Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện
quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh
Để giải quyết, khắc phục những hạn
chế, bất cập trong quy trình, thủ tục giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, trong thời
gian tới, chúng ta cần nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung các quy định của pháp luật hiện
hành theo hướng:
Trước mắt, cần ban hành một văn bản
để cụ thể hoá những quy định của Luật Ban
hành QPPL năm 2015 về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh. Hình thức văn bản
hợp lý có thể là nghị quyết của Quốc hội
hoặc nghị quyết, pháp lệnh của UBTVQH.
Đối với những quy định về quy trình, thủ tục
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, chúng
tôi xin đề nghị:
Một là, cụ thể hoá quy định UBTVQH
tự mình quyết định giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh theo hướng: từ thực tiễn thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao, nếu có căn cứ cho rằng cần phải giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì
UBTVQH xem xét, quyết định việc giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
Hai là, bổ sung các quy định: (i) về
thời điểm gửi đề nghị, nên ấn định một ngày
trong tháng; (ii) về hình thức, nội dung của
đề nghị, nên quy định hình thức văn bản đề
nghị là Tờ trình và cụ thể hoá yêu cầu về hồ
sơ đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh hợp lệ; (iii) về chủ thể giúp UBTVQH
tiếp nhận, xử lý đề nghị nên giao cho Tổng
thư ký Quốc hội; (iv) về trách nhiệm, thời
hạn trả lời đề nghị của UBTVQH, nên quy
định rõ UBTVQH phải có trách nhiệm trả
lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị hợp lệ.
Ba là, cụ thể hoá quy định về
UBTVQH xem xét, quyết định việc giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo hướng:
(i) phải đưa vào Chương trình kỳ họp, khi
có hồ sơ đề nghị hợp lệ và các tài liệu có liên
quan được chuẩn bị; (ii) UBTVQH phải
biểu quyết và ban hành văn bản để thể hiện
quyết định giải thích hoặc không giải thích.
Hình thức văn bản có thể là Nghị quyết hoặc
Kết luận và phải được gửi cho chủ thể đề
nghị; (iii) bổ sung quy định thời hạn tối đa
mà UBTVQH phải xem xét, quyết định việc
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; (iv) bổ
sung quy định, UBTVQH không xem xét,
quyết định đối với đề nghị giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh mà nội dung đề nghị
đã được quyết định trước đó.
Bốn là, bổ sung quy định về quy tắc
giải thích theo hướng quy định cụ thể về
danh mục những loại văn bản, tài liệu sẽ
được sử dụng làm cơ sở, căn cứ để tiến hành
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đồng
thời, quy định về thứ tự ưu tiên và nguyên
tắc sử dụng các loại văn bản, tài liệu. Cần
lưu ý đến các loại văn bản, tài liệu chứa
đựng chủ trương, đường lối của Đảng.
Về lâu dài, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung các văn bản có liên quan để đổi mới
quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp theo
hướng tách bạch với giải thích luật, pháp
lệnh; qua đó, đề cao vị trí, vai trò của Hiến
pháp, gắn kết, tạo sự đồng bộ cho cơ chế bảo
vệ Hiến pháp
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về quy trình, thủ tục giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Khoản 3 Điều 3 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ VÏÌ QUY TRÒNH, THUÃ TUÅC GIAÃI THÑCH
HIÏËN PHAÁP, LUÊÅT, PHAÁP LÏåNH HIÏåN NAY
Đỗ Tiến Dũng*
* ThS., Trung tâm Nghiên cứu khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 22/12/2016
Biên tập: 07/02/2017
Duyệt bài: 18/02/2017
Article Infomation:
Keywords: Interpretation of
the Constitution, a law or an
ordinance.
Article History:
Received: 22 Dec. 2016
Edited: 07 Feb. 2017
Approved: 18 Feb. 2017
Tóm tắt:
Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH) làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến
pháp, luật, pháp lệnh để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống
nhất pháp luật1, góp phần bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp, tính thượng
tôn của pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể
và người dân. Mặc dù Hiến pháp, pháp luật nước ta đã sớm có những
quy định để điều chỉnh nhưng trên thực tế, số lượng giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh còn rất ít và việc thực hiện cũng còn gặp vướng mắc, khó
khăn. Một trong những nguyên nhân là do quy trình, thủ tục giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh còn hạn chế, bất cập. Bài viết nghiên cứu thực
trạng và đề xuất một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp
luật về quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Abstract:
Interpretation of the Constitution, a law or an ordinance means the clar-
ifications by the Standing Committee of the National Assembly of the
ideas and contents of certain articles, clauses, and points in the Consti-
tution, a law or an ordinance so that they are perceived, implemented
and applied correctly and uniformly. Consequently, it helps protect the
supremacy of the Constitution, the rule of law and rights, legitimate in-
terests of the State, the collectives and the people. Although these provi-
sions were soon regulated, there are still little interpretation cases, and
several obstacles, difficulties in the implementation process. One of the
reasons, the existing processes, and procedures for interpretation of the
Constitution, a law or an ordinance had some restrictions and inadequacy.
This article provides the reviews the situation and recommendations for
further improvements of the provisions of the law on the process and
procedures for interpretation of the Constitution, a law or an ordinance.
1. Quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh theo quy định hiện hành
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2014, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 và Quy chế
làm việc của UBTVQH được ban hành theo
Nghị quyết số 1075/2015/UBTVQH13 ngày
11/12/2015 của UBTVQH (Quy chế 1075)
là những văn bản quy phạm pháp luật
(QPPL) chứa đựng những quy định về quy
trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh2. Một cách khái quát nhất, quy trình,
thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
gồm các giai đoạn: (i) Đề nghị giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh; (ii) Xem xét,
quyết định giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh; (iii) Soạn thảo, thẩm tra dự thảo văn
bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
(iv) Thông qua văn bản giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh; (v) Công bố, công khai văn
bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
So với giai đoạn trước năm 2013, quy
định của pháp luật về quy trình, thủ tục giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh có một số
thay đổi như sau:
- Bổ sung quy định về cơ sở phát sinh
quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh là khi “quy định của Hiến pháp,
luật, pháp lệnh có cách hiểu khác nhau trong
việc thi hành”3;
- Bổ sung thêm 01 chủ thể có quyền
đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
là Kiểm toán Nhà nước4;
- Bổ sung thêm nguyên tắc giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh5;
- Cụ thể hoá hơn một số nội dung
trong việc chuẩn bị, xây dựng dự kiến
Chương trình và tài liệu phục vụ phiên họp
của UBTVQH6;
- Cụ thể hoá hơn quy định Công bố,
công khai văn bản giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh7.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy
trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh
Các quy định trên đã có nhiều cải tiến,
đổi mới, nên từ năm 2013 đến nay, thực tiễn
hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh đã có sự chuyển biến nhất định. Nổi bật
nhất là đã có sự tăng lên về số lượng đề nghị
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Theo
thống kê chưa đầy đủ, đã có 01 đề nghị giải
thích Hiến pháp; 03 đề nghị giải thích luật
được gửi tới UBTVQH. Số liệu trên là ấn
tượng nếu so sánh với thực tiễn các giai
đoạn trước (từ khi có Hiến pháp năm 1959
đến năm 2013, cũng chỉ có khoảng 03 văn
bản được ban hành để giải thích luật)8.
Từ thực tiễn này, có thể nêu lên một
số hạn chế, bất cập trong quy trình, thủ tục
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, đó là:
Một là, số lượng chủ thể được trao
quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh khá nhiều, lại được mở rộng
nhưng trên thực tế, rất ít chủ thể đề nghị và
chỉ tập trung vào hai chủ thể là Chính phủ
và Toà án nhân dân tối cao.
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Lưu ý rằng, giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở nước ta là giải thích chính thức mang tính quy phạm được thực
hiện bởi cơ quan lập pháp nên có sự khác biệt so với giải thích phi chính thức của các nhà khoa học, các luật gia
và với giải thích pháp luật của các thẩm phán để giải quyết từng vụ việc cụ thể ở các nước theo hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ (Anglo – Sacxon).
3 Khoản 1 Điều 158 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
4 Điều 159 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
5 Khoản 1 Điều 158 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
6 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 và Quy chế 1075.
7 Điều 161 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
8 Theo thống kê chưa đầy đủ, gồm: (i) Công văn số 108-HĐNN ngày 19/6/1987 của Hội đồng Nhà nước giải thích
Điều 44 - Án treo của Bộ luật Hình sự năm 1985; (ii) Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 của
UBTVQH về việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật Thương mại; (iii) Nghị quyết số 1053/2006/NQ-
UBTVQH11 ngày 10/11/2006 của UBTVQH về việc giải thích khoản 6 Điều 19 Luật Kiểm toán Nhà nước.
Kế thừa Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2008 - với việc bổ sung thêm 01 chủ
thể - nếu tính đầy đủ, Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2015 đã nâng tổng số “người”
được trao quyền đề nghị UBTVQH giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh lên tới 523.
Tuy nhiên, trong 55 năm qua, số lượng chủ
thể thực hiện quyền và tổng số đề nghị cũng
chỉ giới hạn ở con số hàng chục; đồng thời,
một cách chính thức, chỉ có Chính phủ và
Toà án nhân dân tối cao thực hiện thẩm
quyền này.
Mặc dù đây là vấn đề thuộc pháp luật
về nội dung, không thuộc về quy trình, thủ
tục (pháp luật về hình thức), tuy nhiên, về lý
thuyết, nếu quy trình, thủ tục được cụ thể
hoá và thuận lợi thì số lượng chủ thể thực
hiện và số đề nghị giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh sẽ nhiều hơn; đồng thời, nếu giới
hạn hợp lý số lượng chủ thể được trao quyền
đề nghị thì việc cụ thể hoá quy trình, thủ tục
sẽ dễ hơn, phù hợp với đặc thù riêng của
từng chủ thể.
Hai là, thiếu những quy định cụ thể,
chi tiết trong bước đề nghị UBTVQH giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Trước hết, chưa có quy định về việc
UBTVQH “tự mình quyết định giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh”9. Vì vậy, không
rõ UBTVQH thực hiện quyền này trong
trường hợp nào và như thế nào? Trên thực tế,
chưa lần nào UBTVQH tự mình quyết định
việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Tiếp đó, pháp luật hiện hành cũng chỉ
quy định: khi quy định của Hiến pháp, luật,
pháp lệnh có cách hiểu khác nhau trong việc
thi hành thì các chủ thể được trao quyền đề
nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
có quyền đề nghị UBTVQH giải thích; ngoài
ra, không có quy định cụ thể nào khác về
những vấn đề có liên quan như: (i) thời điểm
gửi đề nghị; (ii) hình thức, nội dung của đề
nghị; (iii) chủ thể giúp UBTVQH tiếp nhận,
xử lý đề nghị; (iv) trách nhiệm, thời hạn trả
lời đề nghị của UBTVQH... Do đó, còn tình
trạng lúng túng, chậm trễ, thiếu thống nhất và
chưa giải quyết dứt điểm trong thực tiễn triển
khai. Ví dụ: có trường hợp sử dụng hình thức
văn bản là Tờ trình10, trường hợp khác lại
dùng Công văn11. Có trường hợp UBTVQH
trả lời12, có trường hợp lại do cơ quan của
Quốc hội trả lời13, có trường hợp lại chưa trả
lời14. Đồng thời, việc xử lý, trả lời các đề nghị
giải thích còn chưa thật hiệu quả dẫn đến
chậm trễ hoặc văn bản qua lại nhiều. Như
việc phải có đến 04 văn bản (gồm 02 Công
văn, 01 Tờ trình của Toà án nhân dân tối cao
và 01 Công văn của Uỷ ban Tư pháp) liên
quan đến đề nghị UBTVQH giải thích Điều
25 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 6,
Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014.
Bên cạnh đó, quy định “có cách hiểu
khác nhau trong việc thi hành” là chung
chung, không biết cách hiểu khác nhau là của
ai, từ đâu, chưa gắn trách nhiệm của chủ thể
đề nghị giải thích trong việc thuyết minh để
đưa ra căn cứ là cần phải đề nghị giải thích.
Ba là, quy định về UBTVQH xem xét,
quyết định việc giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh còn chung chung.
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9 Khoản 2 Điều 159 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015.
10 Tờ trình số 313/TTr-CP kiến nghị UBTVQH giải thích khoản 14 Điều 70 Hiến pháp liên quan đến thẩm quyền của
Quốc hội quyết định phê chuẩn, gia nhập, chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân.
11 Công văn số 206/TANDTC-KHXX ngày 31/10/2014 đề nghị UBTVQH giải thích khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010.
12 Công văn số 810/UBTVQH13-TP, ngày 26/12/2014 trả lời Công văn số 206/TANDTC-KHXX ngày 31/10/2014 đề
nghị giải thích khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
13 Công văn số 3991/UBTP13, ngày 03/6/2016 của Uỷ ban Tư pháp trả lời Công văn số 122/TANDTC-PC ngày
06/5/2016 của Toà án nhân dân tối cao đề nghị giải thích Điều 25 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 6, Điều 7 Luật
Đầu tư năm 2014.
14 Đối với đề nghị của Chính phủ giải thích khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
Xem xét, quyết định việc giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH là
quyền quan trọng thể hiện ý kiến của
UBTVQH trong việc có hay không tiến
hành giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Đây là bước quan trọng trong quy trình, thủ
tục để giải quyết dứt điểm các đề nghị giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Nếu
UBTVQH quyết định không giải thích thì
cũng đồng nghĩa với việc đề nghị giải thích
đã được giải quyết dứt điểm. Nếu UBTVQH
quyết định giải thích thì chuyển sang bước
tiếp theo của quy trình, thủ tục. Quyền này
của UBTVQH đã được quy định từ Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2008 (Điều
85). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy
định cụ thể, nên không rõ có phải đưa việc
xem xét, quyết định việc giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh vào Chương trình
phiên họp UBTVQH hay không? UBTVQH
xem xét, quyết định việc giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh ở một phiên họp riêng
và ra một văn bản riêng hay “tự hiểu” theo
hướng nếu không có trong Chương trình (do
Chủ tịch Quốc hội quyết định15), tức là
không cần giải thích, nếu đã giao cơ quan
soạn thảo, thẩm tra tức là UBTVQH đã
quyết định việc giải thích. Cũng vì nhiều
cách hiểu như vậy, nên từ năm 2008 đến
nay, chưa lần nào UBTVQH biểu quyết, ban
hành văn bản riêng thể hiện quyết định của
tập thể UBTVQH là sẽ giải thích hoặc
không giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Bốn là, còn thiếu quy định về quy tắc
giải thích trong bước UBTVQH tiến hành
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Pháp luật hiện hành chỉ quy định về
nguyên tắc giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh mà chưa có quy định về quy tắc giải
thích. Quy tắc giải thích xác định các
“nguồn” thông tin nào sẽ được sử dụng làm
căn cứ để giải thích (văn bản, tài liệu nào là
“hợp pháp, hợp lệ”) cũng như việc sử dụng
chúng (theo thứ tự ưu tiên) trong quá trình
tiến hành giải thích. Ở Úc, pháp luật cũng
quy định về vấn đề này với một số quy tắc
giải thích theo thứ tự như: (i) phải dựa vào
chính văn bản chứa đựng quy định cần giải
thích gồm: lời nói đầu, các phần, chương,
mục; kể cả tài liệu khi ban hành như thuyết
minh, tờ trình và văn bản có liên quan; (ii)
dựa vào quy định và tinh thần của Hiến pháp
có liên quan đến quy định cần giải thích; (iii)
theo hướng tốt nhất so với mục đích ban
hành và cho đối tượng áp dụng; (iv) dựa vào
quy định của pháp luật, tài liệu pháp lý có
nội dung liên quan nhất đến quy định cần
giải thích mà đã được trình Nghị viện tại
thời điểm xây dựng, ban hành văn bản đó16.
Năm là, chưa có sự phân biệt, tách
bạch quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp
với giải thích luật, pháp lệnh.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2008 chỉ quy định về giải thích luật, pháp
lệnh mà không quy định về giải thích Hiến
pháp17. Điều này cho thấy, các nhà lập pháp
đã có sự phân biệt, trong khi đó, theo Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2013 thì giải
thích Hiến pháp và giải thích luật, pháp lệnh
được tiến hành theo quy trình, thủ tục
chung; không có sự khác biệt về các bước
cũng như yêu cầu, nội dung trong từng
bước, kể cả trong việc quyết định giải thích,
xem xét thông qua nội dung giải thích Hiến
pháp đến công bố, công khai văn bản giải
thích Hiến pháp.
Về lý thuyết, quy định của pháp luật
hiện hành chưa thật sự đề cao vị trí, vai trò
của Hiến pháp. Trên thực tế, đến thời điểm
hiện nay, do chỉ có duy nhất 01 đề nghị giải
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 và Quy chế 1075.
16 Phần 5 - Hệ quy tắc giải thích pháp luật của Luật số 96 về giải thích pháp luật Úc năm 1901 được sửa đổi, bổ sung
đến năm 2013.
17 Khoản 1 Điều 11 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 quy định “Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp,
sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định”.
thích Hiến pháp của Chính phủ theo Tờ trình
số 313/TTr-CP ngày 05/9/2014 để đề nghị
UBTVQH giải thích khoản 14 Điều 70 Hiến
pháp năm 2013 và UBTVQH chưa triển
khai thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến
pháp theo đề nghị này, nên chưa có cơ sở
thực tế để đánh giá về quy trình, thủ tục giải
thích Hiến pháp. Sau hơn hai năm, kể từ
ngày nhận được đề nghị của Chính phủ mà
UBTVQH vẫn chưa xem xét, quyết định
việc giải thích nội dung trên thì đã phần nào
cho thấy sự chậm trễ trong thi hành pháp
luật. Ở góc nhìn khác, những nghiên cứu về
lý thuyết cũng như thực tế pháp luật các
nước trên thế giới đều coi giải thích Hiến
pháp là một nội dung, một vấn đề thuộc cơ
chế bảo vệ hiến pháp nên áp dụng quy trình,
thủ tục riêng, trong đó chứa đựng những quy
định hết sức chặt chẽ, đặc thù so với giải
thích thường luật.
3. Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện
quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh
Để giải quyết, khắc phục những hạn
chế, bất cập trong quy trình, thủ tục giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, trong thời
gian tới, chúng ta cần nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung các quy định của pháp luật hiện
hành theo hướng:
Trước mắt, cần ban hành một văn bản
để cụ thể hoá những quy định của Luật Ban
hành QPPL năm 2015 về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh. Hình thức văn bản
hợp lý có thể là nghị quyết của Quốc hội
hoặc nghị quyết, pháp lệnh của UBTVQH.
Đối với những quy định về quy trình, thủ tục
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, chúng
tôi xin đề nghị:
Một là, cụ thể hoá quy định UBTVQH
tự mình quyết định giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh theo hướng: từ thực tiễn thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao, nếu có căn cứ cho rằng cần phải giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì
UBTVQH xem xét, quyết định việc giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
Hai là, bổ sung các quy định: (i) về
thời điểm gửi đề nghị, nên ấn định một ngày
trong tháng; (ii) về hình thức, nội dung của
đề nghị, nên quy định hình thức văn bản đề
nghị là Tờ trình và cụ thể hoá yêu cầu về hồ
sơ đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh hợp lệ; (iii) về chủ thể giúp UBTVQH
tiếp nhận, xử lý đề nghị nên giao cho Tổng
thư ký Quốc hội; (iv) về trách nhiệm, thời
hạn trả lời đề nghị của UBTVQH, nên quy
định rõ UBTVQH phải có trách nhiệm trả
lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị hợp lệ...
Ba là, cụ thể hoá quy định về
UBTVQH xem xét, quyết định việc giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo hướng:
(i) phải đưa vào Chương trình kỳ họp, khi
có hồ sơ đề nghị hợp lệ và các tài liệu có liên
quan được chuẩn bị; (ii) UBTVQH phải
biểu quyết và ban hành văn bản để thể hiện
quyết định giải thích hoặc không giải thích.
Hình thức văn bản có thể là Nghị quyết hoặc
Kết luận và phải được gửi cho chủ thể đề
nghị; (iii) bổ sung quy định thời hạn tối đa
mà UBTVQH phải xem xét, quyết định việc
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; (iv) bổ
sung quy định, UBTVQH không xem xét,
quyết định đối với đề nghị giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh mà nội dung đề nghị
đã được quyết định trước đó.
Bốn là, bổ sung quy định về quy tắc
giải thích theo hướng quy định cụ thể về
danh mục những loại văn bản, tài liệu sẽ
được sử dụng làm cơ sở, căn cứ để tiến hành
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đồng
thời, quy định về thứ tự ưu tiên và nguyên
tắc sử dụng các loại văn bản, tài liệu. Cần
lưu ý đến các loại văn bản, tài liệu chứa
đựng chủ trương, đường lối của Đảng.
Về lâu dài, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung các văn bản có liên quan để đổi mới
quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp theo
hướng tách bạch với giải thích luật, pháp
lệnh; qua đó, đề cao vị trí, vai trò của Hiến
pháp, gắn kết, tạo sự đồng bộ cho cơ chế bảo
vệ Hiến phápn
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_quy_trinh_thu_tuc_giai_thich_hien_phap_luat.pdf