Hoàn thiện pháp luật về giáo dục sau Đại học

Như vậy, theo quy định hiện nay, giáo dục sau đại học vẫn được coi là một bộ phận của giáo dục đại học, chịu sự điều chỉnh chung của Luật Giáo dục đại học là không phù hợp. Những quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động giáo dục sau đại học chủ yếu trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng (các thông tư), và thường xuyên bị sửa đổi, bổ sung nên không đảm bảo tính thống nhất, ổn định. Có thể nói, ngành giáo dục vẫn đang “loay hoay” trong việc tìm kiếm một cơ chế quản lý thích hợp với một lĩnh vực đào tạo chất lượng cao như trình độ sau đại học. Chính vì vậy, trong giai đoạn sắp tới, cần nghiên cứu xây dựng Luật Giáo dục sau đại học làm cơ sở pháp lý chung, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật sau đại học, đảm bảo sự phát triển của giáo dục sau đại học ở Việt Nam. Bởi lẽ, nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam là rất cấp thiết, nhưng số lượng phải đi đôi với chất lượng. Luật Giáo dục sau đại học nên quy định theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo để phát triển giáo dục sau đại học theo nhu cầu của xã hội. Để phát triển đào tạo sau đại học, Nhà nước phải quản lý theo hướng vĩ mô, xóa bỏ cơ chế “xin cho” về chỉ tiêu tuyển sinh, về in cấp phôi bằng như hiện nay. Bên cạnh đó, phải bảo đảm sự quản lý, kiểm tra, giám sát, kiểm định chất lượng của Nhà nước đối với giáo dục sau đại học. Cần thiết phải thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng thuộc Bộ GD&ĐT và các trung tâm kiểm định do tư nhân thành lập để có thể đánh giá khách quan, minh bạch chất lượng giáo dục sau đại học

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về giáo dục sau Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT HOAÂN THIÏÅN PHAÁP LUÊÅT VÏÌ GIÁO DỤC SAU ĐẠI HỌC Lê NHư PHoNg* Giáo dục là một vấn đề hết sức quantrọng trong đời sống kinh tế - xã hộicủa mỗi quốc gia. Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới mục tiêu hội nhập sâu rộng với quốc tế, việc phát triển giáo dục được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng. Khoản 1 Điều 61 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục sau đại học có một vai trò quan trọng, bởi đây là tiền đề tạo ra nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục sau đại học giữ một vị trí quan trọng trong các lĩnh vực quản lý của Nhà nước. Hệ thống văn bản pháp luật luôn có lịch sử hình thành, kế thừa và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật giáo dục sau đại học là cơ sở để đánh giá những ưu điểm, hạn chế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện thể chế ở lĩnh vực này. 1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục sau đại học ở nước ta Giai đoạn trước năm 1945 Trường đại học đầu tiên của Nhà nước phong kiến Việt Nam là Quốc Tử Giám Thăng Long, do vua Lý Nhân Tông thành lập vào năm 10761. Sau khi mở mang việc dạy học ở kinh đô, dần dần Nhà nước phong kiến chú ý đến việc tổ chức hoạt động giáo dục ở địa phương. Năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông, triều đình cho đặt học quan ở các lộ, phủ lớn (đơn vị hành chính tương đương với cấp tỉnh ngày nay) để lo việc giáo dục. Đến thế kỷ XV - XVI, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rực rỡ. Các phủ, lộ đều có trường công. Đồng thời với việc phát triển hệ thống giáo dục, Nhà nước phong kiến rất quan tâm tổ chức các kỳ thi, xem đây là biện pháp quan trọng nhằm chọn người tài giỏi tham gia bộ máy điều hành quốc gia. Chế độ thi cử thời phong kiến được chia thành 3 cấp: thi Hương, thi Hội và thi Đình. Với ba kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi * NCS, Học viện Hành chính Quốc gia. 1 Phương Anh, Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, truy cập ngày 27/06/2015. 41 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016 42 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 2 Nguyễn Võ Hinh, Cần hiểu đúng về học hàm học vị, Nguồn: đăng ngày 08/16/2014. Đình, cũng có thể coi như các cấp bậc từ đại học đến sau đại học. Trong đó, thi Hội và thi Đình xét ở một khía cạnh nào đó cũng tương đương với trình độ thạc sĩ và tiến sĩ ngày nay. Từ cuối thế kỷ XIX và gần nửa thế kỷ XX, trong hơn 80 năm nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, dưới chế độ thuộc địa, nền giáo dục Nho học được thay thế dần bằng nền giáo dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân. Trong thời kỳ này, Việt Nam chưa có pháp luật về giáo dục sau đại học. Pháp luật về giáo dục sau đại học ở Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 Tháng 8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ ra đời và tiếp quản di sản của nền giáo dục thực dân sau hơn 80 năm Pháp thuộc. Ngày 10/10/1945, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 45/SL về việc thiết lập Ban đại học Văn khoa và Sắc lệnh thiết lập Quỹ tự trị cho đại học Việt Nam. Bộ Quốc gia giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã ban hành Nghị định số 333/NĐ ngày 25/7/1946 ấn định nhiệm vụ của Hội đồng quản trị đại học; tiếp đó là Nghị định số 448/NĐ ngày 26/9/1946 về tổ chức bộ máy của trường đại học. Đây là các văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng xây dựng và phát triển nền giáo dục đại học Việt Nam. Thời kỳ này, việc đào tạo sau đại học chưa được triển khai, chính vì thế chưa hình thành pháp luật về giáo dục sau đại học. Trong suốt 20 năm từ năm 1954 đến năm 1974, miền Bắc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Vì vậy, ở miền Bắc Việt Nam mới hình thành cao nhất đến cấp độ đào tạo đại học, tương ứng là các văn bản pháp luật điều chỉnh quản lý nhà nước về giáo dục đại học thông qua những quy định cụ thể về tuyển sinh, thi kiểm tra, phân phối sinh viên tốt nghiệp Các văn bản pháp luật về đào tạo sau đại học chưa được hình thành. Ở miền Nam, trước năm 1975 hầu như cũng chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về giáo dục sau đại học. Tuy nhiên, kế thừa nền giáo dục Pháp và Mỹ, trong các cơ sở đào tạo đã có giảng viên có trình độ thạc sĩ. Học vị thạc sĩ này được chia thành hai cấp: thạc sĩ trung học, được quyền dạy bậc trung học và thạc sĩ đại học, được dạy bậc đại học. Mô hình này được ứng dụng nhiều nhất trong các ngành luật học, y khoa và dược khoa. Một số nhà khoa học Việt Nam đã có học vị này vào thời điểm đó như Phạm Biểu Tâm (thạc sĩ y khoa, cấp đại học), Vũ Quốc Thúc (thạc sĩ luật kinh tế, cấp đại học), Hoàng Xuân Hãn (thạc sĩ toán, cấp trung học), Phạm Duy Khiêm (thạc sĩ ngữ pháp, cấp trung học)2 Pháp luật về giáo dục sau đại học từ 1975 đến nay - Giai đoạn từ 1975 đến 1997 Pháp luật về giáo dục sau đại học ở Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 1976, sau khi Quyết định số 224-TTg ngày 24/5/1976 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành. Căn cứ vào Quyết định này, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp chính thức triển khai tổ chức đào tạo sau đại học, bậc phó tiến sĩ và tiến sĩ theo mô hình Liên Xô. Trường Đại học Sư phạm là cơ sở đào tạo sau đại học đầu tiên ở Việt Nam từ năm 1977. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam chỉ có đào tạo hệ nghiên cứu sinh nên số tốt nghiệp chỉ có phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) và tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ khoa học). Bên cạnh đó, một số lượng lớn cán bộ có trình độ sau đại học ở Việt Nam được đào tạo ở các nước Đông Âu trước đây (mỗi năm có khoảng từ 300- 500 người). Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục sau đại học nói 43 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 3 Bộ GD&ĐT (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học và các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, số 760. riêng đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ. Năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT) được thành lập trên cơ sở sáp nhập Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề với Bộ Giáo dục. Năm 1991, hình thành cấp cao học với học vị thạc sĩ ở trên cấp đại học và dưới cấp tiến sĩ theo Quyết định số 55-HĐBT ngày 09/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng. Như vậy, trong hệ thống đào tạo sau đại học ở Việt Nam tồn tại song song hai hình thức đào tạo: mô hình đào tạo của Liên Xô cũ (bao gồm đào tạo phó tiến sĩ và tiến sĩ) và hình thức đào tạo cao học (thạc sĩ). Năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 quy định về cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng chứng chỉ về giáo dục và đào tạo của Việt Nam, theo đó, ở cấp đào tạo sau đại học chỉ có 2 hình thức: đào tạo cao học (cấp bằng thạc sĩ) và nghiên cứu sinh (cấp bằng tiến sĩ). Trên thực tế, đào tạo phó tiến sĩ và tiến sĩ theo quy định cũ chính thức kết thúc vào năm 1997 theo Quyết định số 647/GD-ĐT ngày 14/02/1996 ban hành quy chế mới về đào tạo và bồi dưỡng sau đại học. Nếu trước kia khi chưa đào tạo hệ cao học, những người tốt nghiệp cử nhân được thi tuyển nghiên cứu sinh, tốt nghiệp cấp bằng phó tiến sĩ, thì từ năm 1997, trước khi vào hệ nghiên cứu sinh, học viên phải có bằng thạc sĩ. - Giai đoạn từ năm 1998 đến nay Năm 1998 đánh dấu bước phát triển pháp luật về giáo dục sau đại học với sự ra đời của Luật Giáo dục - văn bản mang tính pháp điển đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục. Cùng với sự ra đời của Luật Giáo dục, rất nhiều các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đào tạo sau đại học cũng được ban hành. Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Giáo dục năm 2005 (thay thế Luật Giáo dục năm 1998), tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục xây dựng và phát triển nền giáo dục nước nhà trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luật Giáo dục năm 2005 đã tạo được bước tiến quan trọng, tháo gỡ nhiều vướng mắc trong hoạt động giáo dục. Luật đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. Năm 2009, Luật Giáo dục tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số nội dung liên quan đến đào tạo sau đại học để phù hợp với tình hình mới. Những văn bản pháp lý trên đã tạo bước phát triển lớn về đào tạo sau đại học. Tính đến tháng 9/2009, cả nước có 159 cơ sở giáo dục đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, gồm 71 viện nghiên cứu khoa học (chiếm 44,7%) và 88 trường đại học (chiếm 55,3%); trong đó có 121 cơ sở giáo dục đào tạo trình độ thạc sĩ và 100 cơ sở giáo dục đào tạo trình độ tiến sĩ3. Các quy định của Luật Giáo dục năm 1998 và sau đó là Luật Giáo dục năm 2005 đã tạo điều kiện để ngành giáo dục mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường hiệu quả, thực hiện công bằng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, các quy định về giáo dục đại học trong Luật Giáo dục mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc. Hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục hiện nay, tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đủ để điều chỉnh các quan hệ về giáo dục đại học, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Để tập trung điều chỉnh chuyên biệt hoạt động giáo dục đại học nói chung và giáo dục sau đại học nói riêng, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Giáo dục Đại học tại Kỳ họp thứ 3 gồm 12 chương, 73 điều quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền 44 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 4 hạn của cơ sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Đặc biệt, Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định một số vấn đề mới cơ bản như: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và kiểm soát chất lượng đào tạo, trong đó, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các quy định của Luật. Đây cũng là văn bản pháp luật hiện hành có giá trị pháp lý cao nhất sau Hiến pháp năm 2013 điều chỉnh các nội dung về quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học. Tính đến năm 2013 cả nước có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sĩ tăng 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm, có 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường đại học4. 2. Một số ưu điểm của hệ thống pháp luật giáo dục sau đại học ở Việt Nam Thời kỳ từ 1945 đến 1975, do đất nước phải trải qua liên tiếp các cuộc chiến tranh, nên việc đào tạo trình độ sau đại học chưa được triển khai, đồng nghĩa với việc chưa hình thành pháp luật đối với giáo dục sau đại học. Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước tập trung vào nhiệm vụ xây dựng đất nước nên đòi hỏi phải đào tạo cho được nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì thế, các quy định của pháp luật về đào tạo sau đại học bắt đầu được ban hành. Sự ra đời của Luật Giáo dục năm 1998 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục, trong đó có giáo dục sau đại học. Việc ban hành Luật đã chấm dứt cách thức quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục bằng các văn bản có tính pháp lý thấp, như nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh hành chính, công văn trong một thời gian dài. Luật Giáo dục năm 1998 là văn bản pháp luật chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giáo dục, cho thấy tư duy quản lý đã có sự thay đổi rõ rệt, ý thức về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục sau đại học đã được nâng cao đáng kể. Sau Luật Giáo dục năm 1998, hàng loạt văn bản pháp luật có tính pháp điển cao được ban hành sửa đổi, bổ sung, thay thế như Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật Giáo dục đại học năm 2012. Hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học hiện nay có những ưu điểm nổi trội sau: - Các văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động giáo dục sau đại học. Trong thời gian khoảng 20 năm (từ năm 1998 đến nay), chỉ riêng lĩnh vực thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo, giáo dục sau đại học, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 155 văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền (trong đó Quốc hội đã ban hành 11 luật, 02 nghị quyết; Chính phủ ban hành 30 nghị định, 03 quyết định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 41 quyết định, 06 chỉ thị; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành 32 thông tư, 28 quyết định và 02 chỉ thị). Về phạm vi điều chỉnh, trong các văn bản quy phạm pháp luật nói trên, có hai văn bản về quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, 16 văn bản quy định trực tiếp về xã hội hóa giáo dục, 08 văn bản quy định về đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; 18 văn bản quy định chế độ, chính sách đối với người học; 02 văn bản quy định các 45 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 5 24.000 tiến sĩ Việt Nam đang làm gì?, gi.html. chính sách phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục sau đại học, 02 văn bản quy định về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Ngoài ra còn nhiều văn bản khác liên quan đến thủ tục quyết định thành lập trường, cho phép thành lập trường, điều lệ trường, tuyển sinh, mở ngành đào tạo, tổ chức và hoạt động đào tạo của trường, kiểm định chất lượng đào tạo, quan hệ quốc tế. - Nhiều quy phạm pháp luật đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn Sau khi Luật Giáo dục năm 2005 được thông qua và có hiệu lực thi hành, quy định về số lượng và cơ cấu đội ngũ giảng viên được điều chỉnh, bổ sung như sau: cơ sở giáo dục đại học phải có số giảng viên cơ hữu đủ đảm nhận tối thiểu 70% khối lượng chương trình của mỗi ngành đào tạo; trong năm đầu hoạt động, số giảng viên cơ hữu có trình độ thạc sĩ đạt ít nhất 30% và tiến sĩ đạt 12% tổng số giảng viên cơ hữu. Nhằm điều chỉnh hoạt động đào tạo sau đại học, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản như: Quyết định số 45/2008/QĐ-BGDĐT ngày 05/8/2008 của Bộ GD&ĐT ban hành quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ; Thông tư số 10/2009/TT - BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ GD&ĐT ban hành Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ. Hai văn bản này giao cho các cơ sở giáo dục sau đại học quyền tự chủ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Tiếp đó là Thông tư số 04/2012/TT- BGDĐT ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; Thông tư số 33/2013/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 04/2012/TT-BGDĐT ngày 15/02/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT; Thông tư số 38/2010/TT-BGDĐT quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình cho phép đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định cho phép đào tạo các ngành hoặc chuyên ngành trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ; Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT; Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ. 3. Sự cần thiết ban hành Luật giáo dục sau đại học ở nước ta Cùng với xu thế phát triển kinh tế - xã hội và những nhu cầu bức thiết trong lĩnh vực đào tạo sau đại học, thiết nghĩ, cần có một văn bản pháp lý có tính pháp điển hóa cao, điều chỉnh chuyên biệt trong lĩnh vực này. Điều này xuất phát từ những lý do sau: Sau 30 năm đổi mới, giáo dục sau đại học đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được, một vấn đề nổi cộm hiện nay là vấn đề về chất lượng giáo dục sau đại học. Theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ, đến nay, cả nước có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sĩ tăng 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm, “số giáo sư, tiến sĩ chúng ta nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường Đại học Việt Nam nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường Đại học hàng đầu thế giới”5. Một số chương trình đào tạo sau đại học còn xa rời thực tế, không phù hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực và thế giới; nội dung chương trình còn trùng lặp, nhắc lại các kiến thức của bậc đại học. Vẫn có tình trạng “chạy đua” lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ; từ đó 46 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT hình thành thạc sĩ, tiến sĩ “giấy”. Những hạn chế của đào tạo sau đại học cho thấy, đào tạo sau đại học vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước trong giai đoạn đổi mới ngày càng mạnh mẽ. Đổi mới giáo dục sau đại học thực sự là vấn đề có tính cấp thiết khi nước ta đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để đổi mới giáo dục sau đại học, cần rất nhiều yếu tố, một trong những nội dung đó là hoàn thiện pháp luật về giáo dục sau đại học. Hiện nay vẫn còn những hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học. Theo Luật Giáo dục, giáo dục sau đại học cùng với đào tạo cao đẳng, đại học là một bộ phận của giáo dục đại học. Quan niệm này hoàn toàn chưa phù hợp bởi với đối tượng người học khác nhau, chương trình, nội dung đào tạo, trình độ giảng viên khác nhau (đào tạo cao đẳng, đại học thì giảng viên chỉ cần trình độ thạc sĩ trở lên, trong khi đó đào tạo sau đại học giảng viên phải từ tiến sĩ trở lên, trừ một số ngành nghề đặc thù). Vì vậy, quy định chung quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học và giáo dục cao đẳng, đại học là không phù hợp. Mặt khác, các văn bản pháp luật do Bộ GD&ĐT ban hành trực tiếp điều chỉnh hoạt động quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học thường xuyên được sửa đổi, bổ sung. Ví dụ quy định về Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, năm 2012 ban hành Thông tư số 04/2012/TT-BGDĐT; năm 2013 lại ban hành kèm theo Thông tư số 33/2013/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung Thông tư số 04. Sự biến động liên tục thể hiện “sự bất ổn” trong công tác quản lý nhà nước. Nhiều quy phạm thiếu tính cụ thể, thiếu tính khả thi nên mới ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung. Điều này gây tâm lý hoang mang trong người học và sự xáo trộn trong hoạt động giảng dạy của các cơ sở đào tạo. Vì vậy, để có thể bắt kịp xu thế phát triển của thế giới, quản lý nhà nước về giáo dục sau đại học cần phải được tăng cường. Trong đó, trước hết là hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giáo dục sau đại học cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Với xu hướng phát triển và vai trò quan trọng của giáo dục sau đại học hiện nay, cần thiết phải pháp điển hóa hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động liên quan đến giáo dục sau đại học. Như vậy, theo quy định hiện nay, giáo dục sau đại học vẫn được coi là một bộ phận của giáo dục đại học, chịu sự điều chỉnh chung của Luật Giáo dục đại học là không phù hợp. Những quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động giáo dục sau đại học chủ yếu trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng (các thông tư), và thường xuyên bị sửa đổi, bổ sung nên không đảm bảo tính thống nhất, ổn định. Có thể nói, ngành giáo dục vẫn đang “loay hoay” trong việc tìm kiếm một cơ chế quản lý thích hợp với một lĩnh vực đào tạo chất lượng cao như trình độ sau đại học. Chính vì vậy, trong giai đoạn sắp tới, cần nghiên cứu xây dựng Luật Giáo dục sau đại học làm cơ sở pháp lý chung, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật sau đại học, đảm bảo sự phát triển của giáo dục sau đại học ở Việt Nam. Bởi lẽ, nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam là rất cấp thiết, nhưng số lượng phải đi đôi với chất lượng. Luật Giáo dục sau đại học nên quy định theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo để phát triển giáo dục sau đại học theo nhu cầu của xã hội. Để phát triển đào tạo sau đại học, Nhà nước phải quản lý theo hướng vĩ mô, xóa bỏ cơ chế “xin cho” về chỉ tiêu tuyển sinh, về in cấp phôi bằng như hiện nay. Bên cạnh đó, phải bảo đảm sự quản lý, kiểm tra, giám sát, kiểm định chất lượng của Nhà nước đối với giáo dục sau đại học. Cần thiết phải thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng thuộc Bộ GD&ĐT và các trung tâm kiểm định do tư nhân thành lập để có thể đánh giá khách quan, minh bạch chất lượng giáo dục sau đại học n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_phap_luat_ve_giao_duc_sau_dai_hoc.pdf