Hoàn thiện các quy định về hoạt động của các tổ chức trung gian nhằm phát triển thị trường khoa học - công nghệ

Một số kiến nghị hoàn thiện các văn bản pháp quy về tổ chức trung gian khoa học công nghệ Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hoàn thiện các văn bản pháp quy về tổ chức trung gian khoa học công nghệ, cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là, cần đánh giá thực trạng triển khai các quy định pháp luật hiện hành (phân tích, báo cáo làm rõ những kết quả đạt được, những khó khăn hạn chế; phân tích, đánh giá các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giải quyết) về phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian. Hai là, cần phân tích tác động của Luật CGCN năm 2017 đối với phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian. Ba là, cần phân tích tác động của các quy định pháp luật khác có liên quan, khi bị tác động bởi Luật CGCN năm 2017 về phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện các quy định về hoạt động của các tổ chức trung gian nhằm phát triển thị trường khoa học - công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Văn Nam* * PGS. TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt: Để cụ thể hóa các quy định của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, hàng loạt văn bản dưới luật được ban hành để quy định và hướng dẫn hoạt động chuyển giao công nghệ, dịch vụ chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ, gồm 05 Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 03 Thông tư liên tịch; và 10 Thông tư. Tuy nhiên, nếu tập trung vào các biện pháp khuyến khích phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ, hoạt động của các tổ chức trung gian, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 chưa thực sự có những quy định đột phá để có thể khơi thông phát triển thị trường khoa học và công nghệ gắn với chuyển giao, thương mại hóa công nghệ và hoạt động của các tổ chức trung gian. Do vậy, cần thiết phải xây dựng và ban hành, hoàn thiện các văn bản dưới luật về địa vị pháp lý cũng như hoạt động của các tổ chức trung gian khoa học công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới. Abstract: In order to further detail the provisions under the Law on Technology Transfer of 2017, a series of the infra-law documents are issued to regulate and further guide the technology transfer activities, technology transfer services, technology renewal and technology transfer to develop the technology market, they include 05 governmental decrees; the decision of the Prime Minister; 03 inter-ministrial circulars and 10 circulars. However, if the measures are only focused to encourage the development of the science and technology markets, commercialization of the technological development and research results, the performance of the intermediaries, the Law on Technology Transfer of 2006 did not really have breakthrough the regulations that can promote the development of science and technology markets associated with the transfer, commercialization of technology and the performance of intermediary organizations. Therefore, it is necessary to develop, issue as well as improve the legal documents on the legal positions and performances of the scientific and technological intermediary organizations in Vietnam in the coming time. Thông tin bài viết: Từ khóa: tổ chức trung gian; khoa học công nghệ; văn bản pháp quy Lịch sử bài viết: Nhận bài: 27/12/2017 Biên tập: 12/01/2018 Duyệt bài: 19/01/2018 Article Infomation: Keywords: intermediary organization; science and technology; infra-law documents Article History: Received: 27 Dec. 2017 Edited: 12 Jan. 2018 Approved: 19 Jan. 2018 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TRUNG GIAN NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 89Số 3+4 (355+356) T02/2018 1. Sự cần thiết, tính cấp bách của việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về các tổ chức trung gian khoa học công nghệ ở Việt Nam Thị trường khoa học và công nghệ (KH&CN) nước ta những năm gần đây có sự phát triển nhất định nhưng thiếu tính đột phá do thiếu các tổ chức trung gian đủ mạnh có thể thúc đẩy hoạt động sáng tạo, kết nối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, các doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng trưởng nhanh, các viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức tài chính, nhà sáng tạo, v.v.. Thực tế, tổ chức trung gian đang là điểm nghẽn hiện nay của thị trường KH&CN. Các sàn giao dịch hoạt động kém và thiếu hiệu quả do thiếu nguồn lực, cơ sở hạ tầng, dữ liệu công nghệ, nguồn nhân lực. Các tổ chức đủ năng lực cung cấp các dịch vụ đánh giá, định giá, giám định công nghệ còn hạn chế, các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ trong các trường đại học chưa thể hiện được vai trò trung gian kết nối cung công nghệ từ trường, viện với cầu công nghệ từ phía doanh nghiệp. Nguồn nhân lực chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ, cơ sở vật chất và phương thiện kỹ thuật còn yếu. Số lượng các tổ chức trung gian đủ năng lực cung cấp các dịch vụ giải mã, tư vấn thương mại hóa công nghệ còn hạn chế. Các trung tâm đổi mới sáng tạo trong các trường đại học được thành lập thưa thớt, do đó khó có thể hình thành mạng lưới các trung tâm này để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp công nghệ. Để tháo gỡ nút thắt này, thúc đẩy các tổ chức trung gian phát triển qua đó hình thành mạng lưới các tổ chức đủ năng lực kết nối các chủ thể trên thị trường KH&CN, cần có các biện pháp mới, đủ mạnh để hỗ trợ phát triển các tổ chức trung gian, đặc biệt có cơ chế, chính sách hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) tập trung vào hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ hoạt động của các tổ chức trung gian, trụ cột là sàn giao dịch công nghệ quốc gia, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cấp quốc gia trong thời gian đầu, tổ chức đào tạo nguồn nhân lực cho tổ chức trung gian, hỗ trợ cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở dữ liệu, nâng cao năng lực khai thác thông tin về công nghệ, sở hữu trí tuệ, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao công nghệ (CGCN), đánh giá, định giá và giám định công nghệ. Cùng với sự hạn chế của các tổ chức trung gian, chính sách hiện hành về giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng NSNN mặc dù đã có đột phá nhất định nhưng vẫn chưa thực sự giải quyết được điểm "nghẽn" trong việc đưa các kết quả nghiên cứu ra thị trường. Yêu cầu về định giá đối với các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng NSNN, kể cả trường hợp Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí kèm theo đó là việc tổ chức hội đồng tư vấn giao quyền trong trường hợp cần làm rõ thêm kết quả định giá và quy định về phân chia lợi ích cho các chủ thể là đại diện chủ sở hữu nhà nước (tối đa 10%), tổ chức môi giới (tối đa 10%), tổ chức chủ trì và tác giả (tối thiểu 30%) trong trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu, v.v.. là chưa hợp lý, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động giao quyền. Để góp phần tháo gỡ những nút thắt về cơ chế để thúc đẩy lưu thông công nghệ trên thị trường KH&CN, cần có các chính sách mang tính đột phá và được luật hóa mới THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 90 Số 3+4 (355+356) T02/2018 có thể giải quyết triệt để tình trạng "bỏ vào ngăn kéo" các kết quả nghiên cứu. Cụ thể cần thực hiện cơ chế Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cho tổ chức đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, tài chính, đồng thời là tổ chức chủ trì trong trường hợp Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đối với trường hợp Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, cần có cơ chế trong Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo thỏa thuận giữa tổ chức đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, tài chính và tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ. Để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, qua đó gia tăng hoạt động giao dịch trên thị trường, cần có cơ chế khuyến khích tác giả và tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ thông qua việc bảo đảm phân chia lợi nhuận hợp lý giữa tác giả, người môi giới, đại diện chủ sở hữu nhà nước, có như vậy mới có thể thúc đẩy, khuyến khích hoạt động sáng tạo cũng như thương mại hóa các kết quả hình thành từ các hoạt động sáng tạo đó. Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện cơ chế công nhận các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ do tổ chức, cá nhân tự đầu tư kinh phí và nếu kết quả đó có ý nghĩa về an ninh, quốc phòng, kinh tế xã hội thì cũng có thể xem xét mua các kết quả đó. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế hỗ trợ kinh phí, lãi suất vay vốn, bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ưu tiên trường hợp có hoạt động liên kết với tổ chức ứng dụng, CGCN địa phương để hoàn thiện kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phù hợp đặc thù của địa phương. 2. Thực trạng ban hành văn bản pháp quy về địa vị pháp lý và hoạt động của các tổ chức trung gian khoa học và công nghệ ở nước ta trong thời gian qua Sau gần 10 năm thực thi Luật CGCN năm 2006, một số mục tiêu đặt ra khi xây dựng Luật này chưa đạt được như kỳ vọng, cụ thể là việc thu hút công nghệ cao, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam, phát triển thị trường KH&CN, đẩy mạnh hoạt động giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thúc đẩy sự liên kết giữa khu vực viện, trường với doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ,... Một trong những nguyên nhân của kết quả này bắt nguồn từ hệ thống chính sách không còn phù hợp với bối cảnh thực tế, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, một số cơ chế đã có nhưng chưa được luật hóa nên khó có thể bảo đảm việc thực thi hiệu quả. Để phát triển thị trường KH&CN, thúc đẩy thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng như nâng cao vai trò của các tổ chức trung gian trong việc tư vấn, môi giới, xúc tiến thương mại hóa công nghệ, trong những năm qua, Bộ KH&CN đã tập trung nguồn lực hoàn thiện môi trường thể chế, cụ thể đã ban hành một loạt các văn bản sau: - Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 quy định trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng NSNN; - Thông tư số 16/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 quy định về điều kiện thành lập, hoạt động của tổ chức trung gian của thị trường KH&CN; - Thông tư số 02/2015/TT-BKHCN THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 91Số 3+4 (355+356) T02/2018 ngày 06/3/2016 quy định việc đánh giá và thẩm định kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng NSNN. - Thông tư liên tịch số 3912014/ TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng NSNN; - Thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định số 2075/QĐ-TTG ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Thông tư số 32/2014/ TT-BKHCN ngày 06/11/2014 hướng dẫn quản lý Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020; Thông tư liên tịch số 59/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/4/2015 hướng dẫn quản lý tài chính thực hiện Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020. Nhằm triển khai, thực thi các quy định trên, hàng loạt các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường KH&CN đã được tổ chức thực hiện nhằm nâng cao năng lực cho các chủ thể trong thị trường, như tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị về giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu, xúc tiến thương mại hóa công nghệ, phát triển thị trường công nghệ, phát triển doanh nghiệp KH&CN, định giá tài sản trí tuệ sử dụng NSNN v.v..; thực hiện một loạt các đề tài, đề án như: "Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để đề xuất nguyên tắc, cách tiếp cận và quy trình định giá tài sản trí tuệ áp dụng tại Việt Nam", "Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng quy định về việc giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu KH&CN thuộc sở hữu nhà nước"; tổ chức các Chợ công nghệ và thiết bị, các sự kiện kết nối cung cầu công nghệ, triển lãm các sản phẩm sáng tạo của các cơ sở nghiên cứu, ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (techfest), v.v.. Sự kiện "Ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ năm 2017” (TechDemo) tại Đà Nẵng TechDemo năm 2017 gồm hai nội dung chính là trình diễn và kết nối cung - cầu công nghệ và hội nghị các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, cùng hàng loạt hoạt động chuyên ngành hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, sự kiện cung cấp thông tin 1.800 nguồn cung công nghệ, 500 thông tin chuyên gia tư vấn về công nghệ, giới thiệu trên 500 sản phẩm/ quy trình/công nghệ/thiết bị nghiên cứu của gần 200 doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức KH&CN trong nước và 55 tổ chức, doanh nghiệp quốc tế (Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Úc, Mỹ, Đài Loan v.v..). TechDemo 2017 tập trung vào các lĩnh vực: Công nghệ sản xuất ô tô và công nghiệp phụ trợ; Cơ khí chế tạo trong nông nghiệp, Năng lượng tái tạo, quản lý nguồn nước và phát triển bền vững; Nông nghiệp Công nghệ cao và Hữu cơ; Công nghệ thông tin; Điện tử và Viễn thông; Y tế; Thủy sản; Nhựa; Dịch vụ ngân hàng; và các lĩnh vực liên quan vv... Một trong những điểm mới của TechDemo năm 2017 là sự tham gia của nhiều doanh nghiệp lớn có hoạt động ứng dụng và đổi mới công nghệ tiêu biểu. Đặc biệt là sự có mặt của các Viện nghiên cứu, Trường Đại học và tổ chức KH&CN, đặc biệt là Viện THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 92 Số 3+4 (355+356) T02/2018 Với việc từng bước hoàn thiện thể chế cùng với các sự kiện kết nối, xúc tiến được tổ chức hàng năm, hoạt động của thị trường ngày càng sôi động, điển hình có chợ công nghệ và thiết bị quốc gia và quốc tế, sàn giao dịch công nghệ (kể cả sàn giao dịch điện tử), hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ ở các địa phương và vai trò gia tăng của các trung tâm ứng dụng và phát triển công nghệ ở 63 tỉnh, thành, các tổ chức xúc tiến CGCN trong các trường đại học. Thị trường KH&CN được thúc đẩy phát triển và bước đầu phát huy vai trò vừa là nền tảng, vừa là cầu nối, gắn kết hoạt động KH&CN với sản xuất, kinh doanh. Các chợ công nghệ và thiết bị, sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian công nghệ ở quy mô quốc gia, vùng, địa phương đã góp phần quan trọng thúc đẩy kết nối cung cầu công nghệ, gia tăng số lượng và giá trị các giao dịch công nghệ giữa doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu. Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, các cơ chế, chính sách liên quan đến khuyến khích phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, và hoạt động của tổ chức trung gian vẫn đang thiếu sự đột phá. Dự án xây dựng Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) là cơ hội để đưa những quy định mới mang tính đột phá trong việc thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN, nâng cao hiệu quả thương mại hóa kết quả nghiên cứu cũng như hoạt động của tổ chức trung gian hoặc nội luật hóa các cơ chế, chính sách, các quy định trong các nghị quyết, các văn bản dưới luật để nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tiễn. Luật CGCN năm 2017 được Quốc hội thông qua đã có những quy định về thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, phát triển nguồn cung nguồn cầu công nghệ, Hàn lâm Khoa học Việt Nam đã có nhiều công nghệ, trình diễn công nghệ từ các kết quả nghiên cứu: chế tạo máy bay không người lái, thiết bị phát hiện hỏng hóc của ô tô, xe máy v.v.. Tại lễ khai mạc đã diễn ra lễ ký kết 12 hợp đồng CGCN với giá trị gần 200 tỷ: hợp đồng CGCN sản xuất than sinh học và dấm gỗ sinh học ứng dụng trong xử lý chất thải môi trường và bảo vệ thực vật sinh học giữa Hiệp hội nghiên cứu GBT (Nhật Bản) với Công ty Phân bón và dịch vụ tổng hợp, giá trị hợp đồng CGCN là 1.000.000 USD; Hợp đồng CGCN nuôi tôm hùm thương phẩm, công nghệ làm lạnh đông cồn, mô hình nuôi cua lột, mô hình sản xuất giống và nuôi hàu, mô hình ương nuôi cá chình hoa giống và thương phẩm giữa Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III và Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc, Công ty Cổ phần Bá Hải, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại thủy sản Phú Yên, với giá trị ký kết 37 tỷ đồng Ngoài ra, còn có lễ ký kết hợp tác liên kết hoạt động quản lý và phát triển KH&CN của 13 Sở KH&CN vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên; Lễ ký kết hợp tác giữa Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ với Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) về việc hợp tác xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và CGCN thúc đẩy phát triển công nghệ trong khu vực tư nhân vv Nguồn: Cong-nghe/Khai-mac-su-kien-Ung- dung-chuyen-giao-va-doi-moi-cong -nghe-nam-2017-467523/ THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 93Số 3+4 (355+356) T02/2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 2. Trần Văn Nam (2017); Thực trạng và giải pháp pháp lý thúc đẩy dịch vụ chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, Tạp chí Nhân lực và Khoa học xã hội, số tháng 3/2017. 3. Hồ Đức Việt (2006); Nghiên cứu luận cứ khoa học cho các chính sách và giải pháp xây dựng, phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Báo cáo Tổng hợp đề tài cấp Nhà nước. 4. Nguyễn Lan Anh (2003). Nghiên cứu cơ chế, biện pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển sau nghiệm thu, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp cơ sở, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN. 5. Nguyễn Chiến Thắng (2012), Phát triển thị trường KH&CN nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2011 -2020. 6. Nguyễn Vân Anh (2011), Thương mại hóa kết quả nghiên cứu – Nhìn từ góc độ của quá trình R&D, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 7/2011, tr. 24-27 7. Lê Hồng Hạnh (2003), Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ đáp ứng nhu cầu hội nhập trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Báo cáo Tổng hợp đề tài cấp Bộ, Trường Đại học Luật Hà Nội. 8. Koruna M. Stefan (2004). Extemal technology commercialization - policy guidelines, Internationaljournal of Technology Management, 27(2-3): 241 - 254. 9. Swamidass M. Paul & Venubabu Vulasa (2009) Why university inven.tions rarely produce income? Bottlenecks in university technology transfer, Joumal ofTechnology Transfer, 34: 343 - 363. phát triển tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, vì vậy đặt ra yêu cầu cần khẩn trương xây dựng các văn bản quy định hướng dẫn các điều có liên quan của Luật CGCN năm 2017 về những nội dung này trong văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành hoặc trong các văn bản dưới luật có liên quan. 3. Một số kiến nghị hoàn thiện các văn bản pháp quy về tổ chức trung gian khoa học công nghệ Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hoàn thiện các văn bản pháp quy về tổ chức trung gian khoa học công nghệ, cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là, cần đánh giá thực trạng triển khai các quy định pháp luật hiện hành (phân tích, báo cáo làm rõ những kết quả đạt được, những khó khăn hạn chế; phân tích, đánh giá các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giải quyết) về phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian. Hai là, cần phân tích tác động của Luật CGCN năm 2017 đối với phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian. Ba là, cần phân tích tác động của các quy định pháp luật khác có liên quan, khi bị tác động bởi Luật CGCN năm 2017 về phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và hoạt động của tổ chức trung gian■ THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 94 Số 3+4 (355+356) T02/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_cac_quy_dinh_ve_hoat_dong_cua_cac_to_chuc_trung_g.pdf