MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN. 3
I. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu bằng đường biển 3
II. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. 5
1. Khái niệm bảo hiểm. 5
1.1. Định nghĩa. 5
1.2. Phân loại bảo hiểm. 5
2. Vai trò của ngành bảo hiểm. 6
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển 8
III. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển 9
1. Đặc điểm và trách nhiệm của cỏc bờn liên quan trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. 9
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. 9
1.2. Trách nhiệm của cỏc bờn liên quan. 10
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển. 13
2.1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển 13
2.2. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển. 14
3. Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 15
3.1. Điều kiện bảo hiểm C ( ICC – C ). 16
3.2. Điều kiện bảo hiểm B ( ICC- B ) 18
3.3. Điều kiện bảo hiểm A ( ICC- A ) 18
3.4. Điều kiện bảo hiểm chiến tranh. 19
3.5. Điều kiện bảo hiểm đình công. 20
3.6. Trách nhiệm của bảo hiểm về mặt không gian và thời gian. 20
4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 21
4.1. Khái niệm. 21
4.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm. 21
4.3. Nội dung hợp đồng bảo hiểm. 23
5. Khiếu nại dòi bồi thường trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển. 27
5.1. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. 27
5.2. Thủ tục khiếu nại đòi bồi thường. 28
6. Giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển. 30
6.1. Giám định tổn thất. 30
6.2. Bồi thường tổn thất. 32
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM. 33
I. Thực trạng bảo hiểm ở Việt Nam. 33
II.Thực trạng ngành bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. 40
III. Đánh giá dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam 44
1.Thực trạng 44
1.1. Tăng trưởng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển . 49
1.2. Công tác khai thác bảo hiểm: 53
2. Lợi thế của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 58
3. Tồn tại và khó khăn. 61
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN DỊCH VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM. 67
I. Định hướng 67
1. Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm. 67
1.1. Phát triển sản phẩm bảo hiểm. 67
1.2. Phát triển công tác tiếp thị. 67
1.3. Phát triển thương hiệu bảo hiểm: 68
1.4. Chăm sóc khách hàng: 68
1.5. Bồi thường: 69
1.6. Tình hình sử dụng vốn: 70
1.7. Phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam hội nhập sâu - rộng vào thị trường bảo hiểm thế giới : 70
2. Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển. 71
2.1. Công tác chăm sóc khách hàng: 71
2.2. Mức phí bảo hiểm: 74
2.3. Về công tác tổ chức kinh doanh. 75
2.4. Về phòng và hạn chế tổn thất: 78
2.5. Về công tác bồi thường: 80
2.6. Về công tác cán bộ: 80
2.7. Liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm với các tổ chức ngân hàng. 83
2.8. Một số vấn đề khác. 83
II. Kiến nghị 85
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
94 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được bảo vệ đúng mức. Trong đa số các trường hợp, chi phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thường không đáng kể so với giá trị của hàng hóa và chi phí vận chuyển. Chính sách bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu có thể được xây dựng cho những nhu cầu cụ thể của nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một giao dịch quốc tế.
Thực tế cho thấy lợi thế của việc có bảo hiểm hàng hóa trên biển là mang đến sự an tâm cho người được bảo hiểm. Chế độ bảo hiểm tự động “Nhà kho tới nhà kho” được cung cấp cựng cỏc điều khoản bảo hiểm thiết kế cho hàng hóa và cách vận chuyển của người được bảo hiểm. Hạn chế rủi ro với những giá trị và giới hạn đền bù thỏa đáng. Yêu cầu đền bù có thể trả bằng USD hoặc nội tệ, tuy nhiên, bảo hiểm chi trả bằng USD sẽ giảm bớt khả năng xảy ra hiểu lầm, trao đổi liên lạc quá nhiều và tiết kiệm thời gian trong quá trình xử lý yêu cầu bồi thường. Cách chi trả này làm cho việc thay thế hàng hóa được nhanh chóng và góp phần cải thiện quan hệ thương mại.
Bên cạnh đó, người được bảo hiểm hưởng mọi lợi thế trong giao dịch thông qua người môi giới của mình, dịch vụ nhanh chóng, riêng tư, sự tin cậy và tiện lợi. Tự do lựa chọn các công ty bảo hiểm. Có thể nói chính sách bảo hiểm hàng hóa mở đang áp dụng hiện nay bảo vệ toàn bộ hàng hóa được vận chuyển ở nước ngoài bằng tàu thủy, máy bay và bưu phẩm của người được bảo hiểm.
Chính sách bảo hiểm mở bao gồm: điều khoản nguyên nhân gây tổn thất, một hoặc trên một điều khoản phạm vi bảo hiểm và điều khoản bổ sung về phạm vi bảo hiểm. Trong đó, điều khoản nguyên nhân gây tổn thất quy định: đại bộ phận các rủi ro được bao hàm trong điều kiện này nằm trong cụm từ “cỏc nguyên nhân gây tai nạn trên biển”, đó là các tổn thất gây ra bởi thời tiết, neo đậu, va chạm, chìm tàu, tiếp xúc với nước biển và một số nguyên nhân khác như hỏa hoạn, cướp, sự cố ý gây sự cố của chủ tàu…
Luật kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành và có hiệu lực, tạo ra hành lang vững chắc cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng.
Tồn tại và khó khăn.
Tuy ngành bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt được những thành tựu lớn nhưng vẫn còn tồn tại những điểm yếu cần giải quyết sau:
Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với các phương thức xuất nhập khẩu trờn đó hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mỡnh, bờn nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu.
Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mỡnh. Cỏc công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn.
Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỷ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỷ Đụla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà xuất nhập khẩu nước ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm.
Các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc này khó thực hiện do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn chế.
Việt Nam đang bị "chảy máu" một lượng ngoại tệ không hề nhỏ.
Sở dĩ có tình trạng trên là do tính cạnh tranh của các nhà bảo hiểm trong nước chưa cao, chưa mang tầm quốc tế. Nhìn chung, các nhà bảo hiểm trong nước vừa mỏng về năng lực tài chính, vừa thiếu về kinh nghiệm kinh doanh. Hiện trong số 15 doanh nghiệp bảo hiểm cung ứng các sản phẩm bảo hiểm xuất nhập khẩu chỉ có Bảo Việt có thâm niên và số vốn tương đối lớn, các doanh nghiệp còn lại đều được thành lập sau năm 1993 nên vốn còn mỏng.
Hơn nữa, vì bảo hiểm xuất nhập khẩu thường có giá trị lớn (hàng triệu USD), trong khi tình hình khai thác và đề phòng tổn thất của các nhà bảo hiểm trong nước còn chưa tốt, nờn cỏc doanh nghiệp ngành bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam chưa mạnh dạn tham gia.
Thị trường Bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu bị nước ngoài nắm giữ
Từ năm 1995 cho đến nay, tỉ trọng hàng xuất khẩu tham gia mua bảo hiểm trong nước chỉ tăng được từ 3,3% đến 5,6%, còn lại từ 94,4% đến 96,7% hàng hóa mua, bảo hiểm tại nước ngoài. Năm 2002 Việt Nam xuất khẩu đạt kim ngạch 16,5 tỉ USD, nhưng chỉ có khoảng 900 triệu USD hàng hóa mua bảo hiểm trong nước, còn lại 15,6 tỉ USD hàng hóa mua bảo hiểm ngoài nước.
Trong 7 tháng đầu năm 2003, cả nước đã xuất khẩu đạt 11,7 tỉ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm trước, nhưng do ngành bảo hiểm thiếu các giải pháp hữu hiệu nên tình hình tham gia mua bảo hiểm trong nước vẫn chỉ ở mức 5%, mất 95% thị phần.
Hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nguyên liệu thô hoặc hàng gia công, kém lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhiều mặt hàng có lợi thế như: thủy sản, gạo, cà phê, tiêu... khi đối tác nước ngoài ký hợp đồng thương mại họ thường chỉ định luôn hãng tàu vận tải và hãng mua bảo hiểm, do vậy hàng Việt Nam xuất khẩu tham gia mua bảo hiểm trong nước chiếm tỉ lệ thấp.
Doanh nghiệp Việt Nam vốn nhỏ, lại chưa quen buôn bán quốc tế nên để cho chắc ăn họ thường bán hàng theo giá FOB (giá giao tại cảng VN) nên không cần mua bảo hiểm hàng hải. Ví dụ: Ông Vũ Sỹ Nam, Phó Tổng Giám đốc Công ty May Nhà Bè, cho biết “Năm 2002, công ty xuất khẩu quần áo trị giá trên 40 triệu USD, từ đầu năm đến nay kim ngạch XK tương đương cả năm ngoái, trong đó hàng bỏn giỏ FOB chiếm trên 70%. Số còn lại xuất theo yêu cầu của khách. Do bỏn giỏ FOB nên công ty không mua bảo hiểm hàng XK. Thỉnh thoảng nếu đối tác nước ngoài yêu cầu thì công ty mua giựm”.
Do nhu cầu phát triển nên Việt Nam là một trong những nước nhập siêu với tỉ lệ khá cao. Năm 2008 cả nước nhập siêu 2,8 tỉ USD. Năm nay mức nhập siêu có thể đạt trên 3 tỉ USD. Các mặt hàng nhập khẩu nhiều là xăng dầu, phân bón, phụi thộp, clinker, ô tô, xe máy, máy móc, thiết bị, nguyên liệu may mặc, da giày...
Trong thương mại quốc tế, người mua mới là chủ hàng, vì vậy họ có quyền yêu cầu chỉ định hãng vận tải và hãng bảo hiểm. Do ý thức như vậy nên đến nay đó cú một số doanh nghiệp khi nhập hàng đã mua bảo hiểm trong nước. Ví dụ: Ông Đặng Huy Hiệp, Trưởng Phòng Kế hoạch Kinh doanh Công ty Thép Miền Nam, cho biết “Mỗi năm công ty nhập khoảng 200.000 tấn phụi thộp nhưng tất cả đều mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước. Vỡ cựng lãnh thổ, cùng tiếng nói, phong tục và quen biết nhau nên trong quá trình vận chuyển nếu hàng có xảy ra rủi ro thì doanh nghiệp dễ làm thủ tục để đòi bảo hiểm bồi thường”.
Nhưng số doanh nghiệp có ý thức như vậy cũn ớt, vì vậy hàng nhập khẩu vẫn bị nước ngoài chi phối bảo hiểm. Theo thống kê, trong khoảng 7 – 8 năm nay, số hàng hóa nhập khẩu tham gia đóng bảo hiểm hàng hải trong nước chỉ chiếm trung bình 21%, còn 79% đóng ở nước ngoài. Từ đầu năm 2005 tới nay, tỉ trọng này tuy có tăng lên nhưng cũng chỉ đạt gần 24%. Vì đồng vốn nhỏ nên muốn an toàn, các doanh nghiệp Việt Nam thường nhập khẩu hàng theo giá CIF (tới cảng Việt Nam), do đó các chủ hàng nước ngoài lại đảm đương luôn vận tải và bảo hiểm hàng hải.
Tàu già làm mất bảo hiểm.
Việt Nam hiện có gần 100 cảng biển, trải dài từ Quảng Ninh tới Cà Mau. Tính ra bình quân có 3 cảng/tỉnh duyên hải. Trong đó tập trung nhiều tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi năm có khoảng 55.000 lượt tàu ra vào các cảng trên cả nước, chuyên chở trên 130 triệu tấn hàng hóa qua cảng, trong đó có 10% hàng quá cảnh.
Hiện cả nước có 1.000 tàu vận tải biển, xếp vị trí 60/152 quốc gia có tàu mang quốc tịch trên thế giới và xếp thứ tư trong khu vực ASEAN, nhưng trong đó tàu viễn dương chỉ chiếm khoảng 20%, còn lại chủ yếu vận chuyển nội địa.
Chất lượng dịch vụ của đội tàu Việt Nam chưa cao, trong khi giá cước lại cao nên chưa có sức cạnh tranh. Hiện nay vận chuyển bằng đường biển chiếm tới 80% tổng nhu cầu vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam nhưng đội tàu trong nước nhận được ít hợp đồng vận tải. Trên thực tế mới đảm nhận vận chuyển được khoảng trên dưới 13% khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phần lớn còn lại do các đội tàu nước ngoài thực hiện.
Hầu hết các tàu Việt Nam đều già nên khó tìm nguồn hàng chạy tuyến nước ngoài. Khi chở hàng thì phải đóng phí bảo hiểm cao (vì dễ rủi ro), nhưng tiền cước lại thấp (vì chạy chậm) nờn cỏc chủ hàng nước ngoài rất e ngại nếu thuê tàu Việt Nam.
Hành vi trục lợi trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hàng hóa được yêu cầu bảo hiểm trong hành trình vận chuyển, nhưng chưa đóng phí bảo hiểm. Khi biết hàng về đến nơi an toàn, khách hàng xin hủy đơn bảo hiểm hoặc hủy hợp đồng bảo hiểm để khỏi phải đúng phớ. Thậm chí có chủ hàng biết thông tin hàng hóa của mình bị tổn thất rồi mới đến mua bảo hiểm hoặc thông đồng với cán bộ của doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm và nhận bồi thường cho tổn thất đó. Thực tế đã diễn ra và vụ việc đã được cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện, lập hồ sơ để đưa ra pháp luật xử lý. Cũng có trường hợp trục lợi bị phát hiện khi hàng hóa được mua bảo hiểm vận chuyển trên một con tàu ma tức là con tàu đó không tồn tại trên thực tế. Khách hàng lừa đảo mua bảo hiểm với mục đích quy cho tàu mất tích để trục lợi đòi bồi thường toàn bộ... Trong bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tàu thuyền, trục lợi bảo hiểm được thực hiện thông qua việc hợp lý hoá ngày và hiệu lực bảo hiểm. Trên thực tế còn có việc tạo hiện trường giả các vụ tai nạn, cháy hoặc chìm tàu, cố ý gây tai nạn trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, gian lận đối với người thứ ba: không bồi thường cho người thứ ba, mặc dù đã nhận tiền bảo hiểm...
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN DỊCH VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM.
Định hướng
1. Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm.
1.1. Phát triển sản phẩm bảo hiểm.
Sản phẩm: Các doanh nghiệp nên tập trung nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu đề xuất ra nhiều sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường, điều này ở các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài làm rất tốt- họ đưa ra những chính sách khen thưởng, khuyến khích ngưới lao động đầu tư suy nghĩ, vận dụng những sản phẩm bảo hiểm nướcngoài vào Việt Nam và được tưởng thưởng xứng đáng (tỷ lệ với mức độ thành công của các sản phẩm mới mang lại).
Các sản phẩm bảo hiểm mới của các doanh nghiệp khi đưa ra thị trường cần phải dựa trên cơ sở nhu cầu có thực, hoặc nhu cầu tiềm ẩn của từng địa phương mà áp dụng từng sản phẩm bảo hiểm cho phù hợp, tránh tình trạng chạy theo thành tích, chỉ tiêu, triển khai tràn lan gây lãng phí ngân sách và thời gian vô ích.
Phải tổ chức mạng lưới triển khai sản phẩm mới, qui định thời gian, giám sát, tổng hợp, phân tích những động thái phát sinh trong quá trình thực hiện, đề xuất phương án khắc phục kịp thời tránh tình trạng đầu voi đuôi chuột phổ biến như nhiều dự án hiện nay.
1.2. Phát triển công tác tiếp thị.
Trong một thời gian rất dài, các doanh nghiệp nhà nước đã không quan tâm đúng mức đến công tác vô cùng quan trọng này, đây cũng là giai đoạn mà các công ty bảo hiểm nước ngoài đổ xô vào Việt Nam với nhiều chiêu thức tiếp thị đa dạng, phong phú . Để củng cố thương hiệu, gia tăng thị phần trong thời gian sắp tới, các doanh nghiệp nhà nước cần tập trung hơn nữa vào công tác tiếp thị. Đây là một công việc hết sức khó khăn đối với các doanh nghiệp nhà nước- vì để làm được điều này, hàng loạt vấn đề được đặt ra và phải thực hiện hết sức cấp bách thì công tác tiếp thị mới đạt được hiệu quả cao. Từ việc nghiên cứu thiết lập các chiến lược tiếp thị đến việc đào tạo nhân lực, quán triệt tư tưởng kinh doanh trong nền kinh tế thị trường… cho những bộ máy vốn đã cồng kềnh, già nua.
1.3. Phát triển thương hiệu bảo hiểm:
Thương hiệu là một lợi thế lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù thị phần của các công ty này đang trên đà đi xuống, nhưng tên hiệu của các công ty này đã được nhiều người biết đến như: Bảo Việt, Bảo Minh, vì đã có một thời gian dài hầu như thị trường bảo hiểm ở Việt Nam chỉ độc quyền cho 2 công ty này kinh doanh. Tuy nhiên, doanh thu phí bảo hiểm vào các năm này cũng chưa cao, một phần do sản phẩm chưa phong phú, và sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế . Do đó, trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp này nên tập trung hơn nữa vào việc củng cố thương hiệu, giữ vững thị phần hiện còn của mình và từng bước chiếm lại những thị phần đã mất trước đây.
1.4. Chăm sóc khách hàng:
Hiểu theo nghĩa đen thì bảo hiểm có nghĩa là bảo đảm chia sẻ, bồi thường cho khách hàng khi có nguy hiểm xảy ra, theo xu hướng hiện đại ngày nay là làm sao bảo đảm cho khách hàng hạn chế (không có) nguy hiểm xảy ra khi mua bảo hiểm. Để làm được việc này, công tác chăm sóc khách hàng phải được quan tâm đúng mức và duy trì thường xuyên qua các công việc cụ thể như: hướng dẫn khách hàng cách bảo quản, sử dụng trang thiết bị, trang bị các công cụ hỗ trợ (hỏa hoạn, thiên tai…)- xem như là một khoản hậu mãi cho khách hàng - khuyến cáo khách hàng thực hiện các qui định về an toàn trong sản xuất kinh doanh, nhất là những hạng mục đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, làm tốt được điều này, không những các doanh nghiệp hạn chế được nhiều rủi ro có nguy cơ dẫn đến bồi thường mà còn tạo thêm được lòng tin, sự an tâm của khách hàng đối với đơn vị và trở thành những khách hàng truyền thống cho những kỳ tái tục* tiếp theo.
Thường xuyên tổ chức những đợt tuyên truyền, giáo dục về bảo hiểm, thông tin rộng rãi trờn cỏc phương tiện có sức lan tỏa nhanh như: báo, đài truyền thanh, truyền hỡnh…( việc này công ty bảo hiểm Bảo Minh đã thực hiện khá tốt).
Tổ chức các chương trình cập nhật kiến thức về bảo hiểm ở các trường học, cơ quan lớn, … nhằm nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của khách hàng về tầm quan trọng, những lợi ích thiết thực mà các sản phẩm bảo hiểm mang lại khi có sự cố phát sinh.
1.5. Bồi thường:
Các doanh nghiệp phải tạo mọi điều kiện để khách hàng nhận được bồi thường nhanh, đúng với các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, thực tế đã có nhiều khách hàng khi ký hợp đồng mua bảo hiểm cho cá nhân hoặc đơn vị mình, cũng chưa thực sự am hiểu về các từ ngữ chuyên môn được sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm, tận dụng sơ hở này- khi xảy ra sự cố, một số nhân viên bảo hiểm đã cố tình bắt bí khách hàng, và thế là chuyện lót tay lại xảy ra là một điều hiển nhiên mà không ít lần khách hàng phải ngậm ngùi cho xong việc!
1.6. Tình hình sử dụng vốn:
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm thuộc doanh nghiệp nhà nước hiện nay khá là đơn giản. Nguồn vốn được tạo ra từ việc thu phí bảo hiểm thường được các doanh nghiệp sử dụng chủ yếu vào việc cho vay ở các ngân hàng, đầu tư dài hạn vào trái phiếu chính phủ…chưa thực sự mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực khác như: thị trường chứng khoán, tham gia cổ phần trong các công ty liên doanh, các tập đoàn lớn, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản,…để có thể tham gia vào những loại hình đầu tư nêu trên, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có được một lượng thông tin rõ ràng, đáng tin cậy, được cập nhật thường xuyên, kết hợp với các kiến thức chuyên môn về thẩm định dự án đầu tư qua các chỉ tiêu cơ bản : thời gian hoàn vốn, tỷ suất hoàn vốn, tỷ suất lợi nhuận, lưu chuyển tiền mặt …
1.7. Phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam hội nhập sâu - rộng vào thị trường bảo hiểm thế giới :
Việt Nam gia nhập WTO là một bước ngoặt trong kinh tế, đánh dấu bước chuyển biến mới trong kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế hội nhập và phát triển. Đi cùng sự phát triển đú cỏc doanh nghiệp bảo hiểm cũng tham gia vào quá trình hội nhập.
Mặt khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đều có tính hợp tác và hội nhập với thị trườn bảo hiểm trong nước và quốc tế. Điều này thể hiện ở: Sản phẩm bảo hiểm dễ bắt chước và được phát triển tuân theo chuẩn mực quốc tế; nhiều sản phẩm bảo hiểm mang tính quốc tế cao kể cả đơn bảo hiểm, điều khoản điều kiện bảo hiểm như bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển, điều kiện A, B, C …Vỡ vậy khi thành lập và đi vào hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm thường là kế thừa các sản phẩm bảo hiểm đã có sẵn trên thị trường bảo hiểm quốc tế và trong nước…. Vì vậy việc phát triển thị trường bảo hiểm theo hướng hội nhập vào thị trường bảo hiểm thế giới là rất quan trọng.
2. Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
2.1. Công tác chăm sóc khách hàng:
Trong nền kinh tế thị trường khách hàng là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp, đặt biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động dựa trên quy luật số đông thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng hơn.
Để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tích cực hơn nữa các doanh nghiệp nên:
Tiếp tục tuyên truyền, vận động khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây là một biện pháp tiếp cận truyền thống nhưng nó vẫn mang lại hiệu quả một cách thiết thực đối với những đối tượng là những khách hàng mới, nhỏ, lẻ, không tập trung.
Khai thác triệt để lợi thế của các khách hàng trong cổ đông đồng thời tận dụng được mối quan hệ kinh doanh của các cổ đông để thu hút khách hàng.
Tăng cường hoàn thiện hơn nữa trách nhiệm phục vụ khách hàng, đáp ứng các điều kiện bảo hiểm mà khách hàng yêu cầu, thường xuyên củng cố quan hệ và tạo mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, kịp thời và thỏa đáng khi có tổn thất xảy ra.
Thường xuyên nghiên cứu đưa ra các mức phí hợp lý. Việc thay đổi linh hoạt hay nghiên cứu hạ tỷ lệ phí bảo hiểm là rất cần thiết vừa là để đảm bảo lợi ích cho khách hàng vừa khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm hay tái tục hợp đồng bảo hiểm với công ty. Tuy nhiên việc hạ tỷ lệ phí bảo hiểm phải được tính toán dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá của từng chủng loại hàng hóa được bảo hiểm. Như vậy tránh được việc tạo ra tâm lý xấu cho khách hàng, đồng thời không ảnh hưởng đến khả năng giữ lại của công ty và gây ra mất ổn định đối với thị trường trong nước.
Đẩy mạnh hoạt động khai thác, khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nâng cao ý thức trách nhiệm đối với hoạt động của mình, vừa bảo vệ tài sản cũng như mang lại nguồn ngoại tệ cho nhà nước thông qua hoạt động bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước. Một thực trạng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở nước ta hiện nay chính là việc các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu theo điều kiện CIF. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giành quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá cho phía đối tác nước ngoài. Đõy chớnh là nguyên nhân khiến cho hàng năm chúng ta làm thất thoát một khối lượng lớn ngoại tệ nước ngoài. Nhiệm vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở đây là tạo dựng cho khách hàng sự tin tưởng vào chất lượng phục vụ của công ty, căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp để tư vấn cho doanh nghiệp về các điều kiện xuất và nhập hàng, khuyến khích họ xuất khẩu theo giá CIF và nhập theo giá được đặt ra đối với FOB.
Cần tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu để phân chia khách hàng thành từng nhúm: nhúm khách hàng có nhu cầu xuất nhập khẩu thường xuyên và không thường xuyên và nhóm khách hàng chuyên xuất hay nhập các mặt hàng, chủng loại hàng hóa nào đó, hay nhóm khách hàng trong và ngoài cổ đông. Trên cơ sở đó công ty có thể đề ra các biện pháp, chiến lược tiếp cận khai thác thích hợp và xây dựng mức phí chào hợp lý để khuyến khích họ tham gia, tao lập mối quan hệ lâu dài.
Tổ chức hệ thống thông tin phản hồi đối với mọi yêu cầu, kiến nghị góp ý, đề xuất của khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
Các doanh nghiệp nên tiến hành việc mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ cho phù hợp với xu thế chung nhằm phục vụ tốt nhất khách hàng truyền thống và khách hàng tương lai trong và ngoài doanh nghiệp nhằm tạo uy tín cho doanh nghiệp của mỡnh trờn thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế. Để thực hiện có hiệu quả công ty cần tích cực nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới bổ sung đáp ứng nhu cầu của khách hàng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cho các hoạt động liên quan đến việc bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm thuê mua, bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
Cải tiến hoàn thiện chính sách khách hàng như: Chính sách chi hoa hồng chú cỏc đại lý, chi phí giao dịch bán hàng, giảm phí bảo hiểm cho các khách hàng thường xuyên hay làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Tiến hành việc chào phí tới các công ty xuất nhập khẩu một cách thường xuyên và bên cạnh đó công ty còn thực hiện tư vấn miễn phí về các vấn đề có liên quan đến việc mua bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng đối với công ty của mình.
Nên tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ vì đây là cơ hội gặp gỡ, trao đổi giữa công ty và một số khách hàng lớn tham gia bảo hiểm ở công ty thường xuyên nhằm rút ra những kinh nghiệm thực tiễn trong việc ký kết hợp đồng, đánh giá và quản lý rủi ro, vận chuyển hàng hóa, công tác giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất và công tác bồi thường.
Đại đa số các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam có khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển chủ yếu là những khách hàng truyền thống đã tham gia bảo hiểm nhiều năm ở công ty, cho nên trong điều kiện khó khăn chung về khai thác trong thời gian vừa qua thì việc nâng cao uy tín, củng cố lòng tin với khách hàng truyền thống để họ lôi kéo thêm những khách hàng mới tham gia bảo hiểm ở công ty chính là một biện pháp marketing tương đối hiệu quả mà các công ty nên chú trọng hơn nữa.
2.2. Mức phí bảo hiểm:
Sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc biệt đó là một cơ chế chuyển giap rủi ro với đặc tính là có hiệu quả xê dịch và có chu trình kinh doanh ngược. Vì thế người mua khó nhận biết về lợi ích kinh doanh của nó mà họ thường quan tâm đến mức phí(giá cả của sản phẩm bảo hiểm). Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng tham gia bảo hiểm ở công ty khác, nhưng cũng không thể quá thấp vỡ cũn phải đủ để trả bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải các chi phí khác như: hoa hồng, chi phí quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ, Các công ty cần phải có những chính sách giảm phí cho những khách hàng truyền thống, có kim ngạch bảo hiểm lớn. Phí bảo hiểm cần phải được xây dựng trên cơ sở thụng kờ rủi ro, tổn thất qua các năm từ đó xác định được phí thuần, sau khi cộng thêm một số chi phí khác như: chi phí ký kết hợp đồng, chi phí quản lý… Ta sẽ được phí thương mại. Để có mức phí hợp lý công ty phải căn cứ vào một số yếu tố: thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh…rồi sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Ngoài ra công ty cần phải thường xuyên theo dõi ảnh hưởng của mức phí đến tâm lý khách hàng cũng như sự tương quan với mức phí vủa các công ty khác để có sự điều chỉnh kịp thời. Vì vậy nờn cú một mức phí hợp lý.
Các doanh nghiệp trong nước có thể tham khảo thông tin về: “Tỷ lệ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu” của Tập đoàn Bảo Việt như sau:
1- Nếu là hàng đóng container, điều kiện bảo hiểm "A" (mọi rủi ro): + Các mặt hàng giầy dép, may mặc, đồ thể thao, săm lốp ô tô, xe mỏy:Tỷ lệ phí bảo hiểm khoảng trên dưới 0.2%Tỷ lệ phí bảo hiểm khoảng trên dưới 0.2%
+ Các mặt hàng chè, cà phê, điện dân dụng, điện tử, hàng mây tre, máy móc, thiết bị, đồ dân dụng, nước ép trái cây, thực phẩm đóng hộp, mì ăn liền, đồ gỗ, đồ chơi trẻ em, đồng và các sản phẩm, bột cỏ, cỏc sản phẩm từ gỗ, rượu vang, dầu cá, hóa chất, thực phẩm đông lạnh và đồ ăn nhanh:Tỷ lệ phí bảo hiểm dao động trong khoảng từ 0.25% - 0.3%Tỷ lệ phí bảo hiểm dao động trong khoảng từ 0.25% - 0.3%
+ Các mặt hàng gốm sứ, hoa quả tươi, hải sản đông lạnh: Tỷ lệ phí từ 0.45% - 0.5%
2- Hàng đóng bao, đóng thùng (kiện gỗ) không để trong container:
+ Các mặt hàng nói ở điểm 1 (a): Tỷ lệ phí từ 0.3% - 0.35%
+ Các mặt hàng nói ở điểm 1 (b): Tỷ lệ phí từ 0.35% - 0.40%
+ Các mặt hàng gốm sứ : Tỷ lệ phí 0.9%
Như vậy việc xác định được mức phí hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách hàng truyền thống và những khách hàng mới. Từ đó thu được doanh thu lớn cho doanh nghiệp. Mức phí hợp lý cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tận dụng sự phát triển của xuất nhập khẩu để phát triển dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, giúp tỉ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước ngày càng tăng, từ đó phát triển nền kinh tế Việt Nam vững mạnh.
2.3. Về công tác tổ chức kinh doanh.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng vì thế nhu cầu về bảo hiểm ngày càng lớn dòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có một mạng lưới các chi nhánh rộng khắp trong cả nước đáp ứng kịp thời, nhanh chóng nhu cầu của khách hàng mọi lúc mọi nơi mà vẫn đảm bảo bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt và có hiệu quả.
Do tính chất đặc thù của nghiệp vụ nên ngoài việc mở rộng các chi nhánh, doanh nghiệp bảo hiểm cần mở rộng tăng cường mạng lưới đại lý, cộng tác viên và giám định viên nhằm khai thác triệt để nhu cầu bảo hiểm của khách hàng chú trọng thu hút đối tượng này là công nhân viên các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, đơn vị vận tải. Như vậy thì việc năm bắt thông tin từ khách hàng sẽ rất nhanh chóng và kịp thời. Vị trí phân bố đội ngũ này nên ở một số khu vực cảng biển hay một số trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ… tạo điều kiện cho việc tiếp cận khách hàng và đây là những nơi có nhu cầu về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu lớn.
Củng cố, phát triển và cải tiến tổ chức quản lý ở doanh nghiệp bảo hiểm và các chi nhánh sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, yêu cầu của cạnh tranh. Cải tiến lề lối công việc, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, xây dựng chính sách khách hàng.
Hoàn thiện hơn nữa các quy định cụ thể về phân cấp quyền hạn và trách nhiệm của các chi nhánh, phòng ban, đại lý và cộng tác viên của công ty nhằm đảm bảo sự thống nhất thông suốt trong quản lý điều hành, tránh sự trùng lập, chồng chéo về nghĩa vụ và quyền lợi của cỏc bờn từ đó nõng cỏc hiệu quả của công tác quản lý cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung.
Vai trò của công tác giám định là rất lớn, trong thời gian qua hiệu quả của công tác này chưa cao nờn đó ảnh hưởng không tốt đến cỏc khõu còn lại trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ kinh doanh. Công tác này vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các tổ chức giám định trung gian do công ty ủy thác. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả của công tác giám định cũng như hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ thì đầu tư hoàn thiện về mọi mặt cho công tác này là rất quan trọng. Ngoài việc đầu tư mua sắm trang thiết bị giám định hiện đại, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của các giám định viên hợp tác chặt chẽ với các tổ chức giám định có uy tín trong và ngoài nước, doanh nghiệp bảo hiểm cần tăng cường việc bố trí mạng lưới đại lý giám định của mình tại các khu trung tâm, những nơi có khách hàng tham gia bảo hiểm đông đảo nhằm thực hiện công tác này một cách nhanh chóng, kịp thời, có khoa học và đạt hiệu quả cao.
Luôn duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm trong và ngoài nước để nghiên cứu và tham khảo đưa ra các nghiệp vụ mới bổ sung và lựa chọn đối tác cho nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu có hiệu quả.
Tăng cường hợp tác giữa bảo hiểm, chủ hàng và người vận chuyển để thực hiện mục tiêu mua theo giá FOB, CF hoặc CFR đối với hàng hóa nhập khẩu và bán theo giá CIF đối với hàng hóa xuất khẩu. Trường hợp chủ hàng có khó khăn trong việc thuê phương tiện chuyên chở, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp với người vận chuyển để giúp đỡ tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn phương tiện chuyên chở, phương thức xếp dỡ, vận chuyển nhằm đạt kết quả cao trong kinh doanh xuất nhập khảu hàng hóa.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nghiên cứu một mô hình thích hợp nhằm phối hợp một cách chặt chẽ, đồng bộ hoạt động ngoại thương, vận tải, bảo hiểm bằng các hình thức liên doanh, liên kết, lập các hiệp hội hàng hải bao gồm chủ tàu, chủ hàng, và người bảo hiểm, các tổ chức ngoại thương, vận tải biển và bảo hiểm hàng hải từ đó tạo ra sự lớn mạnh về mọi mặt, tích cực tham gia vào cỏc vũng đàm phán với nước ngoài trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, tránh bị chèn ép giành lại các quyền lợi trong đó có quyền lợi về bảo hiểm cho công ty nói riêng và đất nước nói chung mà lâu nay vẫn bị các nhà bảo hiểm nước ngoài nắm giữ.
2.4. Về phòng và hạn chế tổn thất:
Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến. Để hạn chế tổn thất các công ty có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Chỉ định công ty khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng hóa lờn, xuụng tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hóa.
Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình doanh nghiệp vẫn phải nghiên cứu kỹ những đặc điểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng lánh nạn, những rủi ro có thể xảy ra… Đồng thời với các con tàu vận chuyển cho từng chuyến hàng, công ty cũng cần xem xét, tìm hiểu các đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu, cỡ hạn tàu, chủ tàu…Trờn cơ sở đú phũng hàng hải sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với những khách hàng mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả những khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của từng vận chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nào và biện pháp cho việc phòng tranh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo các khuyến cáo về phòng và tránh rủi ro tổn thất.
Đối với khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm bao, các doanh nghiệp nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho công ty trước mỗi chuyến hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể các đặc điểm của chuyến theo đó công ty sẽ thông báo lại cho khách hàng về con tàu nờn thuờ cách thức đóng gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm…
Bên cạnh đú cỏc doanh nghiệp bảo hiểm cũng nên tham mưu cho khách hàng về các mặt: điều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, đóng gói, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu.
Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng nhiều, chiếm một khoảng không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu.
Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành xuất nhập khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì công ty cũng nên để khuyến cáo khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong một thời gian nhất định các lô hàng hóa xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp không may xảy ra mất mát, hao hụt, trả lại hoặc xảy ra với điều kiện nhỏ hơn mức ấn định thì cũng sẽ được thưởng một khoản tương xứng. Còn nếu ngược lại thỡ cỏc giá trị tổn thất xảy ra vượt mức cho phép thì càng phải trả cho chủ hàng một số tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao được trách nhiệm của cảng đối với hàng hóa, qua đó có thể giảm được đáng kể tổn thất khi bốc dỡ và xếp hàng.
Tăng cường công tác đề phòng đề phòng hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này.Nếu công tác này được chú trọng và thực hiện thích hợp thì sẽ làm cho bồi thường của doanh nghiệp giảm rõ rệt. Ví dụ như đầu tư vào công nghệ thông tin để từ đó có những thông tin chính xác về thời tiết, khí hậu… từ đó có những biện pháp khắc phục những rủi ro xảy ra và giảm thiểu tổn thất.
2.5. Về công tác bồi thường:
Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hoỏ cỏc thủ tục trong quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế cần phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại bồi thường.
Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất, các doanh nghiệp cần tìm hiểu và xác định rừ cỏc tổn thất. Kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ nên đề ra những chuẩn mực và các điểm chú ý cần thiết trong quá trình giải quyết khiếu nại cho tất cả cán bộ phòng hàng hải của doanh nghiệp bao hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng nên cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung thực cũng như những thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm những thỏa thuận đú thỡ công ty có thể xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường.
2.6. Về công tác cán bộ:
Là một nghiệp vụ rất nhạy cảm với sự biến động của các điều kiện kinh tế xã hội lại liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trên một phạm vi rộng lớn bao gồm nhiều thông lệ, quy định của nhà nước khác nhau nên đòi hỏi các cán bộ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Đặc biệt phải có sự hiểu biết sâu sắc về hoạt động ngoại thương, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa và cú úc tìm tòi, phân tích, dự đoán xu hướng biến động của nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, các kế hoạch phù hợp trong quá trình triển khai nghiệp vụ. Chính vì vậy, vai trò của yếu tố con người là rất quan trọng đòi hỏi trong thời gian tới PJICO cần phải chú trọng công tác đào tạo và các chương trình đào tạo cần thiết để nâng cao hơn nữa trình độ cho cán bộ công nhân viên. Các doanh nghiệp cần phải tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ định kỳ cho cán bộ công nhân viên nhằm không ngừng đổi mới và phát triển phương thức kinh doanh của từng cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng.
Cần thiết ban hành các văn bản quy định cụ thể quyền lợi và trách nhiệm của các bộ phận. Hướng dẫn cỏc phũng phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ nhân viên theo định kỳ hàng tháng, quý hay năm. Có thể chuyên môn hóa nhiệm vụ của cán bộ nhân viên phòng nghiệp vụ về một số mặt hàng hay một nhóm khách hàng nào đó thường xuyên tham gia bảo hiểm tại công ty mình thuận lợi cho việc tiếp cận, tư vấn trao đổi ý kiến với khách hàng trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Đặc biệt công tác giám định hàng hóa bị tổn thất là một công việc rất phức tạp đòi hỏi cán bộ thực hiện phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về nhiều lĩnh vực nên cần phải phân bổ một số cán bộ chuyên trách về công tác này,
Hoàn thiện và ban hành mới các văn bản quy định về chế độ đãi ngộ khen thưởng và kỷ luật đối với cán bộ công nhân viên và các cộng tác viên của của doanh nghiệp mình. Khen thưởng kịp thời thỏa đáng cho những cán bộ công nhân viên có thành tích tốt, hoàn thành nhiệm vụ được giao, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của công ty nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng. Bên cạnh đó cần phải áp dụng các hình thức kỷ luật, công khai phê bình thẳng thắn những cán bộ thiếu nhiệt tình, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc ảnh hưởng đến kết quả chung của công ty. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền và giáo dục cho các cán bộ nhân viên đặt uy tín, trách nhiệm và nhân cách của mình lên hàng đầu tránh hiện tượng móc ngoặc với khách hàng nhằm trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại về kinh tế cũng như uy tín của công ty.
Quan tâm hơn nữa đến đời sống riêng tư của các cán bộ nhân viên, kích thích sự nhiệt tình với công việc và lòng trung thành đối với công ty, tạo ra mối quan hệ gắn bó mật thiết hòa đồng trong nội bộ giữa cấp lãnh đạo với nhân viên và giữa các nhân viên với nhau.
Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, gặp gỡ trao đổi ý kiến kinh nghiệm công tác trong nội bộ công ty. Đặc biệt là các chi nhánh với nhau nhằm tổng kết ra những đặc trưng của khu vực công tác từ đó cú cỏc biện pháp phối hợp chặt chẽ trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung. Đây là một hình thức đơn giản nhưng có hiệu quả thiết thực cần quan tâm thực hiện. Đồng thời phối hợp sắp xếp cử cán bộ đi học, dự hội thảo, học đào tạo từ xa trong và ngoài nước do ngành hay các công ty bảo hiểm khác tổ chức.
2.7. Liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm với các tổ chức ngân hàng.
Việc liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm với các tổ chức ngân hàng là một vấn đề rất quan trọng, nó tác động rất lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp. Ngày nay khi nền kinh tế đã phát triển, việc mua bán, trao đổi không hay dùng tiền mặt làm phương tiện thanh toán phổ biến. Ở các nước phát triển trên thế giới việc thanh toán qua thẻ ngân hàng là một việc hết sức phổ biến. Vì vậy để hội nhập tốt hơn và có nhiều thuận lợi trong việc giao thương với khách hàng nước ngoài thì việc liên kết các doanh nghiệp với ngân hàng là việc rất quan trọng. Nó khiến cho việc thu phí cũng như bồi thường thiệt hại đơn giản hơn rất nhiều trong việc quy đổi tiền nội tệ ra ngoại tệ. Mặt khác nó cũng đơn giản so với người tham gia bảo hiểm.
Bên cạnh đó việc liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau cũng là rất quan trọng, nó giỳp cho các doanh nghiệp phát triển hơn, các doanh nghiệp liên kết với nhau sẽ tạo thành một tập thể vững mạnh có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam, muốn thâu tóm thị trường bảo hiểm Việt Nam. Việc liên kết này sẽ giỳp cỏc doanh nghiệp học hỏi được kinh nghiệm của từng doanh nghiệp, giúp cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển cân đối, bền vững và có lợi thế trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế thế giới.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển rất hay gặp rủi ro tổn thất, đặc biệt là luôn giao thương với nước ngoài. Vì vậy việc liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm với ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng xuyên quốc gia là rất cần thiết.
2.8. Một số vấn đề khác.
Phối hợp các nhà bảo hiểm trong nước xây dựng các hệ thống báo hiệu, tín hiệu, đội cứu nạn trên biển, hệ thống cảng lánh nạn, phao tiêu. Xây dựng và cải thiện hệ thống thông tin liên lạc nhanh chóng, chính xác để có thể theo dõi sát được hành trình của hàng hóa từ đó giảm thiểu tối đa tổn thất có thể xảy ra.
Thực hành tiết kiệm, chống mọi hành vi tiêu cực, giảm thiểu các chi phí bất hợp lý để tăng cường sức mạnh cạnh tranh. Tăng nhanh vốn của công ty để đảm bảo trách nhiệm với khách hàng và tăng mức giữ lại nhằm tăng lợi nhuận.
Là nghiệp vụ nhận trách nhiệm bảo hiểm cho những lô hàng hóa xuất nhập khẩu có giá trị rất lớn lại chịu ảnh hưởng nhiều bởi các tác động khách quan trong khi khả năng tài chính của công ty chưa đủ lớn vì vậy vấn đề tái bảo hiểm là tất yếu. Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ phụ thuộc rất lớn vào công tác tái bảo hiểm nên công ty cần phải có sự quan tâm đúng mức đến công tác này. Việc xác định mức giữ lại,mức nhận tái hay phần nhượng tái phải được tính toán trên cơ sở khoa học, cần đánh giá phân tích khả năng tài chính của doanh nghiệp, dự báo phân tích thống kê về xu hướng biến động của thị trường cũng như việc đánh giá và quản lý rủi ro đối với các đối tượng được bảo hiểm, tránh sự mất ổn định về tài chính, tăng lợi nhuận góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ và hiệu quả của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung.
Tăng cường sự hợp tác và mở rộng mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, mô giới bảo hiểm, các tổ chức giám định trong và ngoài nước cựng cỏc cơ quan ban ngành có liên quan( Hải quan, công an, tòa án, ngân hàng) từ đó tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của họ trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ.
Chú trọng công tác tuyên truyền quảng cáo, xây dựng hình ảnh và phong cách riêng của mỗi doanh nghiệp thông qua hoạt động này trờn cỏc phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu giao dịch,…Từ đó tạo được thương hiệu cho doanh nghiệp của mình và có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
Kiến nghị
Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9/12/2000 là một thành công của các nhà luật pháp. Tiếp theo đó là nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ tài chính thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên các văn bản pháp quy này phải đưa vào thực hiện một cách hoàn chỉnh.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển, khi áp dụng các điều khoản bảo hiểm hàng hóa, các doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo với bộ Tài chính trước khi thực hiện. Đây là một biện pháp để đảm bảo cho thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển của Việt Nam được phát triển ổn định. Biện pháp này cũng giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm có thể cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng dưới sự quản lý của nhà nước- cụ thể là Bộ Tài chính.
Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà trực tiếp là Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính cần xây dựng hành lang biểu phí cụ thể, thống nhất hoặc có biểu phí hướng dẫn có quy định “Trần và sàn”. Các doanh nghiệp bảo hiểm có biểu phớ riờng của mình phải trình cơ quan quản lý nhà nước để được chuẩn y và theo dõi thực hiện.
Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm gốc, môi giới trong nước và nước ngoài đang được phép hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, khuyến khích các hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu cho các công ty bảo hiểm trong nước trước khi tái bảo hiểm ra nước ngoài.
Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm của nhà nước để giỳp cỏc doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Nhanh chóng xây dựng và phổ biến các văn bản hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam để đưa hoạt động kinh doanh bảo hiểm đi vào khuôn khổ. Đó là một yêu cầu tất yếu trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước.
Theo kinh nghiệm mở cửa thị trường bảo hiểm của Thái Lan và Philipin thì sau khi luật kinh doanh bảo hiểm ra đời sắp tới phải đẩy mạnh thị trường bảo hiểm trong nước làm ăn với nước ngoài theo cách thực hiện dần từng bước và chia thành nhiều giai đoạn nhằm giảm bớt sự chèn ép của các công ty bảo hiểm nước ngoài đối với hoạt động bảo hiểm ở trong nước.
Kiến nghị nhà nước xem xét lại chủ trương thu thuế vốn bằng cách trừ từ lãi suất thuế đã làm cho doanh nghiệp bảo hiểm trong nước khó có khả năng tăng nhanh vốn( Theo chủ trương của Chính phủ ) nhằm tăng mức giữ lại và các quỹ dự phòng nghiệp vụ.
Do thuế doanh thu đã thay bằng thuế giá trị gia tăng, vì vậy với thuế suất là 10% đối với các công ty bảo hiểm là khá cao so với các ngành sản xuất kinh doanh khác họ được hưởng một số khoản khấu trừ thuế đầu vào và đầu ra. Nên chăng, nhà nước xem xét giảm thuế xuất nhằm làm tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tăng tái đầu tư.
Kiến nghị nhà nước xem xét mở rộng danh mục đầu tư hơn nữa cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Việt Nam vì vấn đề đầu tư trong kinh doanh bảo hiểm là rất quan trọng, đặc biệt đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển do bảo hiểm cho những đối tượng bảo hiểm có khối lượng lớn, giá trị cao nên phí bảo hiểm là rất lớn. Tổn thất xảy ra không thường xuyên nhưng thiệt hại lại rất nặng nề cần các khoản tiền bồi thường lớn. Vì vậy việc đầu tư phí bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình kinh doanh nghiệp vụ nói riêng và đối với doanh nghiệp bảo hiểm nói chung.
Cùng với việc mở cửa thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn ra rất gay gắt thậm chí nhiều lỳc đó mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp của nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách bền vững và lành mạnh để có đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay rất cần thiết.
Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời, giảm thiểu nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đề trục lợi.
Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước để giỳp cỏc doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải quyết khiếu nại , ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra kiện tụng còn xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu. Vì vậy, tính chính xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và kiểm tra của nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được xét đến.
Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện trong bảo hiểm.
Việc bắt giữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm quá khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiển bồi thường. Do đó, nhà nước cần xem xét bổ xung luật tố tụng trong bảo hiểm và cú cỏc chương trỡn đào tạo kiến thức bảo hiểm cho quan toà.
Tóm lại, Luật kinh doanh bảo hiểm đã được quốc hội thông qua có hiệu lực pháp lý và đây là hành lang pháp lý tốt nhất điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đi vào khuôn khổ, quy tắc chung. Nhằm đưa thị trường bảo hiểm Việt Nam tiến tới hội nhập vào thị trường bảo hiểm khu vực và thị trường bảo hiểm thế giới.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển không phải mới ra đời và được triển khai ở Việt Nam, so với lịch sử và ra đời và phát triển của nó trên thế giới thì đây là nghiệp vụ rất non trẻ trên thị trường bảo hiểm. Song những kết quả mà các doanh nghiệp bảo hiểm đạt được trong thời gian qua đã chứng tỏ nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển đã tìm được chỗ đứng trên thị trường và khẳng định được vai trò quan trọng của nó trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng như trong hoạt động ngoại thương. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội xã hội, trong tương lai chắc chắn rằng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển sẽ ngày càng củng cố được vị thế của mỡnh trờn thị trường bảo hiểm trong nước, ngày càng hoàn thiện hoàn thiện, phát triển sánh ngang với thị trường bảo hiểm khu vực và quốc tế, hòa nhập với quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới. Như vậy việc phát triển dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam là rất quan trọng.
Sau một thời gian thực tập ở Ban Dịch vụ - Viện chiến lược phát triển, với sự nhiệt tình giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị ban dịch vụ, sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Xuõn Hòa, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Với hi vọng góp một phần nhỏ vào việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam, trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu chủ hàng khi tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế bảo hiểm
Nhà xuất bản thống kê 2000 – Trường đại học Kinh tế quốc dân
Giao trình vận tải và bảo hiểm hàng hóa ngoại thương.
Nhà xuất bản giáo dục 1997 – trường Đại học ngoại thương.
Giáo trình nghiệp vụ vận tải và bảo hiểm ngoại thương.
Nhà xuất bản Tài chính, GV: Dương Hữu Hạnh - Cao học Kinh tế-Tài chính TP Hồ Chí Minh.
Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm
Nhà xuất bản giáo dục – 1996, PGS, PTS Nguyễn Cao Thường.
Tạp chí thông tin thị trường Bảo hiểm- Tái bảo hiểm 1999,2000 của VINARE
Tạp chí bảo hiểm 2006, 2007 – Của tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam.
Thời báo kinh tế Việt Nam 2006, 2007, 2008.
Báo cáo kết quả kinh doanh của toàn thị trường bảo hiểm từ 2005 – 2008
Báo cáo tổng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển toàn thị trường của VINARE
Các trang web bảo hiểm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 146.doc