Ba là, bổ sung năng lực nghiên cứu,
phân tích chính sách của Quốc hội, bằng cơ
chế đấu thầu, thuê ngoài
Thực tế cho thấy, cơ quan quản lý nhà
nước có ưu thế trong nắm bắt các nhu cầu
của xã hội cũng như khả năng xây dựng
các dự án luật với đông đảo đội ngũ chuyên
gia trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, những
phân tích chính sách của cơ quan được giao
nhiệm vụ chủ trì xây dựng dự thảo không
phải lúc nào cũng khách quan, mà đôi khi
có thể ẩn chứa những lợi ích cục bộ của bộ,
ngành, lĩnh vực. Muốn tránh việc lệ thuộc
thông tin và các lập luận, phân tích chính
sách từ cơ quan soạn thảo (phần lớn là cơ
quan hành pháp) thì Quốc hội cần có nguồn
thông tin độc lập để kiểm chứng, đối trọng.
Để có nguồn thông tin độc lập bảo đảm chất
lượng, Quốc hội cần huy động được trí tuệ
của các nhà khoa học đang công tác tại các
trung tâm, tổ chức nghiên cứu độc lập (bên
cạnh các tổ chức nghiên cứu, tham mưu của
chính Quốc hội và Chính phủ). Quốc hội có
thể áp dụng cơ chế khuyến khích, huy động
đội ngũ cộng tác viên, nhà khoa học, các
chuyên gia giỏi tham gia đóng góp vào hoạt
động của Quốc hội, nhất là trong lĩnh vực
xây dựng pháp luật, quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước thông qua cơ chế
đấu thầu, thuê ngoài
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng lực lập pháp của quốc hội để ngăn ngừa tham nhũng chính sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Tham nhũng chính sách trong hầu hết các trường hợp không phải là
hành vi trái pháp luật mà thường là pháp luật bị thay đổi, xây dựng
theo hướng có lợi cho một “nhóm lợi ích” hoặc tạo ra kẽ hở, điều
kiện thuận lợi cho hành vi tham nhũng thông thường. Tham nhũng
chính sách có thể xảy ra trong bốn giai đoạn của chính sách, bao
gồm: hoạch định chính sách, xây dựng và ban hành chính sách, tổ
chức thực hiện chính sách, đánh giá chính sách. Bài viết bước đầu
phân tích và nhận diện tham nhũng chính sách ở Việt Nam, trên cơ
sở đó đánh giá vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng
chính sách.
NÂNG CAO NĂNG LỰC LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI
ĐỂ NGĂN NGỪA THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH
Vũ Văn Huân*
Abstract:
Policy corruption in most cases is not an illegal act, but it leads
to a law modification or law development in favor of a "benefit
group" or creating a loophole, favorable conditions for the common
corruptions. Policy corruption may occur in four stages of the
policy, including: policy formulation, policy development and
promulgation, policy implementation, policy evaluation. This article
provides initial analysis and identification of the policy corruption
in Viet Nam, on the basis of which the role of the National Assembly
against the policy corruptions.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tham nhũng; tham nhũng
chính sách; phân tích chính sách;
Quốc hội; năng lực lập pháp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 28/7/2016
Biên tập: 01/11/2017
Duyệt bài: 08/11/2017
Article Infomation:
Keywords: corruption; policy
corruption; policy analysis;
National Assembly; legislative
capacity
Article History:
Received: 28 Jul. 2017
Edited: 01 Nov. 2017
Appproved: 08 Nov. 2017
* Viện Nghiên cứu Lập pháp
1. Nhận diện tham nhũng chính sách ở
Việt Nam
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội,
hiện diện trong tất cả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Từ những ngày đầu
hình thành Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về tệ nạn
tham nhũng, lấy của công dùng vào việc tư,
quên cả thanh liêm, đạo đức và Người đã
coi trộm cắp tiền bạc của nhân dân, gây tổn
hại kinh tế cho Chính phủ như là mật thám,
phản quốc.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 22(350) T11/2017
Ngay sau Đổi Mới, Hội nghị đại biểu
giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (tháng
1/1994) đã xác định, tham nhũng là một trong
bốn nguy cơ hàng đầu đối với sự tồn vong
của chế độ; tệ quan liêu, tham nhũng và suy
thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy của Đảng
và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn1.
Từ đó, Đảng ta đã ngày càng quyết liệt với
công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng,
nhiều văn bản quan trọng đã được ban hành,
trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng
năm 2005 và đặc biệt là Nghị quyết TƯ 4 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI.
Kết luận của Hội nghị TƯ 5 (khóa XI) cũng
chỉ rõ, tham nhũng “gây bức xúc trong xã hội
và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước”2.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại
biểu lần thứ XII của Đảng một lần nữa đã chỉ
rõ, xác định đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn,
phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị.
Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng
ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn
đe, trừng trị để không thể tham nhũng3. Tuy
nhiên, vì tham nhũng là một căn bệnh nguy
hiểm, nên phải coi việc chống tham nhũng
cũng quan trọng như một mặt trận - mặt trận
chính trị tư tưởng. Muốn thắng phải có sự
chuẩn bị, có kế hoạch, tổ chức. Đặc biệt, cần
phải nghiên cứu, nhận diện những loại hình
tham nhũng mới, ví dụ như một dạng tham
nhũng tinh vi nhất lâu nay đó là tham nhũng
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia,
H., 1997, tr. 68.
2 Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2016, tr. 213.
chính sách, để từ đó đưa ra đường lối xử lý
hiệu quả nhất.
Nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam
được lý giải từ sự yếu kém của thể chế, tính
nửa vời trong chỉ đạo thực hiện và sự thoái
hóa của không ít quan chức, công chức trong
bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong
hoạt động tư pháp, trong điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án. Với những hành vi tham
nhũng thông thường (hành vi cố ý làm trái
các quy định của pháp luật nhằm trục lợi)
có thể áp dụng trách nhiệm pháp lý và rất
nhiều cơ quan có thể vào cuộc, từ thanh tra,
cơ quan điều tra đến người dân (thông qua
việc tích cực tố cáo). Khi bị phát hiện, xử
lý hành vi tham nhũng thông thường khá dễ
bởi đã có một thước đo rõ ràng là các quy
định pháp luật.
Ngược lại, tham nhũng chính sách
trong hầu hết trường hợp không phải là hành
vi trái pháp luật, mà thường là pháp luật bị
thay đổi, xây dựng theo hướng có lợi cho
một “nhóm lợi ích” hoặc tạo ra kẽ hở, điều
kiện thuận lợi cho hành vi tham nhũng thông
thường. So với hành vi tham nhũng thông
thường, tham nhũng chính sách rất khó phát
hiện và xử lý triệt để, bởi:
Thứ nhất, chỉ có thể áp dụng trách
nhiệm chính trị (không thể áp dụng trách
nhiệm pháp lý) bởi, thường tham nhũng
chính sách đặt ra pháp luật một cách bất
công để trục lợi từ chính pháp luật đó, do
đó, thường không bị kết tội, không phải chịu
trách nhiệm pháp lý.
Thứ hai, không có căn cứ pháp lý để
thu hồi lợi ích không chính đáng của các
“nhóm lợi ích” thu được từ một chính sách
bị tham nhũng thao túng, bởi các lợi ích này
tuy không chính đáng, nhưng lại hợp pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 22(350) T11/2017
cho đến chừng nào văn bản quy phạm pháp
luật tương ứng chưa bị hủy bỏ; và đến khi
hủy bỏ thì không thể áp dụng hiệu lực hồi tố.
Tham nhũng chính sách có thể xảy
ra trong bốn giai đoạn của chính sách, bao
gồm: hoạch định chính sách, xây dựng và
ban hành chính sách, tổ chức thực hiện
chính sách, đánh giá chính sách. So với tham
nhũng thông thường, mức độ nguy hiểm của
tham nhũng chính sách thường để lại hậu
quả nặng nề hơn rất nhiều.
Về kinh tế, những ảnh hưởng của
tham nhũng chính sách tạo ra môi trường
kinh doanh thiếu lành mạnh, thiếu bình
đẳng, khiến doanh nghiệp không cần nâng
cao năng lực, chỉ cần có “quan hệ” là có
thể có được những lợi ích lớn. Ở giai đoạn
đầu sau Đổi Mới, tham nhũng chính sách ít
xuất hiện, bởi lúc đó chưa xuất hiện các tập
đoàn kinh tế tư nhân hùng mạnh đến mức
có thể ảnh hưởng một cách bất minh lên
chính sách, pháp luật để tạo nên lợi thế cạnh
tranh cho mình. Song song với quá trình cổ
phần hóa, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà
nước được tư nhân hóa, bên cạnh sự trỗi dậy
của các tập đoàn tư nhân giá trị hàng tỷ đô
la, những tác nhân này có ảnh hưởng đáng
kể lên chính sách, pháp luật của Nhà nước,
sinh ra tham nhũng chính sách. Ví dụ, thay
vì đầu tư “chất xám” để xây dựng một hệ
thống các tiêu chí (theo đó đối tượng nào
đáp ứng đầy đủ các tiêu chí đương nhiên
được quyền kinh doanh, được quyền lựa
chọn), thì cơ quan có thẩm quyền lại đặt ra
hệ thống “giấy phép” và chỉ có họ mới có
quyền cấp phép. Điển hình là hệ thống gần
7.000 “giấy phép con” ra đời trong giai đoạn
2001 - 20154. Hệ thống “giấy phép con” này
tạo ra nguồn thu chính thức cũng như phi
chính thức hàng chục tỷ đồng mỗi tháng cho
các cơ quan liên quan5. Do đó, chúng ta cần
phải triệt để hạn chế cơ chế “xin - cho” trong
4
5
từng văn bản quy phạm pháp luật, không chỉ
nhằm bảo đảm tự do cho công dân mà còn
góp phần ngăn chặn tận gốc nguồn cơn tham
nhũng như tinh thần của Điều 33 Hiến pháp
năm 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm”.
Tương tự như cơ chế xin cho, đối với
một số lĩnh vực, do nguồn lực khan hiếm,
độc nhất, ví dụ đất đai, hoặc để bảo đảm “sự
thống nhất của thị trường”, tránh dư thừa
nguồn cung cơ quan quản lý thường đặt
ra quy hoạch. Tuy nhiên, quy hoạch vô hình
trung đã tạo ra một rào cản vô hình cản trở
các doanh nghiệp gia nhập thị trường sau.
Việc nằm trong quy hoạch sẽ mang lại lợi
ích rất lớn cho những chủ thể được nằm
trong quy hoạch, vì vậy, bắt đầu phát sinh
“chạy quy hoạch”, “nắn quy hoạch”. Trong
lĩnh vực giao thông, xây dựng, việc nắn quy
hoạch, tạo ra những “đường cong mềm mại”
khá dễ thấy. Nhưng trong trong lĩnh vực quy
hoạch mạng lưới bán hàng, sản xuất kinh
doanh việc lạm dụng “nắn quy hoạch”
khó thấy hơn rất nhiều, nhưng tác hại của
nó còn lớn hơn, làm méo mó thị trường sản
xuất kinh doanh; cản trở sự vận hành bình
thường của quy luật cung cầu của kinh tế
thị trường; lạm dụng quy hoạch để điều
phối nguồn lực kinh tế làm vô hiệu hóa “bàn
tay vô hình” của kinh tế thị trường; hướng
nguồn lực kinh tế vào bàn tay của “nhóm tư
bản thân hữu”...
Về xã hội, tham nhũng chính sách bóp
méo các chính sách của Đảng, Nhà nước
để phục vụ “nhóm lợi ích”, “thương mại
hóa” quyền lực, làm suy yếu sự lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước,
làm mất lòng tin của nhân dân. Bên cạnh đó,
hiện nay, các thẩm phán, công chức được
trao quyền định đoạt quá lớn. Các văn bản
quy định trách nhiệm pháp lý, như Bộ luật
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 22(350) T11/2017
Hình sự, đã quy định khung xử lý quá rộng,
trao quyền định đoạt cho thẩm phán, công
chức. Điều này vô hình trung tạo ra khoảng
trống cho sự lạm dụng. Bởi vậy, để thu hẹp
khả năng bị lạm dụng, cần phải chia nhỏ các
khung xử lý trong Bộ luật Hình sự; tiêu chí
áp dụng kịch sàn, kịch trần phải được quy
định rõ ràng hơn.
2. Vai trò của Quốc hội trong phòng,
chống tham nhũng chính sách
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng
khẳng định việc cần “xây dựng cơ chế phòng
ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”;
chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy
nhiệm kỳ”, đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, phát huy vai trò của các
cơ quan dân cử”6. Quốc hội với tư cách là
cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp7, đặt ra những quy
tắc cơ bản điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội, đặt ra quy tắc hoạt động cho hành pháp,
tư pháp, do đó, Quốc hội cần phải đóng vai
trò tích cực hơn trong nỗ lực phòng, chống
tham nhũng của Đảng và toàn hệ thống
chính trị. Việc nhận diện, phòng ngừa sớm
các rủi ro tham nhũng từ giai đoạn xem xét,
cho ý kiến các dự thảo luật, pháp lệnh là hết
sức cần thiết nhằm ngăn chặn tham nhũng
chính sách có thể xảy ra ở công đoạn lập quy
tiếp theo của cơ quan thực hiện hành pháp.
Để phòng ngừa tham nhũng chính sách, cần
tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng
tâm sau:
Một là, các dự thảo luật cần kèm theo
dự báo rủi ro, nguy cơ tham nhũng đằng sau
từng điều khoản
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia. H., 2016, tr. 213.
7 Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
8 Khoản 1, Điều 35 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
9 PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 37.
luật năm 2015 đã yêu cầu phải đánh giá tác
động của chính sách trong đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh. Theo đó, cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm tiến hành đánh giá tác động của
từng chính sách trong đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh. Đại biểu Quốc hội tự mình hoặc
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành
đánh giá tác động của từng chính sách trong
đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Trong quá
trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem
xét, cho ý kiến về dự án luật, pháp lệnh, “
nếu có chính sách mới được đề xuất thì cơ
quan đề xuất chính sách đó có trách nhiệm
đánh giá tác động của chính sách”8. Theo
hướng này, trong hồ sơ dự án luật, pháp lệnh
cần kèm theo Báo cáo đánh giá rủi ro, nguy
cơ tham nhũng đằng sau từng điều khoản
trao quyền cấp phép, quyền quyết định quy
hoạch, quyền định đoạt cho thẩm phán, công
chức, trong từng thủ tục về hành chính, tư
pháp. Báo cáo, tờ trình xây dựng luật, pháp
lệnh phải dự báo được nguy cơ, rủi ro tham
nhũng trong từng dự luật, pháp lệnh. Mỗi
điều khoản, mỗi phương án đưa ra của dự
thảo phải được đồng thời phân tích, soi chiếu
dưới ba phương diện: bảo đảm quyền tự do
của công dân; nhu cầu quản lý nhà nước;
rủi ro tham nhũng. Phương án lựa chọn cần
phải luận giải đồng thời cả ba phương diện
và luận giải điểm lựa chọn là cân bằng, hài
hòa nhất.
Hai là, nâng cao năng lực và chất
lượng lập pháp của Quốc hội để hạn chế bớt
hiện tượng “lập pháp ủy quyền”
Quy trình làm luật, tức là thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng, hay nói
cách khác, là dịch chính sách công thành
luật. Nếu quá trình dịch chính sách ấy bị
lệch lạc sẽ mở đường cho sự vận dụng tùy
tiện của người có thẩm quyền9. Vì vậy, Quốc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 22(350) T11/2017
hội cần tiếp tục tăng cường năng lực và nâng
cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp,
đổi mới quy trình xây dựng luật, pháp lệnh,
bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế,
công khai, minh bạch của hệ thống pháp
luật; đồng thời cần “coi trọng hệ thống pháp
luật về đất đai, tài nguyên, tài chính, tiền
tệ, đầu tư, kinh doanh, môi trường, tạo điều
kiện quản lý và sử dụng mọi nguồn lực của
đất nước một cách có hiệu quả; khắc phục
tình trạng thất thoát, tham nhũng, lãng phí
trong các lĩnh vực này”10.
Quốc hội nước ta làm việc theo chế
độ hội nghị và quyết định theo đa số, hiệu
quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm
bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội,
hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc
hội Mỗi năm diễn ra hai kỳ họp Quốc
hội, trong đó, mỗi kỳ họp thường chỉ diễn
ra trong khoảng hơn 30 ngày, nên thời gian
dành cho công việc lập pháp của Quốc hội
không nhiều, dẫn đến Quốc hội thường ủy
quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước quy
định chi tiết các luật. Do đó, hầu hết luật chỉ
mang tính chất “luật ống, luật khung”, quy
tắc thực sự chi phối cuộc sống của nhân dân
do các cơ quan quản lý nhà nước đặt ra. Các
cơ quan quản lý nhà nước cũng chính là cơ
quan trực tiếp cấp phép, xử lý thủ tục hành
chính Bởi vậy, hoàn toàn dễ hiểu khi các
cơ quan này ban hành gần 7.000 “giấy phép
con” trong thời gian vừa qua.
Để hạn chế bớt hiện tượng lập pháp
ủy quyền, Quốc hội cần nâng cao năng lực
lập pháp, đưa ra những đạo luật chất lượng,
chi tiết. Luật do Quốc hội ban hành sẽ áp
dụng trực tiếp trong đời sống mà không đòi
hỏi phải có hướng dẫn thi hành, trừ một số
trường hợp mà luật chỉ rõ, ủy quyền cho
10 Phát biểu của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV, ngày 20/7/2016.
11 Phát biểu của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, tlđd.
Chính phủ hướng dẫn thi hành. Để nâng cao
năng lực lập pháp của Quốc hội, cần tiếp tục
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Ủy ban thường vụ Quốc hội; “tăng
thẩm quyền, đề cao trách nhiệm và tăng
cường năng lực hoạt động của Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, các đề
án, công trình quan trọng quốc gia”11. Trong
tương lai, cần tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách nhiều hơn nữa.
Ba là, bổ sung năng lực nghiên cứu,
phân tích chính sách của Quốc hội, bằng cơ
chế đấu thầu, thuê ngoài
Thực tế cho thấy, cơ quan quản lý nhà
nước có ưu thế trong nắm bắt các nhu cầu
của xã hội cũng như khả năng xây dựng
các dự án luật với đông đảo đội ngũ chuyên
gia trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, những
phân tích chính sách của cơ quan được giao
nhiệm vụ chủ trì xây dựng dự thảo không
phải lúc nào cũng khách quan, mà đôi khi
có thể ẩn chứa những lợi ích cục bộ của bộ,
ngành, lĩnh vực. Muốn tránh việc lệ thuộc
thông tin và các lập luận, phân tích chính
sách từ cơ quan soạn thảo (phần lớn là cơ
quan hành pháp) thì Quốc hội cần có nguồn
thông tin độc lập để kiểm chứng, đối trọng.
Để có nguồn thông tin độc lập bảo đảm chất
lượng, Quốc hội cần huy động được trí tuệ
của các nhà khoa học đang công tác tại các
trung tâm, tổ chức nghiên cứu độc lập (bên
cạnh các tổ chức nghiên cứu, tham mưu của
chính Quốc hội và Chính phủ). Quốc hội có
thể áp dụng cơ chế khuyến khích, huy động
đội ngũ cộng tác viên, nhà khoa học, các
chuyên gia giỏi tham gia đóng góp vào hoạt
động của Quốc hội, nhất là trong lĩnh vực
xây dựng pháp luật, quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước thông qua cơ chế
đấu thầu, thuê ngoài
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 22(350) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_nang_luc_lap_phap_cua_quoc_hoi_de_ngan_ngua_tham_nh.pdf