Thông tin, tài liệu thu thập được bằng
việc áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt có thể
dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án ”
Như vậy, Điều 223 quy định chỉ được
áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt
sau khi đã khởi tố vụ án, nhưng quy định
tại Điều 227 lại quy định thông tin, tài
liệu thu thập được bằng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt, chỉ được sử dụng vào
việc khởi tố vụ án hình sự. Vậy thông tin,
tài liệu quy định tại Điều 227 được thu
thập bằng cách nào? Có phải là vẫn được
thu thập bằng biện pháp tố tụng đặc biệt
trước khi khởi tố vụ án hình sự không?
Và như vậy, chứng cứ đó có bảo đảm tính
hợp pháp theo quy định tại khoản 2 Điều
87 hay không?
Việc quy định tại khoản 2 Điều 227
cũng chưa rõ là các vụ án nào bởi tại
khoản 1 cũng đã quy định rồi thì các vụ
án ở đây là các vụ án nào, có phải chỉ là
các vụ án theo quy định tại Điều 224 hay
không?
Tóm lại, đây là một trong những quy
định mới của BLTTHS năm 2015 tuy chưa
được kiểm nghiệm nhiều về tính hiệu quả
trong thực tiễn áp dụng để giải quyết các
vụ án hình sự để đánh giá mức độ phù
hợp của biện pháp này. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, việc quy định áp dụng các biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt là cần thiết,
song cũng rất cần có hướng dẫn cụ thể,
minh bạch, công khai để các cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng thống nhất trong
giải quyết các vụ án hình sự và tránh việc
áp dụng tràn lan, xâm phạm đến quyền
con người, quyền công dân./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ý kiến về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt quy định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
PHẠM MINH TUYÊN
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới quan trọng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền
công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013, hướng tới xây dựng nền
tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại. Đồng
thời, Bộ luật này cũng phản ánh những
thay đổi lớn trong nhận thức và quan
điểm về pháp luật tố tụng hình sự cho
phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn, đặc
biệt là từ những đòi hỏi của quá trình hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa khi Việt
Nam đã là thành viên của nhiều điều ước
quốc tế đa phương quan trọng như Công
ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng,
Công ước Liên hợp quốc về Chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia...
Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và các tội phạm về tham nhũng nói riêng,
có thể thấy, tình hình tội phạm nói chung
và các tội phạm về tham nhũng, ma túy và
các vụ án đặc biệt nghiêm trọng nói riêng
ngày càng có chiều hướng gia tăng về số
lượng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh
vi, rất khó khăn cho việc điều tra khám
phá. Nếu chúng ta chỉ giữ nguyên các biện
pháp tố tụng điều tra như hiện nay thì tỷ
lệ phát hiện các vụ án về ma túy, tham
nhũng là rất thấp, gây mất lòng tin của
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT
QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
PHẠM MINH TUYÊN*
* Tiến sĩ, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã quy định một chương mới là
“Chương XVI: Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt”. Đây là một nội dung mới và
cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Bài viết phân tích những nhận thức chung đối với
các quy định về “Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt” trong việc phát hiện, xử lý các
tội phạm theo Điều 224 BLTTHS năm 2015.
Từ khóa: Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, tố tụng hình sự.
Ngày nhận bài: 22/11/2019; Ngày biên tập xong: 09/12/2019; Ngày duyệt đăng:
24/12/2019
The Criminal Procedure Code (CPC) in 2015 has regulated a new chapter
named “Chapter XVI: Special methods of investigation and legal proceedings”.
This new regulation has remained controversial opinions; therefore, the article
analyses common awareness about “Special methods of investigation and legal
proceedings” in crimes detection and handling according the Article 224 of 2015
CPC.
Keywords: Special methods of investigation and legal proceedings, criminal
proceedings.
14
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT QUY ĐỊNH...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Chính vì vậy, cần nghiên cứu để áp dụng
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
được quy định trong BLTTHS năm 2015
1. Sự cần thiết phải luật hóa biện
pháp điều tra đặc biệt đối với các tội
phạm về an ninh quốc gia, ma túy, tham
nhũng, khủng bố và rửa tiền
Trong thực tiễn, để phát hiện, điều tra,
xử lý nhóm các tội phạm trên, có những
khó khăn, vướng mắc, bất cập mà Bộ luật
hình sự (BLHS) và các văn bản dưới luật
chưa kịp điều chỉnh và hướng dẫn. Các
đối tượng phạm tội đã lợi dụng triệt để kẽ
hở của pháp luật và những hạn chế trong
công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội
của Nhà nước để thực hiện hành vi phạm
tội rất tinh vi, gây ra hậu quả rất lớn, làm
ảnh hưởng đến uy tín, hiệu quả hoạt động
quản lý của Nhà nước nhưng không dễ
để phát hiện, xử lý. Nếu có phát hiện thì
việc xử lý gặp rất nhiều khó khăn, phức
tạp cả về quy mô, tính chất của vụ án, ý
thức chống đối pháp luật của người phạm
tội và mối quan hệ của họ. Việc áp dụng
pháp luật giữa các Cơ quan tố tụng có
nhiều vụ cũng không được thống nhất,
gây rất nhiều khó khăn trong quá trình xử
lý vụ án trong các nhóm tội này.
Thực tế trong bối cảnh hiện nay, nếu
chỉ có điều tra công khai như BLTTHS
năm 2003 thì hiệu quả điều tra mang lại
không cao, dẫn đến sự hoài nghi trong
nhân dân cho rằng tham nhũng rất nhiều
nhưng phát hiện, xử lý được rất ít, nhất là
việc thu hồi tài sản tham nhũng. Hơn nữa,
đa số các trường hợp phạm tội về an ninh
quốc gia, ma túy, tham nhũng, khủng
bố và rửa tiền đa phần là phạm tội có tổ
chức. Người phạm tội liên kết với nhau
lên kế hoạch cụ thể, có sự bàn bạc, thống
nhất, phân công nhiệm vụ theo từng vị trí
chức vụ mà người phạm tội đảm nhận.
Việc phạm tội có sự chuẩn bị kỹ càng về
phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng
như che dấu tội phạm tinh vi, xảo quyệt.
Thông thường, đối với các tội phạm
về tham nhũng thì người phạm tội thường
là người giữ chức vụ, có trình độ chuyên
môn, nhận thức sâu trong lĩnh vực, công
việc mà mình đảm nhiệm, có điều kiện để
phát sinh tham nhũng và có mối quan hệ
xã hội, nghề nghiệp rộng rãi. Do đó, việc
điều tra, thu thập chứng cứ nếu theo quy
định hiện hành sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
người phạm tội sẽ có nhiều thời gian để
tiêu hủy các chứng cứ quan trọng hoặc
thông đồng với nhau để đối phó với cơ
quan pháp luật.
Để đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về tham nhũng, ma túy và các vụ
án đặc biệt khác đạt được kết quả cao
nhất, đòi hỏi phải có quy định để tạo điều
kiện cho hoạt động điều tra sử dụng biện
pháp đặc biệt được pháp luật thừa nhận,
đồng thời cũng phù hợp với quy định của
một số nước như Pháp, Đức, Nga, Trung
Quốc... Do vậy, BLTTHS năm 2015 dành
01 chương (chương XVI) với 08 điều, từ
Điều 223 đến Điều 228 để quy định biện
pháp này. Việc luật hóa các biện pháp
điều tra đặc biệt trong BLTTHS lần này là
hết sức cần thiết, nhằm cụ thể hóa yêu cầu
của Hiến pháp năm 2013, trong đó có yêu
cầu bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự, song vẫn bảo đảm nhiệm vụ
“...Phát hiện chính xác và xử lý công minh,
15Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
PHẠM MINH TUYÊN
kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội”. Để đáp ứng
được nhiệm vụ của BLTTHS đề ra, cần
phải tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra
chủ động thu thập chứng cứ, xác định đối
tượng tình nghi phạm tội trong quá trình
điều tra các vụ án tham nhũng phức tạp,
có tổ chức, đặc biệt nghiêm trọng.
Công ước của Liên hợp quốc về chống
tham nhũng (UNCAC) cũng đòi hỏi mọi
quốc gia phải áp dụng các biện pháp cần
thiết, đủ mạnh và biện pháp này cũng là
một biện pháp đặc biệt trong việc đấu
tranh phòng, chống các tội phạm tham
nhũng, các tội phạm ma túy và các tội
phạm có tổ chức xuyện quốc gia.
Theo đánh giá của UNCAC và kinh
nghiệm của nhiều quốc gia thành viên,
các biện pháp điều tra đặc biệt được quy
định bao gồm: kiểm soát vận chuyển
(thường áp dụng trong các vụ án ma túy,
tham nhũng, rửa tiền); giám sát, theo dõi
điện tử (theo dõi điện thoại, thư điện tử...);
giám sát, theo dõi đối tượng tình nghi;
hoạt động tình báo, hoạt động “chìm”;
kiểm tra liêm chính; giám sát giao dịch tài
chính và một số biện pháp khác. Qua đánh
giá không đầy đủ của các quốc gia đã áp
dụng biện pháp điều tra đặc biệt, các biện
pháp này rất có hiệu quả trong việc thu
thập thông tin, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng tại một số quốc gia. Việc áp
dụng các biện pháp này cũng giúp xử lý
“sớm” hành vi có dấu hiệu tham nhũng
và giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có
được thông tin và chủ động trong việc áp
dụng các biện pháp phong tỏa, tạm giữ,
kê biên để thu hồi tài sản tham nhũng.
Do vậy, việc luật hóa biện pháp điều tra
đặc biệt trong BLTTHS năm 2015 là hoàn
toàn phù hợp với Công ước về đấu tranh
chống tội phạm tham nhũng, ma túy,
chống tội phạm có tổ chức mà Việt Nam
đã tham gia.1
2. Các nội dung cơ bản của biện pháp
điều tra đặc biệt trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015
2.1. Các biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt
Theo quy định tại Điều 223 BLTTHS
năm 2015 thì các biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt được quy định như sau:
“Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình
điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt:
1. Ghi âm, ghi hình bí mật;
2. Nghe điện thoại bí mật;
3. Thu giữ bí mật dữ liệu điện tử”.
Theo quy định trên, các biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt này chỉ được áp
dụng sau khi đã khởi tố vụ án. Trước khi
khởi tố vụ án, cơ quan điều tra sử dụng các
biện pháp trinh sát thông thường, không
được áp dụng các biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt. Nếu áp dụng là trái pháp
luật và các chứng cứ thu thập được không
có giá trị pháp lý, tức là không được coi là
chứng cứ để dùng vào việc chứng minh
tội phạm.
1 Xem thêm bài viết của Hà Thanh về “Biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng” Thứ Năm, 24/03/2016, 11:15
[GMT+7]
16
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT QUY ĐỊNH...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
2.2. Trường hợp áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 224)
Để tránh việc áp dụng các biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt một cách tùy tiện,
tràn lan, BLTTHS năm 2015 cũng quy
định cụ thể những trường hợp được áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
như sau:
“Có thể áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt đối với các trường hợp:
1. Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội
phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội
khủng bố, tội rửa tiền.
2. Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, không phải bất cứ vụ án nào,
tội phạm nào cũng được áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Chỉ những
vụ án như quy định trên thì mới áp dụng
biện pháp này. Song quy định trên cũng
mang tính tùy nghi chứ không bắt buộc.
Theo chúng tôi, sở dĩ quy định mang tính
tùy nghi cũng là nhằm bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự, tránh
việc lạm dụng hoặc tùy tiện áp dụng các
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt này.
Bởi lẽ, trong một chừng mực nào đó, các
biện pháp trên cũng hạn chế quyền con
người, quyền công dân nên cần rà soát
kỹ, hạn chế áp dụng trong một số trường
hợp. Không được thực hiện các biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt phổ biến vì đây là
vấn đề rất nhạy cảm, kể cả liên quan điều
ước Liên Hợp Quốc và trong luật của mỗi
nước vì quyền bí mật về cá nhân đã được
hiến định.
2.3. Thẩm quyền, trách nhiệm quyết
định và thi hành quyết định áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Theo quy định tại Điều 225 BLTTHS
năm 2015, Thủ trưởng Cơ quan điều tra
cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên tự mình
hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh, cấp quân khu có quyền
ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt.
Trường hợp vụ án đang được thụ lý,
điều tra ở cấp huyện, cấp khu vực thì Thủ
trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, cấp
khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan
điều tra cấp tỉnh, cấp quân khu xem xét,
quyết định áp dụng.
Quyết định áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt phải ghi rõ thông tin
cần thiết về đối tượng bị áp dụng, tên biện
pháp được áp dụng, thời hạn, địa điểm áp
dụng, cơ quan tiến hành biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt và các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật này.
Quyết định trên phải được Viện
trưởng VKSND cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Thủ trưởng Cơ quan điều tra
đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm
kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp
này, kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ
nếu xét thấy không còn cần thiết.
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền và
người thi hành quyết định áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ
bí mật.
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông
báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng
Viện kiểm sát đã phê chuẩn.
17Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
PHẠM MINH TUYÊN
2.4. Thời hạn áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt
Theo quy định tại Điều 226 BLTTHS
năm 2015, thời hạn áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt là không quá 02
tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm
sát phê chuẩn, trường hợp phức tạp có
thể gia hạn nhưng không quá thời hạn
điều tra theo quy định của Bộ luật này.
Tuy nhiên, luật không quy định chính xác
thời hạn được gia hạn thêm là bao nhiêu
mà chỉ giới hạn là không quá thời hạn
điều tra đã được quy định trong BLTTHS
tương ứng với từng loại tội phạm.
2.5. Sử dụng thông tin, tài liệu thu
thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt
Theo quy định tại Điều 227 BLTTHS
năm 2015, thông tin, tài liệu thu thập được
bằng việc áp dụng các biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự; thông tin, tài liệu không liên quan đến
vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Không được
sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu
thập được vào mục đích khác. Thông tin,
tài liệu thu thập được bằng việc áp dụng
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có
thể dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án.
2.6. Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt
Theo quy định tại Điều 228 BLTTHS
năm 2015, căn cứ để hủy bỏ việc áp dụng
các biện pháp này chủ yếu là không còn lý
do, không còn cần thiết để áp dụng. Viện
trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết
định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt phải kịp thời hủy bỏ quyết định
đó trong những trường hợp Luật định cụ
thể như:
- Có đề nghị bằng văn bản của Thủ
trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền;
- Có vi phạm trong quá trình áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;
- Không cần thiết tiếp tục áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
3. Một số quan điểm khác nhau về áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
và những vướng mắc, bất cập
3.1. Những quan điểm khác nhau về áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Vấn đề quy định biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt trong BLTTHS là vấn đề mới
và là cần thiết như đã phân tích ở trên,
tuy nhiên vấn đề này cũng có nhiều quan
điểm đồng tình và không đồng tình.
Quan điểm đồng tình cho rằng, trong
thực tiễn điều tra, cơ quan điều tra cũng
đã sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ
trong quá trình điều tra một số tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án có tổ
chức, các vụ án phức tạp. Mặt khác, cần
luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt để
bảo đảm yêu cầu của Hiến pháp là “Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật”, đồng thời
tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Quy
định biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
sẽ giúp tháo gỡ những vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm, cũng như thu thập chứng cứ đầy
đủ và có giá trị pháp lý trực tiếp chứng
minh tội phạm.
Quan điểm không đồng tình e ngại
18
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT QUY ĐỊNH...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
việc lạm dụng biện pháp điều tra đặc
biệt xâm phạm quyền con người, quyền
công dân, tạo ra mối lo ngại trong cuộc
sống, không yên tâm của người dân. Như
quan điểm của Thượng tướng Lê Quý
Vương - Thứ trưởng Bộ Công an nêu rõ,
quan điểm không đồng tình có 1 chương
riêng về biện pháp điều tra đặc biệt trong
BLTTHS vì bản thân ông cũng chưa hiểu
khái niệm này hàm ý chỉ biện pháp gì.
Theo ông Vương thì:“Việc áp dụng biện
pháp điều tra đặc biệt thì chưa hiểu rõ đặc biệt
cái gì, vì nó liên quan đến vấn đề chứng cứ
và nguồn chứng cứ. Chứng cứ có 2 cái liên
quan đặc biệt là dữ liệu điện tử và tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được. Đọc được thì
chúng ta thu được rồi, ở đây còn nghe được,
ý là nghe trộm, nhưng chỉ phát huy hiệu quả
trong giai đoạn trinh sát. Vấn đề thư tín, giấy
tờ, tài sản trong tố tụng được quyền khám
xét, thu giữ theo quyết định phê chuẩn là biện
pháp thu thập tài liệu. Cần phân biệt 2 nội
dung biện pháp điều tra tố tụng và biện pháp
trinh sát của lực lượng công an. Mà nói về
trinh sát, đây là hoạt động bí mật nên luật hóa
cũng không để làm gì, luật hóa cũng khó vì
vướng yêu cầu đảm bảo bí mật. Còn nói các
biện pháp này là giống biện pháp trinh sát thì
tôi chưa hiểu nó đặc biệt thế nào vì chúng tôi
vẫn làm lâu nay. Chúng tôi chỉ phân biệt 2
loại chứng cứ là chứng cứ điện tử và chứng
cứ nghe được, nhìn được. Và những thông tin
kiểu nghe trộm, lén ghi hình cũng chỉ phát
huy tác dụng trong hoạt động trinh sát chứ
khi đã khởi tố vụ án, bắt tạm giam bị can, bị
cáo thì khi đó ở trại rồi, có được sử dụng điện
thoại đâu mà tổ chức nghe trộm?”2
2 Theo Ngọc Thành/VOV.VN
Nhiều quan điểm cho rằng, phải
có hướng dẫn thật cụ thể đối tượng và
trường hợp nào, bối cảnh nào cần áp dụng
biện pháp điều tra đặc biệt, nếu áp dụng
tràn lan thì người dân sẽ bị xâm phạm
quyền tự do riêng tư. Luật cần quy định
ngắn gọn nên trong quá trình triển khai,
cơ quan có trách nhiệm phải hướng dẫn
cụ thể ngay vì đây là chế định mới. Viện
kiểm sát phải tăng cường kiểm sát việc áp
dụng những biện pháp này; Tòa án khi xét
xử cũng vậy, cần xem xét các chứng cứ có
trong vụ án có được thu thập theo đúng
quy định hay không? Tuy nhiên, vai trò
của người trực tiếp làm vẫn là quan trọng
nhất. Các Điều tra viên, Kiểm sát viên căn
cứ trường hợp cụ thể để có đề xuất áp
dụng và người có trách nhiệm phải xem
xét, xử lý vấn đề này.
Việc thu thập chứng cứ qua các
biện pháp như ghi âm, ghi hình bí mật,
nghe điện thoại bí mật, thu thập bí mật
dữ liệu điện tử... trong nhiều trường hợp
là nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh
tội phạm trực tiếp. Trước đây, các biện
pháp này không quy định trong luật thì
phải tiến hành thủ tục chuyển hóa chứng
cứ. Trong nhiều trường hợp không thể
chuyển hóa được, đồng nghĩa với việc từ
chối một nguồn chứng cứ hết sức thuyết
phục, thậm chí người phạm tội phải tâm
phục, khẩu phục ngay. Kinh nghiệm quốc
tế cho thấy, đây là nguồn chứng cứ rất
quý để chứng minh tội phạm.
3.2. Những điểm còn vướng mắc, bất
cập trong quy định về biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt
Thứ nhất, như quan điểm của Thứ
19Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
PHẠM MINH TUYÊN
trưởng Bộ Công an Lê Quý Vương đã phát
biểu về quy định tại Điều 223, thì các biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được áp
dụng sau khi khởi tố vụ án! Quy định như
vậy có hợp lý không? Bởi lẽ, để khởi tố
vụ án thì cần phải có các chứng cứ, chứng
minh đã có hành vi phạm tội xảy ra. Đối
với các vụ án về tham nhũng, ma túy, an
ninh quốc gia, việc chứng minh hành vi
phạm tội để khởi tố vụ án hình sự không
hề đơn giản, đôi khi phải sử dụng các
biện pháp nghiệp vụ, trong đó không thể
không có các biện pháp ghi âm, ghi hình,
nghe lén điện thoại và thu thập dữ liệu
điện tử. Nếu khởi tố vụ án rồi mới được
áp dụng các biện pháp này thì liệu có đạt
được kết quả như mong muốn không, hay
vô hình chung đã tạo điều kiện để người
phạm tội tiêu hủy chứng cứ, đặc biệt là dữ
liệu điện tử. Trong trường hợp đã khởi tố
vụ án và khởi tố bị can cùng lúc thì không
cần phải áp dụng các biện pháp đặc biệt
này, kể cả người phạm tội bị bắt tạm giam
hay tại ngoại cũng khó mà áp dụng được
những biện pháp này.
Thứ hai, quy định tại Điều 223 lại mâu
thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 227
về sử dụng thông tin, tài liệu thu thập
được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt. Tại khoản 1 Điều 227 có quy định:
“1. Thông tin, tài liệu thu thập được bằng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử
dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự; thông tin, tài liệu không liên
quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời.
Nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu,
chứng cứ thu thập được vào mục đích khác.
2. Thông tin, tài liệu thu thập được bằng
việc áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt có thể
dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án”
Như vậy, Điều 223 quy định chỉ được
áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt
sau khi đã khởi tố vụ án, nhưng quy định
tại Điều 227 lại quy định thông tin, tài
liệu thu thập được bằng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt, chỉ được sử dụng vào
việc khởi tố vụ án hình sự. Vậy thông tin,
tài liệu quy định tại Điều 227 được thu
thập bằng cách nào? Có phải là vẫn được
thu thập bằng biện pháp tố tụng đặc biệt
trước khi khởi tố vụ án hình sự không?
Và như vậy, chứng cứ đó có bảo đảm tính
hợp pháp theo quy định tại khoản 2 Điều
87 hay không?
Việc quy định tại khoản 2 Điều 227
cũng chưa rõ là các vụ án nào bởi tại
khoản 1 cũng đã quy định rồi thì các vụ
án ở đây là các vụ án nào, có phải chỉ là
các vụ án theo quy định tại Điều 224 hay
không?
Tóm lại, đây là một trong những quy
định mới của BLTTHS năm 2015 tuy chưa
được kiểm nghiệm nhiều về tính hiệu quả
trong thực tiễn áp dụng để giải quyết các
vụ án hình sự để đánh giá mức độ phù
hợp của biện pháp này. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, việc quy định áp dụng các biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt là cần thiết,
song cũng rất cần có hướng dẫn cụ thể,
minh bạch, công khai để các cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng thống nhất trong
giải quyết các vụ án hình sự và tránh việc
áp dụng tràn lan, xâm phạm đến quyền
con người, quyền công dân./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_y_kien_ve_bien_phap_dieu_tra_to_tung_dac_biet_quy_din.pdf