3.6. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng và tỷ lệ sống
Kết quả phân tích mức độ phân mảnh DNA
tinh trùng và tỷ lệ sống được thể hiện trong
bảng 6 và hình 5.
Bảng 6. Mức độ phân mảnh DNA tinh trùng và tỷ
lệ sống
Tỷ lệ
sống
của tinh
trùng
Chỉ số phân
mảnh DFI Tổng
(trường
hợp)
P
DFI
< 30
DFI
≥ 30
TLS < 0,0409
68% 49 22 71
TLS ≥
68% 41 7 48
Tổng
(trường
hợp) 90 29 119
Tỷ lệ sống (TLS) trung bình của tinh trùng
trong nghiên cứu này là 65,11 ± 10,52.
Hình 5. Mức độ phân mảnh theo tỷ lệ sống (TLS)
của tinh trùng
Kết quả phân tích trong bảng 6 và hình 5 cho
thấy nhóm có tỷ lệ sống thấp (dưới 68%) có
mức độ phân mảnh cao hơn so với nhóm có tỷ
lệ sống trên 68%. Sự sai khác này có ý nghĩa
với p = 0.0409. Kết quả này phù hợp với các
công bố trước đó [14], [15].
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã chỉ ra
rằng, các bệnh nhân vô sinh nam có chỉ số pH
tinh dịch cao, độ di động tinh trùng kém và tỷ
lệ sống nhỏ hơn 68% đều có tỷ lệ phân mảnh
ở mức cao (DFI ≥ 30) hơn rõ rệt so với nhóm
tương ứng gồm các bệnh nhân có pH tinh
dịch dưới 7,2, độ di động tốt và tỷ lệ sống trên
68%. Tuy nhiên, không có sự khác biệt nào
về mức độ phân mảnh theo nhóm tuổi, theo
mật độ tinh trùng. Đánh giá mức độ phân
mảnh kết hợp với các đặc điểm tinh dịch đồ
giúp đưa ra những phác đồ hỗ trợ sinh sản tốt
hơn cho các bệnh nhân vô sinh nam.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên hệ giữa mức độ phân mảnh dna tinh trùng và các chỉ số tinh dịch đồ ở nam giới vô sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 105
MỐI LIÊN HỆ GIỮA MỨC ĐỘ PHÂN MẢNH DNA TINH TRÙNG
VÀ CÁC CHỈ SỐ TINH DỊCH ĐỒ Ở NAM GIỚI VÔ SINH
Dương Thị Nhàn1,2, Nguyễn Phú Hùng1*
1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên,
2Khoa Hỗ trợ Sinh sản - Bệnh viện A Thái Nguyên
TÓM TẮT
Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng mức độ đứt gãy DNA tinh trùng ở nam giới vô sinh cao hơn ở
người bình thường và có mối liên quan giữa mức độ dị dạng của tinh trùng với sự phân mảnh
DNA tinh trùng. Tuy nhiên, yếu tố để dự đoán mức độ phân mảnh DNA tinh trùng không phải là
hình dạng tinh trùng và những tinh trùng bình thường vẫn có thể mang DNA bị phân mảnh. Trong
nghiên cứu này, nhóm tác giả tiến hành xác định sự phân mảnh DNA tinh trùng bằng phương pháp
SCSA (Sperm chromatin structure assay) và đánh giá mối tương quan giữa các chỉ số tinh dịch đồ
với mức độ phân mảnh DNA tinh trùng. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng tỷ lệ phân mảnh cao
liên quan đến mức độ di động và tỷ lệ sống của tinh trùng. Mặt khác, ở độ pH thấp, ˂ 7,2 thì tỷ lệ
phân mảnh DNA của tinh trùng cao hơn rõ rệt so với nhóm pH ≥ 7,2. Không có sự khác biệt nào
về mức độ phân mảnh của tinh trùng theo độ tuổi và mật độ tinh trùng.
Từ khóa: Y- sinh; phân mảnh DNA tinh trùng; tinh dịch đồ; vô sinh nam, SCSA.
Ngày nhận bài: 01/02/2020; Ngày hoàn thiện: 08/6/2020; Ngày đăng: 11/6/2020
THE ASSOCIATION BETWEEN SPERM DNA FRAGMENTATION INDEX
AND CONVENTIONAL SEMEN PARAMETERS
IN MALE PATIENTS WITH INFERTILITY
Duong Thi Nhan1,2, Nguyen Phu Hung2*
1TNU - University of Sciences,
2Assisted Reproductive Unit – Hospital A – Thai Nguyen
ABSTRACT
Many recent studies have shown that the level of sperm DNA fragmentation is higher in male
infertility than in normal people and there is a correlation between sperm deformity and sperm
DNA fragmentation, but the factor to predict the degree of sperm fragmentation is not the sperm
shapeand the normal sperm can still carry fragmented DNA. In this study, the authors developed a
procedure to determine the fragmentation of sperm DNA by SCSA method and evaluate the
correlation between semen index and degree of sperm DNA fragmentation. Our results suggests
that sperm DNA fragmentation index is closely associated with sperm mobility and sperm
viability. On the other hand, at a pH <7.2, the fractionation level is significantly higher than that of
the group with a pH ≥ 7.2. There is no difference in the degree of sperm fragmentation by age and
sperm density.
Keywords: Biomedicine; Sperm DNA fragmentation; human semen; male infertility; SCSA.
Received: 01/02/2020; Revised: 08/6/2020; Published: 11/6/2020
* Corresponding author. Email: hungnguyenphu@tnus.edu.vn
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 106
1. Đặt vấn đề
Vô sinh đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới
và ảnh hưởng đến hơn 70 triệu cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh sản [1]. Theo ghi nhận của
y văn thế giới, tỷ lệ vô sinh nam chiếm từ 30
– 40% và cách đây hơn 10 năm, tỷ lệ nam
giới điều trị hiếm muộn có liên quan đến bất
thường tinh dịch chiếm 77,3% [2]. Trong hai
thập kỷ qua, hình thái tinh trùng được công
nhận là một yếu tố dự báo quan trọng về kết
quả trong thụ tinh nhân tạo IVF và ICSI [3].
Các nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng ở
nam giới vô sinh có mức độ phân mảnh của
DNA tinh trùng cao hơn so với nhóm sinh sản
bình thường [4]. Đồng thời có mối liên quan
giữa mức độ bất thường về hình dạng của tinh
trùng với sự phân mảnh DNA tinh trùng [5].
Tuy nhiên, những tinh trùng có hình dạng
bình thường và khả năng di động tốt, mật độ
cao vẫn tiềm ẩn khả năng bị phân mảnh DNA
hệ gen [5].
Tinh trùng có mức độ phân mảnh DNA cao sẽ
ảnh hưởng tới kết quả có thai tự nhiên cũng
như của các trường hợp bệnh nhân được điều
trị bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Trong đó, làm giảm tỷ lệ thụ tinh đối với các
trường hợp làm ICSI, tăng nguy cơ sảy thai,
giảm chất lượng phôi, giảm tỷ lệ làm tổ [4].
Theo AzizN và cộng sự (2008), thất bại của IUI
đòi hỏi phải đánh giá thêm các đặc tính sinh học
của tinh trùng, chẳng hạn như dấu hiệu
apoptotic và phân mảnh DNA tinh trùng [6].
Năm 2016, một hội đồng bao gồm năm bác sĩ
tiết niệu và bác sĩ nội khoa cùng với chuyên
gia về vô sinh nam đã đưa ra khuyến nghị dựa
trên bằng chứng và đưa ra các phương pháp
đánh giá sự phân mảnh DNA tinh trùng [1].
Các phương pháp đánh giá mức độ phân
mảnh của tinh trùng đã được xây dựng thành
công trong những năm gần đây như phương
pháp khảo sát cấu trúc nhiễm sắc chất tinh
trùng (SCSA), phương pháp điện di trên cá
thể tế bào đơn (COMET), phương pháp
nhuộm acridine orange (AOT), phương pháp
đánh dấu đứt gãy DNA bằng các dUTP được
xúc tác bởi enzyme terninal
deoxunucleotidyltransferase (TUNEL),
phương pháp dịch mã đứt gãy tại chỗ (ISNT)
và phương pháp khảo sát sự phân tán nhiễm
sắc chất của tinh trùng (SCD) [7]. Một trong
những phương pháp phổ biến và hiện đại nhất
hiện nay được sử dụng để đánh giá sự phân
mảnh DNA tinh trùng là phương pháp SCSA.
Phương pháp này sẽ định lượng sự phân
mảnh DNA trực tiếp dựa vào sự kết hợp DNA
bị biến tính với chất nhuộm DNA huỳnh
quang acridine orange. Giá trị ngưỡng của
SCSA đã được xác định và đưa vào trong
chẩn đoán lâm sàng [8]. SCSA là một phương
pháp có nhiều tiềm năng hỗ trợ cho chẩn đoán
và điều trị của các cặp vợ chồng hiếm muộn.
Mục tiêu trong nghiên cứu này là nhóm tác
giả tiến hành đánh giá có hay không mối liên
hệ giữa mức độ phân mảnh của tinh trùng
(bằng kỹ thuật SCSA) với các chỉ số tinh dịch
đồ để làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng
thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Mẫu tinh dịch của 119 bệnh nhân nam được lấy
bằng phương pháp thủ dâm khi đến khám tại khoa
Hỗ trợ Sinh sản - Bệnh viện A Thái Nguyên.
Tiêu chuẩn loại trừ: Loại bỏ các mẫu tinh
dịch có thể tích dưới 0,2 ml hoặc các mẫu
không có hoặc có rất ít tinh trùng
(Azoospermia).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3. Phương pháp thu nhận mẫu bệnh phẩm
và dữ liệu tinh dịch đồ
Mẫu tinh dịch sau khi xuất tinh được thu nhận
vào lọ đựng mẫu chuyên dụng và chờ ly giải
từ 15 – 60 phút. Sau đó, khi mẫu được đánh
giá mật độ, độ di động và một số chỉ tiêu khác
theo quy trình chuẩn (WHO, 2010) [9], dữ
liệu được thu nhận và dùng trong các phân
tích tiếp theo. Mẫu tinh dịch được lưu trữ ở -
200C và -860C và được phân tích tại phòng thí
Công nghệ gen và Tế bào - Trường Đại học
Khoa học - Đại học Thái Nguyên.
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 107
2.4. Phương pháp khảo sát cấu trúc nhiễm
sắc chất (SCSA)
Bước 1: Pha loãng mẫu tinh dịch trong dung dịch
TNE 1X đến mật độ 1 – 2.106 tinh trùng/ mL.
Bước 2: Xử lý mẫu với dung dịch acid loãng
(HCl 0,08N) trong 30 giây.
Bước 3: Nhuộm mẫu với dung dịch AO (6
µg/ml) trong 30 giây.
Bước 4: Chạy mẫu qua máy FCM (chạy lặp
lại 2 lần cho một mẫu).
Điều chỉnh thông số của máy FCM để máy
thu nhận 10.000 sự kiện.
Bước 5: Xử lý số liệu và tính chỉ số DFI bằng
phần mềm BD Accuri C6. Số liệu thu được từ
10.000 sự kiện sẽ được lọc và loại bỏ các tín
hiệu nhiễu, loại bỏ các tế bào HDS (tín hiệu
xanh quá cao).
Chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DNA
Fragmentation Index – DFI) được xác định
dựa vào công thức sau [10]:
Dựa vào chỉ số DFI, sự phân mảnh DNA tinh
trùng được chia thành 3 mức độ [10]:
• DFI ≤ 15% phân mảnh DNA tinh trùng ở
mức độ thấp.
• 15% < DFI < 30% phân mảnh DNA mức
trung bình.
• DFI ≥ 30% phân mảnh DNA mức cao.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, nhóm tác
giả tiến hành phân tích mối tương quan giữa
các chỉ số tinh dịch đồ, độ tuổi, với 2 mức độ
phân mảnh của tinh trùng gồm (1) mức độ
cao (DFI ≥ 30%) và (2) mức độ trung bình và
thấp (DFI <30%). Độ tuổi được chia làm 2
nhóm là ≥ 35 tuổi và < 35 tuổi.
2.5. Các biến số trong nghiên cứu
Các biến số trong nghiên cứu gồm: độ tuổi,
độ pH của tinh dịch, mật độ tinh trùng, độ di
động, tỷ lệ sống, hình dạng tinh trùng và độ
phân mảnh của tinh trùng.
2.6. Phân tích xử lý số liệu
Dữ liệu thu được được phân tích theo Chi-Square
Test trên phần mềm GraphPad Prism 5.0.
Nghiên cứu tuân thủ các quy định về y đức và
chỉ nhằm mục đích khoa học, được Hội đồng
Y đức Bệnh viện A cho phép triển khai.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Đặc điểm nhóm tuổi và các chỉ số tinh
dịch đồ của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm về tuổi và tinh dịch đồ của 119
bệnh nhân đến khám và điều trị tại Khoa hỗ
trợ sinh sản – Bệnh viện A Thái Nguyên trình
bày trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm về tuổi và tinh dịch đồ của đối
tượng nghiên cứu
Đặc điểm Trung bình ±
độ lệch chuẩn
Giới hạn
Tuổi 32,86± 6,40 22 - 53
Thời gian kiêng
xuất tinh (ngày)
4,05 ± 1,55 2 - 15
Thể tích xuất tinh (ml) 2,95 ± 1,27 1 -7
Độ pH 7,96 ±6,17 7,0 – 7,8
Mật độ (x106 tinh
trùng/mL)
22,29 ± 13,14 1 - 73
Di động tiến tới
PR (%)
24,53 ± 6,34 0 - 38
Di động không
tiến tới NP (%)
26,77 ± 6,34 0 - 44
Bất động IM (%) 48,80 ± 10,27 31 - 100
Tỷ lệ sống (TLS) (%) 65,11 ± 10,52 10 - 85
Hình dạng tinh
trùng (%)
1,17± 0,47 1 – 4
Theo số liệu thống kê, độ tuổi trung bình của
bệnh nhân đến khám vô sinh nam trung bình
là 32,86 tuổi. Điều này cho thấy khuynh
hướng vô sinh ở nam giới ngày càng trẻ hóa.
Các chỉ số được phân tích trong tinh dịch đồ
cũng chỉ ra hầu hết có chỉ số pH > 7,2, mật độ
tinh trùng dao động từ 1 – 73.106. Tỷ lệ sống
của tinh trùng trung bình là 65% nhưng có sự
dao động lớn từ 10% - 85%, điều này cho
thấy một bộ phận bệnh nhân có chất lượng
tinh trùng kém.
3.2. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh DNA
tinh trùng và độ tuổi của bệnh nhân vô sinh
Các đối tượng đến khám tại khoa Hỗ trợ sinh
sản - Bệnh viện A Thái Nguyên đều trong độ
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 108
tuổi sinh sản. Nhóm tác giả đã tiến hành phân
tích tinh dịch đồ từ 119 mẫu bệnh phẩm sau
khi các mẫu tinh trùng này được lấy bằng
phương pháp thủ dâm, đánh giá đại thể và vi
thể theo tiêu chuẩn của WHO (2010). Một
phần tinh dịch được chuyển sang Phòng thí
nghiệm Công nghệ gen và tế bào – Trường
Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên để
tiến hành phân tích độ phân mảnh DNA tinh
trùng bằng phương pháp SCSA trên hệ thống
Flow cytomtry Accuri C6 Plus.
Sự phân bố của mỗi nhóm bệnh nhân và chỉ
số phân mảnh tương ứng được thể hiện trong
bảng 2.
Bảng 2. Nhóm tuổi và mức độ phân mảnh DNA
tinh trùng
Nhóm
tuổi
Chỉ số phân
mảnh DFI
Tổng
(trường hợp)
P
DFI <
30
DFI ≥
30
119
≤35
tuổi
60 16 76 0,262
>35
tuổi
30 13 43
Hình 1. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh DNA
tinh trùng và độ tuổi
Bảng 2 cho thấy, sự khác biệt về mức độ phân
mảnh theo nhóm tuổi trong nghiên cứu này là
không rõ ràng (p = 0,2625). Điều này chỉ ra
rằng, ở bất cứ độ tuổi nào, DNA của tinh
trùng vẫn có thể bị phân mảnh. Một kết quả
tương tự cũng đã được Salah Elbashir chỉ ra
trước đó với P = 0,076 [11].
Hình 1 cho thấy mức độ phân mảnh DNA
tinh trùng khoảng 22 - 23% giữa các nhóm
tuổi. Tuy nhiên, ở nhóm tuổi dưới 35 vẫn có
một vài trường hợp có tỷ lệ mức độ phân
mảnh của tinh trùng khá cao.
3.3. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng và độ pH
Ngoài các chỉ số về tinh trùng, các trị số về
pH tinh dịch cũng có giá trị quan trọng trong
đánh giá vô sinh ở nam giới. Ở trạng thái sinh
lý bình thường, dịch túi tinh mang tính kiềm,
trong khi đó dịch tuyến tiền liệt mang tính
axít, sự pha trộn của hai dịch này làm cho độ
pH của tinh dịch có tính kiềm (pH = 7,2 - 8).
Kết quả phân tích trong bảng 3 cho thấy, số
lượng bệnh nhân có pH tinh dịch thấp chỉ
chiếm tỷ lệ 12/119 nhưng 50% trong số đó có
DFI ở mức cao (hình 2). Tỷ lệ này cao hơn rõ
rệt so với nhóm có chỉ số pH lớn hơn 7,2 với
23/107 trường hợp có mức độ phân mảnh cao
(p = 0,0292). Điều này có thể được giải thích
rằng, những bệnh nhân có pH tinh dịch < 7,2
là những trường hợp mà tinh dịch có thể chứa
dịch tiết chủ yếu từ tuyến tiền liệt và chức
năng tinh hoàn có thể bị suy giảm.
Bảng 3. Chỉ số pH và mức độ phân mảnh của tinh trùng
Độ pH
của
tinh
dịch
Chỉ số phân
mảnh DFI
Tổng
(trường
hợp)
P
DFI <
30
DFI ≥
30
0,0292
pH <7,2 6 6 12
pH ≥ 7,2 84 23 107
Tổng
(trường
hợp)
90 29 119
Hình 2. Mức độ phân mảnh theo độ pH của tinh dịch
Nếu túi tinh không có, teo hay vô chức năng,
hay bế tắc cả hai ống phóng tinh, thể tích tinh
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 109
dịch sẽ thấp (<1 mL) và pH axit (< 7,0) vì
tinh dịch chỉ có dịch tuyến tiền liệt là chủ yếu.
Kết quả trong nghiên cứu này cũng phù hợp
với công bố trước đó về ảnh hưởng của pH
lên mức độ phân mảnh của tinh trùng [12].
3.4. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng và mật độ tinh trùng
Trong hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới
về đánh giá chất lượng tinh dịch người năm
1999, mật độ tinh trùng tối thiểu đạt được là
20.106TT/ml đối với người có khả năng sinh
sản bình thường. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau đã dẫn tới sự suy giảm chất
lượng tinh dịch của nam giới. Năm 2010, Tổ
chức Y tế thế giới đã đưa ra hướng dẫn đánh
giá chất lượng tinh dịch người và theo đó, mật
độ tinh trùng tối thiểu của một người nam có
khả năng sinh sản bình thường là 15.106
TT/ml.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ ra rằng
không có mối liên hệ nào giữa mật độ tinh trùng
và mức độ phân mảnh DNA tinh trùng được tìm
thấy, hay nói cách khác chúng độc lập với nhau
(p = 0,2096) (bảng 4 và hình 3).
Bảng 4. Mật độ tinh trùng và chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng
Mật độ
tinh
trùng
(TT/ml)
Chỉ số phân
mảnh DFI
Tổng
(trường
hợp)
P
DFI
< 30
DFI
≥ 30
0,2096
Mật độ <
15.106
26 12 38
Mật độ ≥
15.106
64 17 81
Tổng
(trường
hợp)
90 29 119
Hình 3. Mức độ phân mảnh theo mật độ của tinh trùng
Trong một nghiên cứu của Zhonghua và cộng
sự đã sử dụng phương pháp SCD (sperm
chromatin dispersion) để phân tích mức độ
phân mảnh của tinh trùng trên và chỉ ra chúng
có mối liên hệ với mật độ của tinh trùng (p <
0,01) [13].
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của nhóm tác
giả phù hợp với một nghiên cứu gần đây của
Salah Elbashir (2018) trên 182 trường hợp đã
chỉ ra rằng không có mối liên hệ nào giữa
mức độ phân mảnh với mật độ của tinh trùng
(T test, p = 0,181) [14].
3.5. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng và độ di động
Độ di động của tinh trùng được đánh giá theo
tiêu chuẩn của WHO 2010.
Bảng 5. Mức độ phân mảnh DNA tinh trùng và độ
di động của tinh trùng
Độ di động
(PR + NP)
Chỉ số
phân mảnh
DFI
Tổng
(trường
hợp)
P
DFI
<
30
DFI
≥
30
0,0087 PR + NP ≥
40%
84 22 106
PR + NP <
40%
6 7 13
Tổng (trường
hợp)
90 29 119
Hình 4. Mức độ phân mảnh theo độ di động của
tinh trùng
Các chỉ số được đánh giá bao gồm các chỉ số
PR là số tinh trùng di động tiến tới và NP là chỉ
số tinh trùng di động không tiến tới. Độ di động
của một người nam bình thường khi giá trị tối
thiểu đạt 40% cho cả 2 chỉ số PR và NP.
Kết quả phân tích được chỉ ra trong bảng 5 và
hình 4.
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 110
Trong nghiên cứu này, độ di động và mức độ
phân mảnh DNA tinh trùng của các trường
hợp vô sinh nam có mối tương quan mật thiết
với nhau (p = 0,0087). Trước đó, mối liên hệ
thuận giữa mức độ phân mảnh cao với độ di
động kém đã được chỉ bởi Salah Elbashir (p =
0,01) [14].
3.6. Tương quan giữa chỉ số phân mảnh
DNA tinh trùng và tỷ lệ sống
Kết quả phân tích mức độ phân mảnh DNA
tinh trùng và tỷ lệ sống được thể hiện trong
bảng 6 và hình 5.
Bảng 6. Mức độ phân mảnh DNA tinh trùng và tỷ
lệ sống
Tỷ lệ
sống
của tinh
trùng
Chỉ số phân
mảnh DFI
Tổng
(trường
hợp)
P
DFI
< 30
DFI
≥ 30
0,0409
TLS <
68% 49 22 71
TLS ≥
68% 41 7 48
Tổng
(trường
hợp) 90 29 119
Tỷ lệ sống (TLS) trung bình của tinh trùng
trong nghiên cứu này là 65,11 ± 10,52.
Hình 5. Mức độ phân mảnh theo tỷ lệ sống (TLS)
của tinh trùng
Kết quả phân tích trong bảng 6 và hình 5 cho
thấy nhóm có tỷ lệ sống thấp (dưới 68%) có
mức độ phân mảnh cao hơn so với nhóm có tỷ
lệ sống trên 68%. Sự sai khác này có ý nghĩa
với p = 0.0409. Kết quả này phù hợp với các
công bố trước đó [14], [15].
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã chỉ ra
rằng, các bệnh nhân vô sinh nam có chỉ số pH
tinh dịch cao, độ di động tinh trùng kém và tỷ
lệ sống nhỏ hơn 68% đều có tỷ lệ phân mảnh
ở mức cao (DFI ≥ 30) hơn rõ rệt so với nhóm
tương ứng gồm các bệnh nhân có pH tinh
dịch dưới 7,2, độ di động tốt và tỷ lệ sống trên
68%. Tuy nhiên, không có sự khác biệt nào
về mức độ phân mảnh theo nhóm tuổi, theo
mật độ tinh trùng. Đánh giá mức độ phân
mảnh kết hợp với các đặc điểm tinh dịch đồ
giúp đưa ra những phác đồ hỗ trợ sinh sản tốt
hơn cho các bệnh nhân vô sinh nam.
Lời cám ơn
Đề tài nghiên cứu nhận được sự giúp đỡ từ
Bác sĩ CKH II Hà Hải Bằng, Bác sĩ Vũ Đào
Minh Thông, Bác sĩ Hứa Minh Tuân, Bác sĩ
Trần Thu Lệ cùng tập thể Khoa hỗ trợ sinh
sản Bệnh viện A Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. A. Agarwal, A. Majzoub, S. C. Esteves, E.
Ko, R. Ramasamy, and A. Zini, “Clinical
utility of sperm DNA fragmentation testing:
practice recommendations based on clinical
scenarios,” Transl Androl Urol, vol. 5, no. 6,
pp. 935-950, Dec. 2016.
[2]. A. Agarwal, S. Roychoudhury, K. B.
Bjugstad, and C.-L. Cho, “Oxidation-
reduction potential of semen: what is its role
in the treatment of male infertility?,” Ther
Adv Urol, vol. 8, no. 5, pp. 302-318, Oct.
2016.
[3]. R. J. Aitken, and G. N. De Iuliis, “Origins and
consequences of DNA damage in male germ
cells,” Reprod. Biomed. Online, vol. 14, no. 6,
pp. 727-733, Jun. 2007.
[4]. J. G. Alvarez, “DNA fragmentation in human
spermatozoa: significance in the diagnosis
and treatment of infertility,” Minerva Ginecol,
vol. 55, no. 3, pp. 233-239, Jun. 2003.
[5]. C. Avendaño, A. Franchi, H. Duran, and S.
Oehninger, “DNA fragmentation of normal
spermatozoa negatively impacts embryo
quality and intracytoplasmic sperm injection
outcome,” Fertil. Steril., vol. 94, no. 2, pp.
549-557, Jul. 2010.
[6]. N. Aziz, and A. Agarwal, “Evaluation of
sperm damage: beyond the World Health
Dương Thị Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 105 - 111
Email: jst@tnu.edu.vn 111
Organization criteria,” Fertil. Steril., vol. 90,
no. 3, pp. 484-485, Sep. 2008.
[7]. C. Celik-Ozenci et al., “Sperm selection for
ICSI: shape properties do not predict the
absence or presence of numerical
chromosomal aberrations,” Hum. Reprod.,
vol. 19, no. 9, pp. 2052-2059, Sep. 2004.
[8]. D. P. Evenson, “Sperm chromatin structure
assay (SCSA®),” Methods Mol. Biol., vol.
927, pp. 147-164, 2013.
[9]. X.-W. Cao, K. Lin, C.-Y. Li, and C.-W. Yuan,
“[A review of WHO Laboratory Manual for
the Examination and Processing of Human
Semen (5th edition)],” Zhonghua Nan Ke Xue,
vol. 17, no. 12, pp. 1059-1063, Dec. 2011.
[10]. D. Evenson, and L. Jost, “Sperm chromatin
structure assay is useful for fertility
assessment,” Methods Cell Sci, vol. 22, no. 2-
3, pp. 169-189, 2000.
[11]. S. Elbashir, Y. Magdi, A. Rashed, M. A.
Ibrahim, Y. Edris, and A. M. Abdelaziz,
“Relationship between sperm progressive
motility and DNA integrity in fertile and
infertile men,” Middle East Fertility Society
Journal, vol. 23, no. 3, pp. 195-198, Sep.
2018.
[12]. D. Evenson, and L. Jost, “Sperm chromatin
structure assay is useful for fertility
assessment,” Methods Cell Sci, vol. 22, no. 2-
3, pp. 169-189, 2000.
[13]. Y. Qiu, L. Wang, L. Zhang, D. Yang, A.
Zhang, and J. Yu, “[Analysis of sperm
chromosomal abnormalities and sperm DNA
fragmentation in infertile males],” Zhonghua
Yi Xue Yi Chuan Xue Za Zhi, vol. 25, no. 6,
pp. 681-685, Dec. 2008.
[14]. S. Elbashir, Y. Magdi, A. Rashed, M. A.
Ibrahim, Y. Edris, and A. M. Abdelaziz,
“Relationship between sperm progressive
motility and DNA integrity in fertile and
infertile men,” Middle East Fertility Society
Journal, vol. 23, no. 3, pp. 195-198, 2018.
[15]. Y. Qiu, L. Wang, L. Zhang, D. Yang, A.
Zhang, and J. Yu, “[Analysis of sperm
chromosomal abnormalities and sperm DNA
fragmentation in infertile males],” Zhonghua
Yi Xue Yi Chuan Xue Za Zhi, vol. 25, no. 6,
pp. 681-685, Dec. 2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
moi_lien_he_giua_muc_do_phan_manh_dna_tinh_trung_va_cac_chi.pdf