Cư trú và đi lại. Cần có quy định trao
thẩm quyền cho chính quyền đặc khu xem
xét và cấp thị thực lưu trú cho người nước
ngoài đến sinh sống và làm việc tại đặc khu.
Luật có thể quy định khung pháp lý về điều
7 Không nên giới hạn phạm vi áp dụng chế độ thuế thu nhập ưu đãi trong thời gian đến năm 2030 như trong Dự thảo Luật
(Điều 23), bởi điều đó sẽ có tác dụng làm cho đặc khu giảm bới sức hút theo thời gian, đối với người bên ngoài.
kiện xác định quốc gia, vùng lãnh thổ mà
công dân của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
đó được cấp hoặc miễn thị thực. Dựa vào
quy định chung ấy, chính quyền đặc khu ra
quy định cụ thể về các quốc gia, vùng lãnh
thổ có công dân được hưởng chế độ đặc biệt
về cấp hoặc miễn thị thực.
Chuyển giao công nghệ. Trong điều
kiện đất nước đang phát triển, thì đặc khu
HC-KT phải đảm nhận tốt vai trò đầu mối
tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ nước ngoài
để góp phần hiện đại hoá nền sản xuất nội
địa. Chính quyền đặc khu cần được trao
quyền hạn rộng rãi trong việc quy định tiêu
chuẩn kỹ thuật của công nghệ được ưu tiên
chuyển giao để tiến hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong đặc khu.
Tuy nhiên, cần xây dựng cơ chế giám
sát, kiểm soát để bảo đảm việc chuyển giao
công nghệ vào đặc khu đạt được mục tiêu
chung về hiện đại hoá nền sản xuất của quốc
gia. Một mặt, chính quyền đặc khu được
quyền quyết định phê duyệt các dự án đầu tư
có tác dụng chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam qua lãnh thổ đặc khu;
mặt khác, chính quyền đặc khu chịu sự giám
sát của chính quyền cấp trên, thông qua các
cơ quan chức năng có thẩm quyền về chất
lượng của công nghệ được chuyển giao. Cần
có các quy định chế tài thật mạnh và dứt
khoát, có tính răn đe cao nhằm ngăn chặn,
xử lý việc lạm dụng các quyền rộng rãi được
thừa nhận để tiếp nhận công nghệ lạc hậu và
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ý kiến về tổ chức chính quyền và pháp luật áp dụng tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Ngọc Điện*
* PGS. TS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại (Pháp).
Tóm tắt:
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu hành chính -
kinh tế) dự kiến được triển khai ở Việt Nam nhằm thu hút đầu
tư theo một quy chế đặc biệt mang tính ưu đãi đối với doanh
nghiệp. Đây được xem là giải pháp tốt cho bài toán phát triển
ở những vùng đất đặc thù. Nhưng nhiều vấn đề sẽ được đặt ra
trong khuôn khổ xây dựng khung pháp lý cho một không gian
như thế. Hai vấn đề nổi cộm trong số đó, đồng thời cũng là các
vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các đại biểu Quốc hội
trong quá trình thảo luận tại kỳ họp vừa qua, là: tổ chức chính
quyền của đặc khu hành chính - kinh tế được xây dựng như thế
nào? Việc xây dựng và áp dụng pháp luật trên phạm vi đặc khu
được thực hiện ra sao?
Abstract:
Special administrative-economic zone is expected to
be developed in Vietnam for the purpose of attracting
investment according to a special regulation considered
adavantageous to businesses. That is regarded as good
solution of the problem of development of particular
areas and by the way helpful for the reduction of socio-
development gap between different corners of the country.
Many issues must be resolved for the building of legal
framework of such special zones. Two of these issues,
which are also those interesting to the National Assembly’s
deputies the most in the course of debates during the recent
session, are as follows: how to set up the government of
the special administrative-economic zone? How to set up
regulation to be applied in this zone?
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đặc khu hành chính - kinh tế, chính
quyền tự quản, chính quyền uỷ nhiệm, luật
đặc biệt
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 10/01/2018
Biên tập: 18/01/2018
Duyệt bài: 26/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Special administrative-
economic zone, self-government, delegate
government, special regulations.
Article History:
Received: 10 Jan. 2018
Edited: 18 Jan. 2018
Approved: 26 Jan. 2018
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN VÀ PHÁP LUẬT ÁP DỤNG
TẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 3+4 (355+356) T02/2018
1. Tổ chức chính quyền đặc khu hành
chính - kinh tế
1.1 Các mô hình
Việc thành lập đặc khu hành chính -
kinh tế (HC-KT) đặc biệt, nhắm đến mục
tiêu chủ yếu trước mắt là thu hút nhà đầu
tư nhằm xây dựng một không gian kinh tế
năng động. Trong trường hợp đất nước đang
phát triển, thì nhà đầu tư được trông đợi
chủ yếu đến từ nước ngoài. Về phần mình,
nhà đầu tư, dù trong nước hay nước ngoài,
mong muốn nơi mình đến đầu tư là một môi
trường thông thoáng và an toàn: thủ tục đầu
tư đơn giản và nhanh; quản lý đầu tư gọn,
nhẹ; chính sách thuế ưu đãi; cơ chế giải
quyết tranh chấp minh bạch, công bằng và
có hiệu quả.
Trong dài hạn, đặc khu HC-KT được
sử dụng như tác nhân đổi mới, thông qua sự
lan toả hiệu ứng của các thành tựu HC-KT
từ đó ra đến cả quốc gia. Để sự lan toả diễn
ra một cách hợp lý và đem lại hiệu quả tốt
nhất, cần có sự kết nối giữa chính quyền của
đặc khu với toàn bộ hệ thống chính quyền
của quốc gia với tư cách là người quản trị,
điều hoà, phối hợp các hoạt động kinh tế ở
tầm vĩ mô.
Về mặt tổ chức bộ máy chính quyền,
có hai cách để đạt được mục tiêu đó: hoặc
xây dựng một chính quyền tự quản theo mô
hình thực thể pháp lý công pháp độc lập,
hoặc xây dựng một chính quyền uỷ nhiệm
với những quyền hạn đặc biệt cho phép giải
quyết nhanh gọn các vấn đề đặt ra trong
quản lý.
Chính quyền tự quản. Chính quyền
tự quản được hiểu là chính quyền được trao
quyền tự trị cao theo kiểu một nhà nước thu
nhỏ. Toàn bộ chính quyền là một thực thể
1 Trong trường hợp đặc khu được thành lập ở một vùng đất mới, nghĩa là gần như chưa có người ở, thì cư dân đến đây
thường được chọn lọc theo một cơ chế chặt chẽ, cho phép xây dựng ngay từ đầu một cộng đồng dân cư địa phương chất
lượng cao. Kinh nghiệm của quần đảo Cayman thuộc Anh là một ví dụ: hạt nhân của đặc khu là các doanh nghiệp; người
muốn di dân đến đây phải được đề nghị việc làm bởi một doanh nghiệp toạ lạc trên đặc khu: https://en.wikipedia.org/
wiki/Demographics_of_the_Cayman_Islands (truy cập ngày 07/01/2015).
chính trị được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền với đầy đủ ba thiết chế - lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước
đích thực theo nghĩa đầy đủ và chính quyền
tự trị đặc khu là chính quyền tự trị không
có quân đội riêng và không có quyền riêng
về ngoại giao. Điều này hợp lý, bởi sự tự
trị của đặc khu HC-KT được xây dựng chỉ
nhằm mục đích tạo không gian thông thoáng
để thu hút đầu tư. Nói cách khác, tính tự trị
của đặc khu được thiết lập và hoàn thiện
để phục vụ chủ yếu cho sự hình thành và
phát triển một “quốc gia kinh tế” (economic
nation) mạnh và thịnh vượng. Quốc gia kinh
tế là một thực thể độc lập về mặt kinh tế,
có khung pháp lý đặc thù chi phối đời sống
kinh tế; nhưng quốc gia kinh tế không có
chủ quyền riêng mà vẫn là một phần không
tách rời của quốc gia mẹ được chính quyền
trung ương điều hành.
Chính quyền tự quản được thiết lập ở
nhiều đặc khu nổi tiếng như Hong Kong và
Macau của Trung Quốc, quần đảo Cayman
và British Virgin Island của Anh, Khu tự
do JAFZA của các Tiểu Vương quốc Ả rập
Thống nhất (UAE), tỉnh tự trị Jeju của Hàn
Quốc, Đặc điểm chung của các vùng đất
này là sự đồng đều về nhận thức chính trị
ở một trình độ nhất định của cư dân địa
phương1. Điều này cho phép cư dân địa
phương tham gia vào đời sống chính trị của
đặc khu với đầy đủ ý thức trách nhiệm công
dân, đặc biệt là trách nhiệm góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển của đặc khu. Sự
chín chắn của đại đa số cư dân về phương
diện nhận thức chính trị là điều kiện tối cần
thiết để xây dựng các thiết chế quyền lực
mạnh thông qua việc lựa chọn các ứng viên
bằng lá phiếu bầu cử.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Chính quyền uỷ nhiệm. Chính quyền
uỷ nhiệm tại đặc khu được xem là tai mắt,
đúng hơn là hoá thân của chính quyền cấp
trên tại địa bàn, là người thực hiện chức
năng quản lý của chính quyền cấp trên tại
địa bàn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
đặc thù được xác định2. Mô hình này phù
hợp đối với những vùng đất có vị trí địa lý
thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nhưng còn
kém phát triển về mặt xã hội, đặc biệt là mặt
bằng dân trí chưa cao3. Do đặc điểm về trình
độ phát triển xã hội, việc trao cho cư dân địa
phương các quyền tham gia thiết lập chính
quyền tự quản thông qua lá phiếu bầu cử có
thể dẫn đến rủi ro4. Bởi vậy, việc thiết lập
chính quyền ở những vùng đất này nên do
chính quyền cấp trên đảm nhận.
Vì không do cư dân địa phương tạo
ra bằng lá phiếu bầu, chính quyền uỷ nhiệm
không có thiết chế quyết nghị giống như
cơ quan lập pháp, mà chỉ có hệ thống hành
chính quản lý và hệ thống toà án. Hệ thống
hành chính quản lý chủ yếu bao gồm các
cơ quan cung ứng dịch vụ công cho doanh
nghiệp, quản lý dịch vụ hạ tầng phục vụ sản
xuất - kinh doanh và thuế quan.
Chính quyền địa phương uỷ nhiệm
được trao các quyền rộng rãi trong khi cư
dân địa phương không có công cụ chính trị
cho phép giám sát trực tiếp công việc của họ.
Một cách hợp lý, phải đặt một cơ chế giám
sát chặt chẽ của chính quyền cấp trên đối với
chính quyền uỷ nhiệm ở các đặc khu. Chính
quyền uỷ nhiệm phải giải trình trước chính
quyền cấp trên về các công việc của mình.
Các vị trí trong chính quyền uỷ nhiệm có
2 Các đặc khu kinh tế được thành lập ở Trung Quốc như Thẩm Quyến, Sán Đầu ở Trung Quốc là ví dụ điển hình.
3 Sự tồn tại của các vùng đất kém phát triển được cho là điều tất nhiên theo một lý thuyết, gọi là thuyết tăng trưởng theo
cực (growth poles) được François Perroux, một nhà kinh tế học người Pháp, đưa ra vào những năm 1950 (xem: Perroux,
François (1955): Note sur la notion de poles croissance. Économie Appliquée, 1 & 2:307- 320 (bản dịch tiếng Anh của
Mette Monsted (1974). Tư tưởng chủ đạo là trên lãnh thổ quốc gia có những vùng, miển mà do đặc điểm riêng về địa
lý tự nhiên, nhân văn, xã hội, có trình độ phát triển không giống nhau, trong đó, vùng, miền có điều kiện phát triển
tốt nhất được xác định là các cực tăng trưởng. Đối với quốc gia, cực tăng trưởng đóng vai trò chất kích thích, động lực
thúc đẩy sự phát triển chung.
4 Rủi ro lớn nhất là sự lựa chọn sai lầm các ứng viên cho các vị trí nắm giữ quyền lực dẫn đến sự ra đời của một chính
quyền kém năng lực và tham nhũng.
thể bị xử lý kỷ luật trong trường hợp không
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đặc biệt là
không làm tròn nhiệm vụ xây dựng, duy trì
không gian cởi mở, thông thoáng, thuận lợi,
an toàn cho hoạt động đầu tư.
1.2 Sự lựa chọn của Việt Nam
Đề xuất mô hình chính quyền uỷ
nhiệm. Dự kiến sẽ có 3 đặc khu HC-KT được
thành lập ở Việt Nam, là Vân Đồn (Quảng
Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hoà) và Phú
Quốc (Kiên Giang). Cả ba đều là những đơn
vị hành chính đang vận hành với các thiết
chế chính quyền phù hợp với các quy định
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
nghĩa là có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân. Về mặt lý thuyết, có thể “nâng
cấp” các thiết chế này để trở thành các yếu
tố cấu thành tổ chức chính quyền đặc khu
HC-KT theo mô hình chính quyền tự quản.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, kinh
nghiệm các nước cho thấy, mô hình chính
quyền tự quản chỉ tỏ ra hiệu quả trong không
gian xã hội thích ứng. Một trong những yếu
tố đặc trưng của không gian xã hội này là sự
đồng đều về nhận thức chính trị của cư dân
địa phương ở một trình độ nhất định. Điều đó
cho phép người dân tham gia tích cực và có
trách nhiệm vào việc kiến tạo hệ thống chính
trị của đặc khu cũng như cho phép triển khai
có hiệu quả sự giám sát của người dân đối
với hoạt động của chính quyền nhằm ngăn
chặn, xử lý sự lạm quyền.
Ở nước ta, các nơi dự kiến xây dựng
đặc khu HC-KT, mặt bằng dân trí không
nổi trội so với các nơi khác trong nước. Tất
nhiên, các cư dân đặc khu mang quốc tịch
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 3+4 (355+356) T02/2018
Việt Nam sống trên đặc khu vẫn được hưởng
đầy đủ các quyền chính trị được thừa nhận
cho công dân Việt Nam. Nhưng, trong điều
kiện phải bảo đảm việc thực thi quyền chính
trị trên địa phận đặc khu không gây phương
hại đến an ninh quốc gia, thì không thể trao
cho cư dân đặc khu những quyền và nghĩa
vụ mà bản thân chủ thể chưa thực sự có sự
chuẩn bị tốt để tiếp nhận và sử dụng. Nói
cách khác, trong hoàn cảnh, điều kiện hiện
tại của đất nước, không thể xây dựng khái
niệm cư dân đặc khu HC-KT với những
quyền và nghĩa vụ chính trị đặc thù mà cư
dân trên phần còn lại của lãnh thổ quốc gia
không có.
Nói tóm lại, mô hình chính quyền tốt
nhất cho đặc khu HC-KT ở Việt Nam chỉ có
thể là mô hình chính quyền uỷ nhiệm.
Đề xuất cấp chính quyền đặc khu:
chính quyền trực thuộc trung ương. Vấn đề
cấp chính quyền đặc khu phải được đặt và
giải quyết trong khuôn khổ hệ thống luật
đang vận hành. Tư tưởng chủ đạo là bảo
đảm việc trao cho chính quyền đặc khu các
quyền hạn cần thiết để thực hiện các mục
tiêu được xác định, nhưng không làm xáo
trộn nếp nếp vận hành của hệ thống chính
trị, pháp lý chung. Với tư tưởng đó, một
khi xác định rằng chính quyền đặc khu cần
có những quyền hạn rộng rãi để thực hiện
nhiệm vụ của mình, cấp chính quyền trao
uỷ nhiệm tất nhiên cũng phải là cấp có thẩm
quyền rộng rãi.
Trong khuôn khổ luật thực định, chính
quyền uỷ nhiệm đặc khu nên được đặt dưới
thẩm quyền giám sát của chính quyền trung
ương. Lý do là, chính quyền cấp tỉnh nơi dự
kiến có đặc khu chỉ được trao thẩm quyền
hạn chế trong một số lĩnh vực quan trọng,
trong khi chính quyền đặc khu cần có thẩm
quyền cao hơn để thực hiện các mục tiêu của
đặc khu.
Nói rõ hơn, các đặc khu HC-KT nên
được xác định là các đơn vị hành chính lãnh
thổ ngang với cấp tỉnh.
2. Xây dựng và áp dụng pháp luật
Luật quốc gia và luật đặc biệt. Là
một phần của lãnh thổ quốc gia, đặc khu
HC-KT, trên nguyên tắc, cũng chịu sự chi
phối của luật áp dụng chung trên phạm vi
lãnh thổ. Có những quy định của luật có thể
được áp dụng cho đặc khu cũng như cho các
phần còn lại của lãnh thổ quốc gia mà không
gây khó khăn, bởi vậy, không cần phải ra
quy định riêng cho đặc khu. Ví dụ điển hình
là các quy định về hộ tịch, về nghĩa vụ và
hợp đồng, về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng,....
Trái lại, đối với những vấn đề liên
quan đến mục đích tồn tại của đặc khu, thì
các giải pháp phải được xây dựng trên cơ sở
pháp lý đặc thù.
Một trong những điều bận tâm hàng
đầu của nhà đầu tư là sự minh bạch của môi
trường pháp lý nơi hoạt động đầu tư được
thực hiện. Bỏ một số tiền lớn vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư mong muốn
có sự bảo đảm pháp lý về quyền sở hữu đối
với các tài sản được tạo lập trong khuôn khổ
các hoạt động ấy, bao gồm quyền sở hữu đối
với lợi tức thu được một cách hợp pháp.
Quyền sở hữu tư nhân đã được hiến
định như là một phần của quyền con người
và được pháp luật bảo hộ (Điều 32 Hiến
pháp). Cũng theo Hiến pháp, tài sản hợp
pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và
không bị quốc hữu hoá (Điều 51 khoản 3).
Hiến pháp cũng quy định trong trường hợp
thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp,
phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (Điều
32 khoản 3). Cần có những quy định cụ thể
hoá việc áp dụng các quy định trên của Hiến
pháp trong phạm vi đặc khu để tạo sự yên
tâm cho nhà đầu tư và đặc biệt là để loại trừ
nguy cơ lạm dụng quyền của nhà chức trách
trong việc trưng dụng, trưng mua tài sản.
Những quy định như thế nên được xây dựng
như một phần của luật về đặc khu HC-KT.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Áp dụng chuẩn mực và tập quán
quốc tế. Đặc khu được hiểu là vùng đất tự
do giao thương, là nơi cho phép áp dụng trực
tiếp các chuẩn mực quốc tế và tập quán quốc
tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
trong giao lưu dân sự giữa các chủ thể và cả
trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp
pháp lý giữa các chủ thể.
Vì vậy, cần có quy định thừa nhận
quyền của các chủ thể giao dịch trong khuôn
khổ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại đặc
khu được thoả thuận áp dụng các chuẩn mực
và tập quán quốc tế thay vì các quy định
trong luật áp dụng chung trên phạm vi lãnh
thổ quốc gia5. Tất nhiên, các chuẩn mực, tập
quán được áp dụng phải không được trái
với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam, cũng không được trái với đạo đức
xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần có các quy
định thừa nhận quyền thoả thuận ấy cùng
với những điều kiện chặt chẽ kèm theo.
Quyền lập quy của chính quyền đặc
khu. Là chính quyền uỷ nhiệm, chính quyền
đặc khu, trên nguyên tắc, không thể có nhiều
quyền hơn cấp uỷ nhiệm cho mình - là cấp
Chính phủ. Trong điều kiện Chính phủ phải
tuân thủ luật do Quốc hội ban hành, Chính
phủ không thể ra những quy định mang tính
ngoại lệ trái với các quy định của luật. Trong
khi đó, chính quyền đặc khu cần được trao
quyền hạn để ra các quy định mang tính ưu
đãi, khuyến khích đối với nhà đầu tư so với
các quy định trong luật chung được áp dụng
trên phần còn lại của lãnh thổ quốc gia.
Bởi vậy, để quyền lập quy của chính
quyền đặc khu cho phép chính quyền ra
những quy định vốn thuộc thẩm quyền của
cơ quan lập pháp, cần ghi nhận quyền này
trong một văn bản lập pháp. Nói cách khác,
5 Nên thừa nhận quyền này cho tất cả các chủ thể, không phân biệt quốc tịch, và trong mọi trường hợp giao dịch, chứ
không nên chỉ giới hạn việc thừa nhận cho các giao dịch có yếu tố nước ngoài như tại Điều 6, Điều 7 của Dự thảo Luật
đơn vị HC-KT đặc biệt (dự thảo Luật). Đã gọi là đặc khu, thì tính đặc biệt của không gian pháp lý phải được nhìn nhận
một cách phổ quát trên phạm vi lãnh thổ: mọi chủ thể sống trên đó đều được hưởng quy chế đặc biệt như nhau, không
phân biệt quốc tịch, gốc gác xuất xứ.
6 Thời hạn xét duyệt hồ sơ xin đầu tư nên được quy định hợp lý trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước. Hầu hết
các nước tiên tiến đều quy định thời hạn xét duyệt rất ngắn, có thể trong vòng 24 giờ, như ở Pháp hoặc ở Mỹ. Xem Ph.
Merle, Droit commercial - Sociétés commerciales, Dalloz, Paris, 2008, tr. 91.
Luật Tổ chức đơn vị HC-KT đặc biệt phải
có các quy định xác định rõ thẩm quyền của
chính quyền đặc khu trong việc ban hành
các văn bản lập quy cấp đặc khu có chứa
đựng các quy định áp dụng trong phạm vi
đặc khu thay thế cho các quy định của luật
được áp dụng trên phần còn lại của lãnh thổ
quốc gia.
Một số quy định đặc biệt áp dụng
cho đặc khu
Điều kiện thành lập doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của các đặc khu kinh tế thành
công của các nước cho thấy, để đặc khu thực
sự là môi trường đầu tư hấp dẫn, thì việc
thành lập doanh nghiệp phải được thực hiện
theo những thủ tục đơn giản nhất và trong
khoảng thời gian ngắn nhất. Luật về đặc khu
HC-KT có thể không dự kiến được tất cả
những vấn đề cần giải quyết liên quan đến
việc thành lập các doanh nghiệp trên phạm
vi đặc khu, đặc biệt là các vấn đề kỹ thuật
liên quan đến ngành nghề đặc thù6. Bởi vậy,
luật về đặc khu HC-KT chỉ cần ghi nhận một
điều khoản cho phép chính quyền đặc khu
quy định điều kiện thành lập doanh nghiệp
tuỳ theo đặc điểm của từng đặc khu về khả
năng thu hút đầu tư.
Quy định về sử dụng đất. Do quyền sở
hữu đất được hiến định thuộc sở hữu toàn
dân, chủ thể quan hệ pháp luật chỉ có quyền
sử dụng đất toạ lạc trên phạm vi đặc khu như
các chủ thể sử dụng đất trên các phần còn lại
của lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, việc giao
hoặc cho thuê đất có thể được quy định với
nội dung thông thoáng. Chẳng hạn, có thể
không áp dụng quy định về hạn điền đối với
đất nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc
xây dựng các nông trại tư nhân quy mô lớn.
Việc tiếp cận đất đai của người nước ngoài
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 3+4 (355+356) T02/2018
cũng cần được quy định theo hướng cởi mở
nhằm tạo sự an tâm cho nhà đầu tư, đặc biệt
là nhà đầu tư nước ngoài. Thời hạn sử dụng
đất nên được quy định dài hơn so với thời
hạn được ghi nhận trong luật chung.
Quyền sở hữu nhà ở. Có thể xây dựng
khung pháp lý riêng cho việc xác lập, thực
hiện quyền sở hữu nhà áp dụng trên phạm vi
đặc khu. Với khung pháp lý này, người nước
ngoài có thể tạo lập nhà ở toạ lạc tại đặc khu
trong những điều kiện thông thoáng hơn so
với các điều kiện được quy định trong luật
hiện hành.
Thuế và ngoại hối. Điều chắc chắn là
chế độ thuế áp dụng tại đặc khu HC-KT phải
là một chế độ đặc biệt, vừa mang tính ưu
đãi cao đối với nhà đầu tư, vừa góp phần
tăng thu cho ngân sách quốc gia của nước
sở tại. Chính quyền đặc khu cần được trao
quyền hạn rộng rãi trong việc quy định các
sắc thuế địa phương, đặc biệt là thuế nhà
đất. Bên cạnh đó, có thể cân nhắc đề ra các
quy định đặc thù về thuế thu nhập cá nhân
áp dụng trong dài hạn cho đặc khu HC-KT7.
Thuế xuất nhập khẩu nên được miễn hoàn
toàn trên phạm vi đặc khu.
Áp dụng chế độ tự do lưu thông ngoại
hối trên phạm vi đặc khu. Các ngoại tệ được
chấp nhận là phương tiện thanh toán trong
giao dịch dân sự và thương mại.
Cư trú và đi lại. Cần có quy định trao
thẩm quyền cho chính quyền đặc khu xem
xét và cấp thị thực lưu trú cho người nước
ngoài đến sinh sống và làm việc tại đặc khu.
Luật có thể quy định khung pháp lý về điều
7 Không nên giới hạn phạm vi áp dụng chế độ thuế thu nhập ưu đãi trong thời gian đến năm 2030 như trong Dự thảo Luật
(Điều 23), bởi điều đó sẽ có tác dụng làm cho đặc khu giảm bới sức hút theo thời gian, đối với người bên ngoài.
kiện xác định quốc gia, vùng lãnh thổ mà
công dân của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
đó được cấp hoặc miễn thị thực. Dựa vào
quy định chung ấy, chính quyền đặc khu ra
quy định cụ thể về các quốc gia, vùng lãnh
thổ có công dân được hưởng chế độ đặc biệt
về cấp hoặc miễn thị thực.
Chuyển giao công nghệ. Trong điều
kiện đất nước đang phát triển, thì đặc khu
HC-KT phải đảm nhận tốt vai trò đầu mối
tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ nước ngoài
để góp phần hiện đại hoá nền sản xuất nội
địa. Chính quyền đặc khu cần được trao
quyền hạn rộng rãi trong việc quy định tiêu
chuẩn kỹ thuật của công nghệ được ưu tiên
chuyển giao để tiến hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong đặc khu.
Tuy nhiên, cần xây dựng cơ chế giám
sát, kiểm soát để bảo đảm việc chuyển giao
công nghệ vào đặc khu đạt được mục tiêu
chung về hiện đại hoá nền sản xuất của quốc
gia. Một mặt, chính quyền đặc khu được
quyền quyết định phê duyệt các dự án đầu tư
có tác dụng chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam qua lãnh thổ đặc khu;
mặt khác, chính quyền đặc khu chịu sự giám
sát của chính quyền cấp trên, thông qua các
cơ quan chức năng có thẩm quyền về chất
lượng của công nghệ được chuyển giao. Cần
có các quy định chế tài thật mạnh và dứt
khoát, có tính răn đe cao nhằm ngăn chặn,
xử lý việc lạm dụng các quyền rộng rãi được
thừa nhận để tiếp nhận công nghệ lạc hậu và
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- https://en.wikipedia.org/wiki/Demographics_of_the_Cayman_Islands (truy cập ngày 07/01/2015).
- Dự thảo Luật Đơn vị HC-KT đặc biệt, công bố trên
DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1319&LanID=1426&TabIndex=1 (truy câp ngày 31/12/2017)
- François Perroux: Note sur la notion de poles croissance. Économie Appliquée, 1 & 2:307- 320, 1955.
- Jung-Dong Park, The Special Economic Zones of China and Their Impact on Its Economic Development,
Praeger Publishers, Connecticut, 1997.
- Philippe Merle, Droit commercial - Sociétés commerciales, Dalloz, Paris, 2008
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_y_kien_ve_to_chuc_chinh_quyen_va_phap_luat_ap_dung_ta.pdf