Việc chấm dứt hợp đồng khi Tòa án
can thiệp vào ý chí của các bên trong trường
hợp có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là điều
có thể xảy ra. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thời
điểm nào sẽ là thời điểm phù hợp để xác định
hợp đồng bị chấm dứt. Điểm a khoản 3 Điều
420 BLDS 2015 quy định trong trường hợp
Tòa án xác định hợp đồng bị chấm dứt, thời
điểm xác định việc chấm dứt hợp đồng sẽ tại
“một thời điểm xác định”. Khái niệm “thời
điểm xác định” ở đây chưa được BLDS làm
rõ. Trong hợp đồng tồn tại rất nhiều các mốc
thời gian khác nhau, có thể là thời điểm giao
kết hợp đồng, thời điểm hợp đồng có hiệu
lực, thời điểm thực hiện nghĩa vụ của các
bên, thời điểm chấm dứt hợp đồng Nếu
Tòa án xác định tại một trong những thời
điểm bất kỳ trong quá trình giao kết, thực
hiện và chấm dứt hợp đồng thì sẽ dẫn đến
tình trạng quyết định về thời điểm chấm dứt
hợp đồng trong mỗi vụ việc khác nhau sẽ có
thể khác nhau, không có sự thống nhất trong
quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án,
khiến cho các chủ thể của hợp đồng gặp tâm
lý bất an và mất niềm tin vào cơ quan giải
quyết tranh chấp.
Kết luận
Các phân tích ở trên đã cho thấy, các
trường hợp phổ biến nhất mà Tòa án can
thiệp vào ý chí của các bên là hợp đồng
không rõ, hợp đồng có quy định không phù
hợp với pháp luật và hoàn cảnh thực hiện
hợp đồng thay đổi căn bản.
- Trong trường hợp can thiệp vào ý chí
của các bên khi hợp đồng không đủ rõ hoặc
hợp đồng có quy định không phù hợp với
pháp luật, Tòa án sẽ căn cứ vào hợp đồng
và những thông tin do các bên cung cấp,
thông tin từ những nguồn phù hợp khác để
xác định mục đích của các bên ban đầu trong
hợp đồng và ý chí của các bên trong việc xác
lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng,
để từ đó, Tòa án có thể đưa ra sự điều chỉnh
phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bên bị ảnh hưởng.
- Trong trường hợp Tòa án được phép
can thiệp vào hợp đồng khi hoàn cảnh thực
hiện hợp đồng thay đổi cơ bản, thì Tòa án
chỉ thực hiện quyền này khi các bên đã thực
hiện việc đàm phán lại hợp đồng nhưng
không thành công và có một trong các bên
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc. Đứng
trước những tình trạng này, Tòa án sẽ lựa
chọn một trong hai phương án hoặc là chấm
dứt hợp đồng hoặc là điều chỉnh một số nội
dung của hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác
định vấn đề này cũng gặp phải một số khó
khăn do pháp luật vẫn chưa có những quy
định cụ thể.
+ Khó khăn thứ nhất mà Tòa án có thể
gặp phải đó là việc xác định mức độ thay đổi
do hoàn cảnh khách quan gây ra là bao nhiêu
so với hợp đồng để có thể cho rằng đó là sự
thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Hiện nay, pháp
luật không có hướng dẫn hay quy định cụ
thể về mức độ thay đổi này, vì vậy việc xác
định mức độ thay đổi phụ thuộc nhiều vào ý
chí của Tòa án trong thực tiễn xét xử;
+ Khó khăn thứ hai là việc xác định
thiệt hại nghiêm trọng mà bên bị ảnh hưởng
phải gánh chịu nếu thực hiện tiếp hợp đồng
khi có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp đồng “không hoàn hảo” và sự can thiệp của tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỢP ĐỒNG “KHÔNG HOÀN HẢO”
VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN
Tóm tắt:
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng, đó là
tự do ý chí của các bên. Hợp đồng phải là sản phẩm của sự thống
nhất ý chí trên cơ sở tự do, tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách
nhiệm mà không một bên thứ ba nào có thể can thiệp. Tuy nhiên,
nguyên tắc này có những ngoại lệ trong các trường hợp mà tòa án
có thể can thiệp vào ý chí của các bên. Đó là khi hợp đồng có các
điều khoản không rõ ràng; khi hợp đồng có các điều khoản không
phù hợp với pháp luật; và khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản làm cho
việc tiếp tục thực hiện hợp đồng trở nên đặc biệt tốn kém hơn đối
với một bên.
Phạm Hồ Hoàng Long*
Ngô Quốc Chiến**
* Văn phòng Thừa phát lại Phạm Hoàng, Thành phố Đà Nẵng.
** PGS, TS. Giảng viên Trường Đại học Ngoại thương.
Abstract:
One of the most important and basic principles of the law of contract
is free will of the parties. Contracts are the outputs resulted from the
discretion and self-responsibility without any intervention of any
third parties. However, this principle has exceptions in cases where
the court may interfere with the will of the parties. That is where
the contract contains unclear terms; where the contract contains
provisions not in accordance with the law; and where circumstances
fundamentally change, which may lead to expensive performance
of the contract particularly for one party.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tự do hợp đồng, sự can thiệp
của tòa án.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/11/2019
Biên tập : 08/12/2019
Duyệt bài : 10/12/2019
Article Infomation:
Keywords: freedom of contract,
intervention by the court.
Article History:
Received : 28 Nov. 2019
Edited : 08 Dec. 2019
Approved : 10 Dec. 2019
Khi giao kết hợp đồng, các bên luôn muốn thể hiện cụ thể nhất ý chí và mục đích giao kết hợp đồng thông
qua nội dung của hợp đồng. Trên thực tế,
rất nhiều hợp đồng được tạo ra rất sơ sài
và thiếu đi những nội dung quan trọng là
nền tảng của hợp đồng. Những điều khoản
được đề cập đến có thể là điều khoản về
đối tượng của hợp đồng, điều khoản về giá
và phương thức thanh toán, điều khoản về
chất lượng của tài sản, điều khoản về thời
hạn và phương thức giao hàng. Những hợp
đồng như thế có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu.
Tuy nhiên, việc tuyên một hợp đồng vô hiệu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 24(400) T12/2019
không phải là giải pháp phù hợp nhất cho
các bên, trong trường hợp các bên thực sự
có thiện chí, có ý muốn và nguyện vọng thực
hiện hợp đồng. Trong tình huống này, việc
Tòa án can thiệp để điều chỉnh những thiếu
sót của hợp đồng là phương án hợp tình, hợp
lý, đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của các
bên vẫn được tiếp tục diễn ra phù hợp với ý
chí của các bên trong hợp đồng.
Hợp đồng “không hoàn hảo” có thể
tồn tại dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, hai
trường hợp hợp đồng được xác lập không
hoàn hảo phổ biến nhất thường gặp hiện nay.
Đó là trường hợp một số điều khoản trong
hợp đồng không được quy định cụ thể, rõ
ràng và trường hợp hợp đồng hoặc một số
điều khoản trong hợp đồng không phù hợp
với quy định của pháp luật. Ngoài ra, hợp
đồng cũng sẽ trở nên không còn hoàn hảo
nữa trong trường hợp hoàn cảnh thực hiện
hợp đồng đã thay đổi một cách cơ bản và vì
vậy trở thành một lý do để tòa án xác định
lại nội dung của hợp đồng.
1. Khi hợp đồng không rõ ràng
Đối với trường hợp thứ nhất, pháp luật
hiện hành có những quy định cụ thể cho phép
Tòa án can thiệp vào hợp đồng của các bên
để giải thích, điều chỉnh những nội dung còn
thiếu sót, chưa rõ ràng, cân bằng các quyền
và lợi ích của các bên trong hợp đồng. Các
quy định về giải thích hợp đồng đều giải thích
theo hướng xác định ý chí chung của các bên
về nội dung của hợp đồng. Khoản 1 Điều
404 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 quy
định: “Khi hợp đồng có điều khoản không rõ
ràng thì việc giải thích điều khoản đó không
chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn
phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể
hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời
điểm xác lập, thực hiện hợp đồng”. Khoản 5
của Điều này cũng nhấn mạnh, trường hợp
khi có sự mâu thuẫn giữa ý chí của các bên
trong hợp đồng thì phải xác định ý chí chung
trong hợp đồng để giải thích hợp đồng. Sở dĩ
phải xác định ý chí chung bởi nó chính là sự
thỏa thuận của các bên và cũng là yếu tố nền
tảng để hợp đồng được xác lập. Tuy nhiên, ý
chí chung của các bên là yếu tố chủ quan, vì
vậy không dễ để Tòa án xác định được ý chí
của các bên vào thời điểm xác lập hợp đồng.
Vì vậy, ngoài việc xác định ý chí của các bên
trong hợp đồng thông qua các thông tin được
các bên cung cấp, Tòa án phải vận dụng các
quy định của pháp luật, quy luật vận động
của thị trường và những yếu tố khách quan
khác để làm rõ những vấn đề vướng mắc.
Một số quy định khác của pháp luật cũng
đã cho phép có sự điều chỉnh nhất định sau
khi hợp đồng được giao kết khi một số nội
dung của hợp đồng không được quy định rõ
ràng. Khoản 2, Điều 433 BLDS năm 2015
quy định trong trường hợp hợp đồng mua
bán tài sản không có thỏa thuận hoặc thỏa
thuận không rõ ràng về giá của tài sản thì
giá của tài sản sẽ được xác định theo giá của
thị trường. Tương tự, Điều 52 Luật Thương
mại năm 2005 quy định trong trường hợp
không có thỏa thuận về giá hàng hóa hay
không có bất kỳ chỉ dẫn nào về giá thì giá
của hàng hóa được xác định theo “giá của
loại hàng hóa đó trong các điều kiện tương
tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua
bán hàng hóa, thị trường địa lý, phương thức
thanh toán và các điều kiện khác có ảnh
hưởng tới giá”. Không chỉ dừng lại ở vấn đề
xác định giá, khoản 3 Điều 432 quy định về
chất lượng của tài sản mua bán, theo đó, khi
các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không rõ ràng về chất lượng tài sản thì chất
lượng được xác định theo tiêu chuẩn về chất
lượng của tài sản đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công bố; trong trường hợp
không có tiêu chuẩn này thì tiêu chuẩn của
tài sản được xác định theo tiêu chuẩn thông
thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng phù hợp
với mục đích giao kết hợp đồng. Hay trong
trường hợp các bên không thỏa thuận về thời
hạn giao hàng cụ thể, khoản 3 Điều 37 Luật
Thương mại năm 2005 quy định, thời hạn
giao hàng sẽ là một thời hạn hợp lý sau khi
giao kết hợp đồng. Những trường hợp nêu
trên là những trường hợp pháp luật đã cho
phép Tòa án can thiệp, xác định những vấn
đề không rõ ràng trong hợp đồng khi tranh
chấp giữa các bên xảy ra.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 24(400) T12/2019
Thực tiễn xét xử đã ghi nhận những
trường hợp thực tế mà Tòa án trong phạm vi
thẩm quyền của mình đã giải thích và điều
chỉnh những hợp đồng có nội dung không
được quy định cụ thể, rõ ràng. Cụ thể, trong
một tranh chấp liên quan đến xác định giá
của hợp đồng, Tòa án nhân dân tối cao
quyết định rằng, trong trường hợp giá của
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
không được xác định rõ ràng, Tòa án cấp
phúc thẩm và sơ thẩm tự mình xác định giá
trị của hợp đồng là phù hợp, trên cơ sở tham
khảo ý kiến của hội đồng thẩm định giá của
lô đất đang tranh chấp để đưa ra quyết định
cuối cùng về giá trị của lô đất1. Trong một
tranh chấp khác về quyền sử dụng căn nhà
số 564 Hậu Giang, Tòa án nhận định rằng
việc hợp đồng chỉ ghi rằng bán căn nhà 564
Hậu Giang thì có thể hiểu rằng các bên đã
thỏa thuận bán toàn bộ căn nhà (chứ không
thể một hoặc hai tầng trong căn nhà). Ngoài
ra, giá trị chuyển nhượng mà các bên đã
thực hiện với nhau là 320 lượng vàng phù
hợp với giá thị trường đối với toàn bộ căn
nhà, vì vậy Tòa án cho rằng, việc chuyển
nhượng căn nhà 564 Hậu Giang là chuyển
nhượng toàn bộ căn nhà chứ không phải một
phần căn nhà2.
2. Khi hợp đồng hoặc một số điều khoản
trong hợp đồng không phù hợp với quy
định của pháp luật
Trong một số trường hợp nhất định,
pháp luật luôn tạo ra một vài sự giới hạn cho
các chủ thể trong hợp đồng. Ngoài việc đảm
bảo sự cân bằng về quyền và lợi ích của các
bên, vấn đề đảm bảo cho việc áp dụng pháp
luật được thực hiện một cách đúng đắn và
phù hợp cũng rất quan trọng. Sẽ là rất rủi
ro nếu các bên cùng thỏa thuận về những
điều khoản trong hợp đồng mà nội dung của
những điều khoản này không phù hợp với
các quy định của pháp luật. Sự không phù
hợp có thể được thể hiện ở việc không tuân
1 Quyết định số 21/2010/DS-GĐT ngày 5/5/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2 Bản án số 1543/DSPT ngày 6/9/2002 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
thủ giới hạn mà pháp luật cho phép hoặc trái
với các quy định của pháp luật. Sẽ không có
vấn đề gì nếu các bên vẫn tiếp tục thực hiện
hợp đồng một cách tự nguyện và thiện chí.
Tuy nhiên, khi tranh chấp xảy ra và được
đưa ra trước Tòa, sự không phù hợp trong
các điều khoản nêu trên có thể dẫn đến tình
trạng những điều khoản này, thậm chí là
cả hợp đồng bị vô hiệu, khiến cho các bên
phải gánh chịu những bất lợi nhất định từ sự
không phù hợp của hợp đồng.
Để tạo sự linh động và mềm dẻo trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, không phải
trong mọi trường hợp Tòa án đều sẽ tuyên
các điều khoản hay toàn bộ hợp đồng có
chứa những điều khoản không phù hợp vô
hiệu. Thực tiễn xét xử cho thấy, các hợp
đồng mà trong đó có chứa các quy định về
lãi suất như lãi suất cho vay trong khi hạn,
lãi suất của tiền gốc quá hạn, lãi của lãi quá
hạn, mức phạt của khoản phạt vi phạm hợp
đồng, dù cho các khoản này có vượt quá
mức trần của quy định của pháp luật, thì Tòa
án sẽ thực hiện việc điều chỉnh lại mức lãi
suất nhằm đảm bảo giữ nguyên mục đích và
ý định ban đầu của các bên trong hợp đồng
trong mối liên hệ với các quy định của pháp
luật. Sau đây là hai dẫn chứng cụ thể về việc
Tòa án bằng ý chí của mình điều chỉnh hợp
đồng của các bên trong trường hợp hợp đồng
hoặc một số điều khoản của hợp đồng không
phù hợp với quy định của pháp luật:
2.1. Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
cao hơn lãi suất cho phép của pháp luật
Theo khoản 1 Điều 476 BLDS năm
2005 thì “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 150% lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối
với loại cho vay tương ứng”. Quy định về về
lãi suất trong khoản 1 Điều 468 BLDS năm
2015 đã tạo nên tính độc lập trong lãi suất
của khoản vay so với lãi suất của ngân hàng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 24(400) T12/2019
nhà nước, trong đó quy định “trường hợp
các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất
theo thỏa thuận không được quá 20%/năm
của khoản tiền vay. Như vậy, có thể thấy
rằng, quy định về lãi suất của cả BLDS năm
2005 và BLDS năm 2015 đều đưa ra một
mức lãi suất trần để giới hạn mức lãi suất
do các bên thỏa thuận với nhau. Vấn đề về
lãi suất vay trên thực tế không hề đơn giản.
Trong một số hợp đồng, lãi suất được đề cập
đến trong điều khoản về lãi suất chỉ là lãi
suất danh nghĩa. Trên thực tế, để có thể nâng
mức lãi suất lên quá mức giới hạn được pháp
luật quy định, bên cho vay có thể gia tăng
các loại chi phí như phí hoa hồng, phi giao
dịch, phí mua giới, phí dịch vụ để làm tăng
số tiền thu được của bên cho vay hoặc bằng
cách nào đó làm giảm số tiền thực nhận khi
vay của bên vay, trong khi lãi suất của hợp
đồng vẫn được đảm bảo nằm trong giới hạn
được pháp luật quy định. BLDS cũng không
định nghĩa cụ thể về “lãi suất vay do các bên
thỏa thuận”, hay “lãi suất theo thỏa thuận” là
gì, nên có thể hiểu lãi suất ở đây là lãi suất
thực tế. Mức lãi suất thực tế này không chỉ
bao gồm tỉ lệ phần trăm của khoản vay mà
còn bao gồm cả các loại chi phí khác mà bên
vay phải bỏ ra để có thể nhận được khoản
vay này. Để biết lãi suất có quá cao so với
quy định của pháp luật hay không, sau khi
đã tính toán lãi suất thực tế mà hợp đồng quy
định, cần phải xác định mức lãi suất để đối
chiếu. BLDS năm 2005 đi theo hướng căn
cứ vào mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước quy định; theo đó, mức lãi suất
của hợp đồng không được vượt quá 150%
mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước đưa
ra. Tuy nhiên, mức lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước có thể thay đổi trong từng thời kỳ
cụ thể. Cho nên, trong trường hợp có quá
nhiều mức lãi suất được đưa ra thì không
3 Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam, tập 1, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, 2017, tr. 642.
4 Quyết định số 698/2010/DS-GĐT ngày 20/10/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
5 Bản án số 1113/2012/KDTM-ST ngày 31/7/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
thể lấy một mức lãi suất bất kỳ nào để làm
mức lãi suất để đối chiếu. Theo nguyên tắc,
lãi suất để đối chiếu chính là lãi suất mà
Ngân hàng Nhà nước đưa ra tại thời điểm
hợp đồng được các bên xác lập3. Đến khi
BLDS năm 2015 ra đời, mức lãi suất trong
hợp đồng được cố định ở mức không vượt
quá 20% khoản vay trong hợp đồng. Việc
cố định mức lãi suất như BLDS năm 2015
khiến cho các bên dễ dàng hơn trong việc
xác định mức lãi suất phù hợp, đồng thời
cũng là việc nới rộng mức lãi suất trần để
các bên có thể xác lập các hợp đồng với mức
lãi suất cao hơn.
Thực tiễn xét xử ghi nhận những vụ
việc Tòa án đã phải điều chỉnh lại mức lãi
suất trong hợp đồng vay tài sản giữa các bên
khi mức lãi suất do các bên thỏa thuận vượt
quá lãi suất trần mà pháp luật cho phép. Theo
Tòa án nhân dân tối cao, việc các bên thỏa
thuận mức lãi suất cao hơn mức 150% mức
lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định là
không phù hợp, vì vậy việc điều chỉnh lại lãi
suất của Tòa án các cấp là phù hợp, nhưng
việc lấy mức lãi suất là 7%/năm lại chưa
thực sự phù hợp do trong giai đoạn từ năm
2005 đến 2009, Ngân hàng Nhà nước đã đưa
ra rất nhiều mức lãi suất khác nhau, vì vậy
mức lãi suất này cần phải được xác định lại4.
Trong một tranh chấp khác, Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh nhận định rằng,
mức lãi suất trong hạn và quá hạn trong khoản
vay giữa nguyên đơn và bị đơn cần phải
được xác định lại và đưa về mức tối đa mà
pháp luật cho phép là 150% lãi suất do Ngân
hàng Nhà nước quy định5. Tuy nhiên, khác
với vụ việc trên, Quyết định số 350/2013/
DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao lại có hướng đi hoàn toàn khác. Tòa cho
rằng, mức lãi suất được điều chỉnh lại cần
phải thấp hơn mức lãi suất tối đa mà pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 24(400) T12/2019
luật quy định6. Trên thực tế, có rất nhiều hợp
đồng vay nặng lãi tồn tại trên thị trường,
việc giới hạn mức trần nhằm mục đích tránh
trường hợp một bên lợi dụng những ưu thế
về vốn của mình áp đặt những điều kiện bất
lợi cho bên còn lại nhằm trục lợi bất chính
từ khoản vay giữa hai bên. BLDS hiện hành
đang đi theo hướng điều chỉnh lại mức lãi
suất về mức tối đa mà pháp luật cho phép,
tức mức 20%/năm7. Theo chúng tôi, cách
điều chỉnh này sẽ không tạo nên tính răn đe,
phòng ngừa những trường hợp các cá nhân
có chủ đích, ý định cho vay nặng lãi bởi vì
khi phát hiện ra hợp đồng có mức lãi suất cao
hơn quy định của pháp luật, các cá nhân này
cũng chỉ bị điều chỉnh về mức lãi suất tối đa
mà pháp luật cho phép mà không phải chịu
thêm bất cứ các chế tài nào theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, trong trường hợp lãi suất
trong hợp đồng vay tài sản cao hơn quy định
của pháp luật, pháp luật cần phải cho phép
Tòa án linh động điều chỉnh mức lãi suất về
mức thấp hơn mức trần của pháp luật, có thể
là mức lãi suất thấp nhất mà pháp luật hiện
hành cho phép là 10%/năm.
2.2. Mức phạt vi phạm hợp đồng
Điều 324 BLDS năm 1995 xem “phạt
vi phạm” là một “biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự”. Đến BLDS năm
2005, thỏa thuận phạt vi phạm được coi là
“một nội dung của hợp đồng” theo quy định
tại Điều 402 của Bộ luật này. Đến BLDS
năm 2015, quan điểm như BLDS năm 2005
vẫn được duy trì. Theo đó, phạt vi phạm vừa
là “biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng”,
vừa là “trách nhiệm dân sự” nhưng bản chất
“trách nhiệm dân sự” chiếm ưu thế hơn so
với bản chất còn lại. Như vậy, phạt vi phạm
hợp đồng có thể hiểu cách khác là thỏa thuận
nhằm mục đích răn đe, hướng các bên đến
việc thực hiện nghĩa vụ phù hợp với các quy
định của hợp đồng. Mức phạt vi phạm trong
BLDS ở các thời kì khác nhau cũng được
6 Quyết định số 350/2013/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
7 Điều 468 BLDS năm 2015.
quy định khác nhau. Theo Điều 378 BLDS
năm 1995, mức phạt vi phạm có thể là một
khoản tiền nhất định được hoặc được tính
theo tỷ lệ phần trăm của giá trị phần nghĩa
vụ bị vi phạm, nhưng mức cao nhất không
quá 5%. Tuy nhiên, giới hạn mức phạt vi
phạm lại không được quy định trong BLDS
năm 2005 và BLDS năm 2015, mà mức phạt
vi phạm được “các bên thỏa thuận”. Điều
này có nghĩa là, về nguyên tắc, các bên có
quyền tự do định đoạt mức phạt vi phạm hợp
đồng trong pháp luật dân sự và khi giải quyết
các tranh chấp có liên quan đến mức phạt vi
phạm, cơ quan xét xử không phải xem mức
phạt của các bên có vượt quá một giới hạn
nào hay không.
Trong những thời điểm trước đây, mức
phạt vi phạm thường hay bị giới hạn bởi
những tỉ lệ phần trăm cụ thể. Khoản 1 Điều
29 Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế của Hội
đồng Nhà nước năm 1989 quy định “mức
tiền phạt vi phạm hợp đồng từ 2% đến 12%
giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm”.
Tuy nhiên, Pháp lệnh này không còn được
áp dụng, nhưng một số luật chuyên ngành
khác vẫn duy trì cách giới hạn mức phạt ở
một tỉ lệ nhất định. Luật Thương mại năm
2005 quy định về phạt vi phạm vi phạm hợp
đồng tại các Điều 292, 300 và 301, theo đó
mức phạt vi phạm được giới hạn ở mức 8%
giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Ngoài ra,
phạt vi phạm hợp đồng còn được quy định
tại Điều 110 Luật Xây dựng năm 2003, với
giới hạn mức phạt là 12% giá trị hợp đồng
bị vi phạm. Cho đến khi Luật Xây dựng năm
2014 ra đời, mức phạt vi phạm đã không
được giới hạn như trong Luật Xây dựng
năm 2003, mà quy định mức phạt do các bên
thỏa thuận. Mức phạt vi phạm chỉ được giới
hạn ở mức 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm
đối với những công trình xây dựng có vốn
nhà nước. Những sự giới hạn trong việc quy
định về mức phạt vi phạm thể hiện sự hạn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 24(400) T12/2019
chế tự do ý chí của các bên trong việc thỏa
thuận ký kết hợp đồng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, để đảm bảo
đúng mục đích của khoản phạt vi phạm,
khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận với
nhau mức phạt vi phạm cao hơn mức phạt
mà pháp luật quy định, Tòa án sẽ điều chỉnh
mức phạt vi phạm về mức tối đa mà pháp
luật cho phép. Ngoài ra, trong một số trường
hợp cụ thể, Tòa án có thể linh động xem xét,
điều chỉnh mức phạt về thấp hơn mức tối
đa theo quy định của pháp luật để tạo điều
kiện thuận lợi cho các bên thực hiện tiếp hợp
đồng, đảm bảo sự cân bằng về quyền và lợi
ích của các chủ thể. Quyết định số 03/2009/
KDTM-GĐT ngày 9/4/2009 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong vụ
tranh chấp về phạt vi phạm hợp đồng giữa
Công ty Đại Nam (nguyên đơn) và Doanh
nghiệp Nguyệt Phương (bị đơn) đã ghi nhận
quan điểm trên. Trong vụ việc này, Tòa án
đã nhận định rằng, mức phạt 10%/tháng
trên số tiền chậm thanh toán và mức phạt
15% cho nguyên đơn đưa ra là quá cao. Tòa
án nhân dân tối cao cũng không chấp nhận
phương án do cả Tòa phúc thẩm và Tòa sơ
thẩm đưa ra và cho rằng, trong trường hợp
này cần phải căn cứ vào mức phạt vi phạm
của Luật Thương mại năm 2005 (là tối đa
8% phần nghĩa vụ bị vi phạm) và căn cứ trên
khía cạnh thực tế là Doanh nghiệp Nguyệt
Phương bị cháy kho hàng ở Campuchia để
xem xét giảm mức phạt mà bị đơn phải chịu
để tạo thuận lợi cho các bên trong việc thực
hiện hợp đồng8.
8 Quyết định số 03/2009/KDTM-GĐT ngày 9/4/2009 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
9 Nước đi tiên phong là Italy. BLDS Italy năm 1942 đã có quy định buộc các bên đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi. Cơ chế này sau đó đã ảnh hưởng tới một số hệ thống pháp luật khác trên thế giới như Hà Lan, Đức và đặc biệt
là các nước Mỹ Latinh. Điều 313 BLDS Đức (Bürgerliches Gesetzbuch - BGB bản sửa đổi năm 2002) quy định rằng
khi hoàn cảnh thay đổi nghiêm trọng tới mức làm mất đi căn cứ của nó (Wegfall der Geschäftsgrundlage) thì bên bị
ảnh hưởng bất lợi được yêu cầu bên kia ĐCHĐ hoặc chấm dứt hợp đồng (CDHĐ). Tại Hà Lan, BLDS năm 1992 (Điều
6.258) Xem: F. Hinestrosa, Rapport Général-Révision du contrat, in Le Contrat, Nxb. Société de législation comparée
2008, tr.406.
10 Quy định về điều chỉnh hợp đồng chỉ tồn tại trong một số đạo luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm (Điều
20), Luật Đấu thầu (Điều 57). Trên góc độ so sánh, xem: Ngô Quốc Chiến (2015), “Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (295), tháng 8/2015, tr. 29-33.
3. Khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay
đổi cơ bản
Khi hợp đồng được thực hiện trong
một khoảng thời gian dài, có thể xảy ra
trường hợp hoàn cảnh thay đổi một cách căn
bản làm cho việc tiếp tục thực hiện hợp đồng
với các nội dung được thỏa thuận vào thời
điểm giao kết không còn phù hợp nữa. Khi
đó, trên tinh thần thiện chí, các bên sẽ phải
đàm phán để điều chỉnh lại nội dung của hợp
đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đàm phán
lại không phải là một giải pháp duy nhất và
không dễ đạt được. Vì vậy, pháp luật ở nhiều
nước trên thế giới đã luật hóa lý thuyết về
hardship và cho phép tòa án hoặc chấm dứt
hợp đồng hoặc sửa đổi hợp đồng9. Trước
năm 2015, pháp luật Việt Nam không có quy
định chung về xử lý hợp đồng khi hoàn cảnh
thực hiện hợp đồng thay đổi cơ bản10. Phải
đến Bộ luật Dân sự năm 2015, thì quy định
về thực hiện hợp đồng khi có hoàn cảnh thay
đổi cơ bản mới chính thức trở thành nguyên
tắc chung cho việc điều chỉnh hợp đồng.
3.1. Tiêu chí xác định hoàn cảnh thay đổi
cơ bản
Khái niệm về sự thay đổi hoàn cảnh
cơ bản mặc dù không được làm rõ, nhưng
BLDS năm 2015 đã nêu ra những điều kiện
cụ thể để một sự kiện được coi như là sự
thay đổi hoàn cảnh cơ bản, bao gồm:
Thứ nhất, sự thay đổi hoàn cảnh do
nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao
kết hợp đồng. Nguyên nhân xảy ra phải là
nguyên nhân khách quan, tức là không phụ
thuộc vào ý chí của một trong các bên trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 24(400) T12/2019
hợp đồng. Những trường hợp mà các bên có
chủ đích, hoặc có tác động một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp khiến cho một sự kiện diễn ra
mà một bên phải chịu sự tác động bất lợi từ
sự kiện đó thì sẽ không đáp ứng được điều
kiện của sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Ví
dụ: Công ty A (bên bán, Hoa Kỳ) và Công
ty B (bên mua, Việt Nam) giao kết với nhau
hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong điều
khoản phương thức giao hàng, công ty B
được quyền lựa chọn các cảng đến trong quá
trình giao hàng. Khi bên A giao hàng, bên
B yêu cầu bên A giao hàng tại cảng nước C,
và bên A biết rõ tình hình của nước C nhưng
không có ý kiến gì. Hậu quả là hàng của bên
A giao cho bên B bị giữ lại tại cảng nước C
và được nước C sử dụng. Trong trường hợp
này, bên A không được quyền viện dẫn điều
khoản về hoàn cảnh thay đổi cơ bản tại Điều
420 BLDS năm 2015 vì sự thay đổi hoàn
cảnh cơ bản này không phải là nguyên nhân
khách quan vì bên A đã biết rõ tình hình tại
nước C nhưng vẫn cố tình tiếp tục thực hiện
việc giao hàng tại nước này.
Thứ hai, tại thời điểm giao kết hợp
đồng, các bên không thể lường trước được
về sự thay đổi hoàn cảnh. Ngoài yếu tố là
nguyên nhân khách quan, sự thay đổi hoàn
cảnh này phải nằm ngoài tầm kiểm soát và
dự tính của các bên. Sự thay đổi hoàn cảnh
có thể đến từ các yếu tố tự nhiên như hỏa
hoạn, thiên tai, hay những yếu tố đến từ con
người như bất ổn chính trị, bạo động, đình
công, hay từ những yếu tố đến từ quy luật
vận động của nền kinh tế thị trường như sự
biến động về nguyên vật liệu, giá cả. Trong
trường hợp các bên biết, hoặc phải biết sẽ
có sự thay đổi hoàn cảnh xảy ra trong tương
lai mà vẫn thực hiện việc giao kết hợp đồng
thì khi có sự thay đổi hoàn cảnh xảy ra,
sự thay đổi này không được xem xét là sự
thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Vấn đề này có
thể đến từ việc các bên chủ quan trong giao
hết hợp đồng, hoặc năng lực dự đoán của
các bên yếu kém, dẫn đến việc không lường
trước được những hậu quả sẽ xảy ra đến từ
sự thay đổi hoàn cảnh, khiến một trong các
bên phải chịu thiệt hại nghiêm trọng. Trong
một số hợp đồng hiện nay, các bên trao cho
nhau quyền điều chỉnh giá cả và một số
điều khoản khác trong hợp đồng khi có sự
biến động trong những yếu tố khách quan.
Những hợp đồng như vậy sẽ không được áp
dụng những quy định về sự thay đổi hoàn
cảnh cơ bản vì các bên đã có sự lường trước
về hoàn cảnh sẽ thay đổi trong tương lai.
Thứ ba, hoàn cảnh thay đổi lớn đến
mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng
đã không được giao kết hoặc được giao kết
nhưng với nội dung hoàn toàn khác: mức độ
của sự thay đổi như đã được đề cập ở phần
trên phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của cơ
quan xét xử khi có sự thay đổi hoàn cảnh
cơ bản xảy ra. Hoàn cảnh thay đổi khiến
cho một bên bị mất đi đáng kể quyền lợi
đạt được từ hợp đồng. Tuy nhiên, cũng như
các quy định của luật pháp quốc tế hiện nay,
mức độ của sự thay đổi không được BLDS
năm 2015 giải thích. Vì vậy, để xác định
được mức độ thay đổi ảnh hưởng đến một
trong các bên, cơ quan tài phán cần phải xác
định mục đích giao kết hợp đồng ban đầu
của các bên, từ đó xem xét trong mối quan
hệ với sự ảnh hưởng của sự thay đổi hoàn
cảnh để đánh giá được mức độ ảnh hưởng
của sự thay đổi này.
Thứ tư, việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một
bên. Việc xác định thiệt hại nghiêm trọng
là một vấn đề rất khó khăn. Khi có một sự
thay đổi hoàn cảnh xảy ra, Tòa án trong việc
điều chỉnh hợp đồng phải trù liệu đến các
tình huống là hệ quả của việc tiếp tục thực
hiện hợp đồng trong hoàn cảnh thay đổi.
Trước hết, Tòa án và các bên liên quan phải
cùng nhau trả lời được câu hỏi liệu tiếp tục
thực hiện hợp đồng có gây ra thiệt hại cho
một bên hay không. Việc xác định thiệt hại
xảy ra trong tương lai dựa trên những thông
tin hiện có cần phải được đánh giá hết sức
khách quan, chính xác, tránh trường hợp
việc dự liệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, thiệt
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 24(400) T12/2019
hại xảy ra phải là thiệt hại “nghiêm trọng”.
Hiện nay, BLDS năm 2015 không giải thích
cụm từ “thiệt hại nghiêm trọng”. Mức độ
nghiêm trọng ở đây rất khó xác định, có thể
khiến một bên chịu thiệt hại tại một tỷ lệ cụ
thể dựa trên giá trị của hợp đồng. Việc xác
định thiệt hại nghiêm trọng trong trường hợp
này hoàn toàn phụ thuộc phần lớn vào ý chí
của cơ quan xét xử. Theo chúng tôi, khi mức
thiệt hại vượt quá toàn bộ giá trị hợp đồng
của các bên giao kết thì có thể được xem xét
là thiệt hại nghiêm trọng.
Thứ năm, bên có lợi ích bị ảnh hưởng
đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong
khả năng cho phép, phù hợp với tính chất
của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm
thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích. Quy
định này thể hiện việc các bên đã thực hiện
mọi biện pháp trong phạm vi cho phép và
trong khả năng của mình để giảm thiểu mức
độ thiệt hại xảy ra, trên cơ sở nguyên tắc
thiện chí của hợp đồng. Khi một sự thay
đổi hoàn cảnh xảy ra và một bên xác định
rằng thiệt hại chắc chắn xảy đến, bên bị ảnh
hưởng phải thể hiện sự thiện chí bằng việc
giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của sự thay
đổi hoàn cảnh chứ không được ỷ lại vào quy
định sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Hợp đồng
được giao kết giữa các bên phải đảm bảo sự
cân bằng về quyền và lợi ích, một bên không
thể đẩy toàn bộ rủi ro mà bên này phải gánh
chịu cho bên còn lại khi hoàn cảnh khách
quan xảy ra. Nghĩa vụ về hạn chế, ngăn chặn
thiệt hại là nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng và cũng được quy định tại Điều 362
BLDS năm 2015, theo đó “bên có quyền
phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý
để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt
hại cho mình”. Hơn nữa, Điều 9 BLDS năm
2015 cũng có quy định cá nhân, pháp nhân
không được lạm dụng quyền của mình để
gây thiệt hại cho người khác. Vì vậy, quy
định nghĩa vụ về hạn chế thiệt hại được xem
là điều kiện để có sự thay đổi hoàn cảnh cơ
bản là hoàn toàn phù hợp, ràng buộc các bên
phải hạn chế tối đa mức thiệt hại xảy ra, thể
hiện rõ tinh thần tự nguyện, thiện chí của các
bên trong hợp đồng.
3.2. Điều kiện và cách thức can thiệp của
tòa án khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng
thay đổi cơ bản
Theo khoản 2 Điều 420 BLDS năm
2015, khi có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản
xảy ra, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền
yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng sao
cho phù hợp. Việc điều chỉnh này ưu tiên
sự thỏa thuận của các bên tìm ra giải pháp
để hợp đồng tiếp tục được thực hiện. Tuy
nhiên, trong trường hợp các bên không thể
đồng thuận để tìm ra giải pháp phù hợp cho
trường hợp này, thì cần phải có người thứ
ba trung gian để đưa ra quyết định phù hợp
cho các bên. Khoản 3 Điều 420 BLDS năm
2015 quy định, trong trường hợp các bên
không thể thống nhất với nhau về giải pháp
điều chỉnh hợp đồng trong một thời hạn hợp
lý, một trong các bên sẽ có quyền yêu cầu
Tòa án: “a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời
điểm xác định; b) Sửa đổi hợp đồng để cân
bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
do hoàn cảnh thay đổi cơ bản”.
Như vậy, điều kiện để Tòa án có thể
can thiệp vào ý chí của các bên là khi có
sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản và biện pháp
đàm phán lại thất bại. Sự thất bại của biện
pháp đàm phán phải được hiểu là các bên đã
đàm phán nhưng không đạt được thống nhất
chung hoặc một bên yêu cầu đàm phán nhưng
bên kia không chịu đàm phán. Trong thực tế,
không hiếm trường hợp khi xảy ra sự thay đổi
hoàn cảnh cơ bản, và một bên yêu cầu bên
kia đàm phán lại hợp đồng, nhưng bên kia lại
không chấp nhận yêu cầu. Trong trường hợp
này, việc không chấp nhận yêu cầu đàm phán
lại hợp đồng có thể xem là một ứng xử không
thiện chí và cấu thành lỗi của bên từ chối để
bên còn lại có thể áp dụng những chế tài của
việc không thực hiện hợp đồng như buộc
thực hiện tiếp hợp đồng, bồi thường thiệt hại,
hủy hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp
đồng. Việc Tòa án can thiệp vào hợp đồng
của các bên là giải pháp cuối cùng khi các
bên đã thiện chí muốn cùng nhau tìm ra giải
pháp cho hợp đồng, chấp nhận chia sẻ những
rủi ro, giảm bớt phần lợi ích mong muốn đạt
được khi giao kết hợp đồng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 24(400) T12/2019
Khi can thiệp vào hợp đồng của các
bên, Tòa án sẽ xác định những nhân tố ảnh
hưởng tới hợp đồng và tới các bên, từ đó đưa
ra giải pháp để các bên có thể chịu ít thiệt hại
nhất từ sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Giải
pháp có thể là Tòa án sẽ chấm dứt hợp đồng
hoặc điều chỉnh một số nội dung của hợp
đồng để các bên có thể chịu ít thiệt hại nhất
do sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Việc Tòa
án điều chỉnh nội dung của hợp đồng chỉ
diễn ra khi mà việc chấm dứt hợp đồng sẽ
gây ra thiệt hại lớn hơn so với những chi phí
thực hiện hợp đồng khi mà hợp đồng được
sửa đổi. Quy định này nhằm hạn chế sự can
thiệp quá sâu của Tòa án vào hợp đồng của
các bên. Sự can thiệp quá sâu của Tòa án
trong việc điều chỉnh hợp đồng có thể dẫn
đến hậu quả là hợp đồng bị thay đổi không
phù hợp với mục đích giao kết ban đầu của
các bên trong hợp đồng, hoặc lại điều chỉnh
có lợi hơn cho bên bị ảnh hưởng bởi sự thay
đổi hoàn cảnh cơ bản.
Việc chấm dứt hợp đồng khi Tòa án
can thiệp vào ý chí của các bên trong trường
hợp có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là điều
có thể xảy ra. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thời
điểm nào sẽ là thời điểm phù hợp để xác định
hợp đồng bị chấm dứt. Điểm a khoản 3 Điều
420 BLDS 2015 quy định trong trường hợp
Tòa án xác định hợp đồng bị chấm dứt, thời
điểm xác định việc chấm dứt hợp đồng sẽ tại
“một thời điểm xác định”. Khái niệm “thời
điểm xác định” ở đây chưa được BLDS làm
rõ. Trong hợp đồng tồn tại rất nhiều các mốc
thời gian khác nhau, có thể là thời điểm giao
kết hợp đồng, thời điểm hợp đồng có hiệu
lực, thời điểm thực hiện nghĩa vụ của các
bên, thời điểm chấm dứt hợp đồng Nếu
Tòa án xác định tại một trong những thời
điểm bất kỳ trong quá trình giao kết, thực
hiện và chấm dứt hợp đồng thì sẽ dẫn đến
tình trạng quyết định về thời điểm chấm dứt
hợp đồng trong mỗi vụ việc khác nhau sẽ có
thể khác nhau, không có sự thống nhất trong
quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án,
khiến cho các chủ thể của hợp đồng gặp tâm
lý bất an và mất niềm tin vào cơ quan giải
quyết tranh chấp.
Kết luận
Các phân tích ở trên đã cho thấy, các
trường hợp phổ biến nhất mà Tòa án can
thiệp vào ý chí của các bên là hợp đồng
không rõ, hợp đồng có quy định không phù
hợp với pháp luật và hoàn cảnh thực hiện
hợp đồng thay đổi căn bản.
- Trong trường hợp can thiệp vào ý chí
của các bên khi hợp đồng không đủ rõ hoặc
hợp đồng có quy định không phù hợp với
pháp luật, Tòa án sẽ căn cứ vào hợp đồng
và những thông tin do các bên cung cấp,
thông tin từ những nguồn phù hợp khác để
xác định mục đích của các bên ban đầu trong
hợp đồng và ý chí của các bên trong việc xác
lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng,
để từ đó, Tòa án có thể đưa ra sự điều chỉnh
phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bên bị ảnh hưởng.
- Trong trường hợp Tòa án được phép
can thiệp vào hợp đồng khi hoàn cảnh thực
hiện hợp đồng thay đổi cơ bản, thì Tòa án
chỉ thực hiện quyền này khi các bên đã thực
hiện việc đàm phán lại hợp đồng nhưng
không thành công và có một trong các bên
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc. Đứng
trước những tình trạng này, Tòa án sẽ lựa
chọn một trong hai phương án hoặc là chấm
dứt hợp đồng hoặc là điều chỉnh một số nội
dung của hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác
định vấn đề này cũng gặp phải một số khó
khăn do pháp luật vẫn chưa có những quy
định cụ thể.
+ Khó khăn thứ nhất mà Tòa án có thể
gặp phải đó là việc xác định mức độ thay đổi
do hoàn cảnh khách quan gây ra là bao nhiêu
so với hợp đồng để có thể cho rằng đó là sự
thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Hiện nay, pháp
luật không có hướng dẫn hay quy định cụ
thể về mức độ thay đổi này, vì vậy việc xác
định mức độ thay đổi phụ thuộc nhiều vào ý
chí của Tòa án trong thực tiễn xét xử;
+ Khó khăn thứ hai là việc xác định
thiệt hại nghiêm trọng mà bên bị ảnh hưởng
phải gánh chịu nếu thực hiện tiếp hợp đồng
khi có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 24(400) T12/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Quốc Chiến, “Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật dân sự 2005”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (295), tháng 8/2015, tr. 29-33.
2. Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam, tập 1, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam.
3. Đỗ Văn Đại (2014), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc Gia.
4. F. Hinestrosa, Rapport Général-Révision du contrat, in Le Contrat, Nxb. Société de législation comparée
2008, tr. 406.
MÔ HÌNH THỂ CHẾ NÀO...
(Tiếp theo trang 5)
gian chính sách còn lại của Nhà nước ta cho
việc hoạch định và triển khai chương trình
công nghiệp hóa một cách độc lập và tự
chủ là rất nhỏ hẹp. Bị ràng buộc bởi vô vàn
những cam kết quốc tế, Nhà nước rất khó
can thiệp vào thị trường để thúc đẩy phát
triển những ngành công nghiệp mà chúng ta
lựa chọn. Để vượt qua rủi ro này, quan trọng
là phải nâng cao năng lực thiết kế các hàng
rào kỹ thuật, các hàng rào về thủ tục. Điều
này có vẻ như đang đi ngược với những cố
gắng cắt giảm thủ tục hành chính của Chính
phủ hiện nay. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn
phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt
Nam, thì hàng rào kỹ thuật là rất cần thiết
để ngành công nghiệp non trẻ này của đất
nước không bị cạnh tranh quốc tế bóp chết
từ trong trứng nước. Tận dụng các khoảng
trống chính sách cũng rất quan trọng ở đây.
Các hiệp định tự do thương mại không hạn
chế Nhà nước đầu tư cho nghiên cứu và phát
triển (R&D) trong lĩnh vực (ví dụ như an
ninh, quốc phòng chẳng hạn). Tại sao chúng
ta không đầu tư vào đây, khi cần thiết thì vẫn
có thể chuyển giao các thành tựu nghiên cứu
cho các lĩnh vực dân sự?
Thứ ba, rủi ro về nhận thức. Quỹ thời
gian để xây dựng thành công mô hình nhà
nước kiến tạo phát triển còn lại không nhiều.
Với áp lực của hội nhập và dân chủ hóa, mô
hình coi trọng phát triển kinh tế hơn mở rộng
dân chủ và nhân quyền như nhà nước kiến
tạo phát triển chưa chắc đã có được sự chấp
nhận của đông đảo công chúng. Để vượt qua
thách thức này, truyền thông đóng một vai
trò hết sức quan trọng. Không có một nền
tảng kinh tế-xã hội phù hợp (với đa số dân
chúng là tầng lớp trung lưu) và một nền tảng
văn hóa chính trị trưởng thành, những cải
cách dân chủ manh động không khéo lại chỉ
dẫn đến đổ vỡ và bất ổn xã hội mà thôi
Ngoài những khó khăn mà Tòa án gặp
phải, việc Tòa án can thiệp vào hợp đồng mà
không đưa ra giới hạn của sự can thiệp cũng
có thể dẫn đến tình trạng Tòa án lạm dụng
quyền lực của mình để can thiệp quá sâu
vào hợp đồng hoặc Tòa án có những sự điều
chỉnh không phù hợp với mục đích, ý chí của
các bên trong việc giao kết hợp đồng. Hậu
quả xảy ra là các bên bị ảnh hưởng có thể
trở thành bên được hưởng quá nhiều lợi ích
từ hợp đồng được điều chỉnh và tình trạng
mất cân bằng về quyền và nghĩa vụ trong
hợp đồng ngày càng xấu hơn. Vì vậy, pháp
luật hiện nay cần phải đưa ra những quy
định cụ thể hơn về sự thay đổi hoàn cảnh cơ
bản nhằm hỗ trợ Tòa án trong việc xét xử,
hạn chế sự can thiệp quá sâu của Tòa án vào
hợp đồng và giúp các bên có thể lường trước
được những rủi ro đến từ hoàn cảnh cơ bản
thay đổi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 24(400) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_dong_khong_hoan_hao_va_su_can_thiep_cua_toa_an.pdf