Nam, thẩm quyền này cũng thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi thường trú của
con nuôi (cùng với cha mẹ nuôi).
3. Các điều kiện bảo đảm tính khả thi của quy phạm xung đột về nuôi con
nuôi trong tư pháp quốc tế
3.1. Cần thừa nhận một nguyên tắc quan trọng: Xung đột pháp luật trong các quan
hệ dân sự có yếu tốc nước ngoài nói chung, trong quan hệ nuôi con nuôi nói riêng là
một hiện tượng thực tế tất yếu, khách quan trong bối cảnh mở rộng quan hệ đối ngoại
giữa các quốc gia. Giải quyết xung đột pháp luật bằng phương pháp xung đột (xây
dựng các quy phạm xung đột làm cơ sở lựa chọn pháp luật áp dụng) là giải pháp hữu
hiệu nhất đã được các quốc gia thừa nhận và áp dụng hàng trăm năm nay.
3.2. Tính khả thi của quy phạm xung đột, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song quan
trọng nhất là:
- Pháp luật xung đột phải đầy đủ, đồng bộ;
- Pháp luật nội dung phải thống nhất, rõ ràng;
- Pháp luật thủ tục phải công khai, minh bạch.
Các điều kiện nêu trên được gọi mà “sự hội tụ Tam Quy kỳ diệu”, bảo đảm tối đa cho
tính khả thi của tư pháp quốc tế nói chung.
Tóm lại, chừng nào con xung đột pháp luật, chừng đó việc xây dựng và áp dụng các
quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế còn được xem như là một “nghệ thuật” lựa
chọn kiểu mẫu!
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2005
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_quyet_xung_dot_phap_luat_va_xung_dot_tham_quyen_ve_nuoi.pdf