Chúng tôi thử nghiên cứu tập trung vào
một phiên điều trần gần đây nhất mà hai
thẩm phán đứng đầu của Tòa án tối cao đã ra
trước Ủy ban của Nghị viện. Đó là cuộc điều
trần ngày 21, tháng 3, năm 2018 tại Ủy ban
Hiến pháp Thượng viện35. Các vấn đề được
thảo luận hôm đó bao gồm:
- Những thách thức nào mà Brexit đặt
ra cho hệ thống tòa án, để đối phó thì cần
những bước nào?
- Tòa tối cao đang tuyển thêm thẩm
phán, những điều gì cần làm để thu hút thêm
một diện đa dạng hơn những ứng cử viên?
- Trách nhiệm của Tòa án tối cao trước
Nghị viện là thế nào? Liệu mối liên hệ giữa
Tòa án tối cao và Nghị viện có nên tăng
cường không?
Nhìn chung thì các câu hỏi được đưa
ra đều xoay quanh các vấn đề lớn của Tòa
án, trong đó có nhiều vấn đề mang tính chất
thời sự. Điều đó cho thấy sự quan tâm của
Nghị viện tới hệ thống tòa án là rất rõ ràng.
Mục đích hướng tới của hoạt động này, theo
chúng tôi, không chỉ dừng lại ở việc tạo
thêm những liên hệ sâu hơn giữa Nghị viện
với Tòa án mà còn chính là ở chỗ thúc đẩy
thêm sự minh bạch của Tòa án. Chính những
trao đổi công khai và liên tục với Nghị viện
sẽ giúp Tòa án tránh rơi vào tình trạng khép
kín và cô lập bởi một trong những ý nghĩa
quan trọng của điều trần chính là nâng cao
tính minh bạch của các cơ quan nhà nước
đồng thời hỗ trợ cho việc thực hiện chức
năng giám sát của cơ quan dân cử36.
Nói chung, các Ủy ban của Nghị viện
tránh can thiệp sâu vào hoạt động xét xử của
Tòa án. Vậy nên nội dung của các cuộc điều
trần như vậy luôn cần tránh sa đà vào các vụ
việc cụ thể hay đòi hỏi thẩm phán thay đổi
quan điểm của mình. Đó chính là điểm cân
bằng giữa tính minh bạch và tính độc lập của
tòa án.
68 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 162 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu Lập pháp - Số 16 - Năm 2019, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một trong những
quyền quan trọng, thuộc nhóm quyền đối xử
bình đẳng giữa NLĐNN và người lao động
bản địa. ILO cũng thể hiện rõ quan điểm
này trong Công ước số 98 (năm 1994) về áp
dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức
và thương lượng tập thể, Công ước số 97
(năm 1994) về người lao động di trú.
Theo Điều 5 của BLLĐ Việt Nam năm
2012, người lao động có quyền thành lập,
gia nhập, hoạt động công đoàn theo Luật
Công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của của mình. Tuy nhiên, theo quy
định tại Điều 10 Hiến pháp năm 2013, Điều
1 và Điều 5 Luật Công đoàn Việt Nam năm
2012, Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân và người
lao động Việt Nam tự nguyện thành lập dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội
của Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã
hội của người lao động. Như vậy theo quy
định trên, chỉ người lao động Việt Nam mới
được thành lập, gia nhập và hoạt động trong
tổ chức Công đoàn Việt Nam với tư cách là
đoàn viên công đoàn. Ngược lại, NLĐNN
làm việc tại Việt Nam không có quyền này;
đồng thời, họ cũng sẽ không có quyền tham
gia Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở và
không thể trở thành người đại diện cho tập
thể lao động trong các hoạt động nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao
động trong doanh nghiệp.
Đối tượng được gia nhập, thành lập
công đoàn theo pháp luật Việt Nam có sự
khác biệt với các quy định pháp luật quốc
tế. Công ước số 87 của ILO và các giải thích
chính thức của Ủy ban về Tự do Hiệp hội
của ILO: tất cả người lao động, không có
sự phân biệt dựa trên bất cứ đặc điểm nào
như nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, nguồn
gốc xuất thân, dân tộc, quốc tịch, tình trạng
hôn nhân... đều có quyền tự do thành lập
hoặc gia nhập công đoàn. Công ước 87 chỉ
có ngoại lệ với đối tượng là những người
làm việc trong lực lượng quân đội và công
an. Theo đó, quyền thành lập, gia nhập công
đoàn của những đối tượng này sẽ do pháp
luật quốc gia quy định. Trong khi đó, pháp
luật Việt Nam đã loại trừ quyền được thành
lập và gia nhập công đoàn của một số đối
tượng như: người lao động đang làm việc
tại Việt Nam không có quốc tịch Việt Nam;
người lao động trong khu phi chính thức,
người lao động tự do, không có quan hệ việc
làm và người lao động làm việc cho cá nhân,
hộ gia đình.
Liên quan đến quy định trên, một
điểm cần lưu ý là mặc dù BLLĐ và Luật
Công đoàn loại trừ các đối tượng lao động
trên không có quyền thành lập và gia nhập
công đoàn, nhưng Điều lệ Công đoàn Việt
Nam vẫn mở rộng quyền này cho cả đối
tượng là người lao động tự do hợp pháp.
Bên cạnh đó, Mục 1.2 Điều lệ Công đoàn
Việt Nam, văn bản hướng dẫn thi hành Điều
lệ Công đoàn Việt Nam lại hạn chế một số
đối tượng là “a. Người lao động có quốc tịch
nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam; b.
Chủ doanh nghiệp, chủ tịch hội đồng quản
trị, chủ tịch hội đồng thành viên, tổng giám
đốc, giám đốc; người được ủy quyền quản
lý doanh nghiệp hoặc ký hợp đồng lao động
với người lao động trong doanh nghiệp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 16(392) T8/2019
thuộc khu vực ngoài nhà nước, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm: phó chủ
tịch hội đồng quản trị, phó tổng giám đốc,
phó giám đốc, giám đốc nhân sự; c. Hiệu
trưởng, viện trưởng; phó hiệu trưởng, phó
viện trưởng được ủy quyền quản lý đơn vị
hoặc ký hợp đồng lao động với người lao
động trong đơn vị sự nghiệp ngoài công lập;
d. Xã viên trong các hợp tác xã nông nghiệp;
đ. Người đang trong thời gian chấp hành các
hình phạt tù theo quyết định của tòa án”.
Vì vậy, để bảo đảm sự tương thích
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia, pháp luật Việt Nam cần từng bước hoàn
thiện theo hướng bảo đảm quyền thành lập
công đoàn đối với những người lao động
hiện đang không có quyền thành lập và gia
nhập công đoàn. Có quan điểm cho rằng:
“nhằm tạo điều kiện cho những NLĐNN
có được một tổ chức công đoàn để bảo vệ
một cách tích cực các quyền và lợi ích chính
đáng của họ trong quá trình lao động tại Việt
Nam, nên xem xét cho phép thành lập
công đoàn của NLĐNN tại Việt Nam, có sự
quản lý của Nhà nước. Điều này có ý nghĩa
là chúng ta có thể xem xét một cách tích cực
theo hướng công đoàn lao động nước ngoài
chỉ hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi ích lao
động nước ngoài chứ không phải là tổ chức
mang tính chất chính trị - xã hội như Công
đoàn Việt Nam. Hay nói cách khác, chúng ta
có thể thừa nhận sự tồn tại của tổ chức công
đoàn của NLĐNN như là một tổ chức xã hội
- nghề nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, không
liên quan đến chính trị”4.
Trên thực tế, Việt Nam vẫn chưa phê
chuẩn và tham gia Công ước số 87 của ILO
đã ban hành từ năm 1948 với nhiều nội dung
quan trọng về quyền tự do hiệp hội và quyền
được tổ chức. Để khắc phục tình trạng pháp
luật Việt Nam có những điểm chưa phù
hợp với pháp luật quốc tế, trong thời gian
tới Nhà nước cần xem xét, cân nhắc về việc
phê chuẩn và gia nhập công ước này để pháp
luật về quyền công đoàn của người lao động
4 Cao Nhất Linh, Bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐNN tại Việt Nam (
cua-nguoi-lao-dong-nuoc-ngoai-tai-viet-nam.aspx).
5 Nguyễn Mạnh Cường, Mô hình quan hệ lao động ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 2013.
tại Việt Nam có cơ hội tiếp cận và kế thừa
những quy định tiến bộ, phù hợp của pháp
luật quốc tế.
Thứ ba, đối với các quy định bảo đảm
quyền tự do liên kết của người lao động.
Thiết chế đại diện trong quan hệ lao
động thực chất là sự biểu hiện việc thực
hiện quyền tự do liên kết trong quan hệ lao
động, bao gồm hình thức đại diện và cách
thức tổ chức đại diện cho thành viên của
tổ chức cũng như những hoạt động trong
quan hệ lao động để bảo vệ quyền và lợi ích
cho thành viên của tổ chức đó; nó yêu cầu
bảo đảm thực hiện cả với tổ chức đại diện
cho người lao động và tổ chức đại diện cho
người sử dụng lao động. Trên thực tế, không
có công đoàn thì không tồn tại quan hệ lao
động tập thể, mà chỉ có tập hợp các quan hệ
lao động cá nhân; nhưng không có tổ chức
đại diện cho người sử dụng lao động thì
vẫn tồn tại quan hệ lao động tập thể, ít nhất
là ở cấp doanh nghiệp. Để có sự vận hành
bình thường cho người lao động, nhất định
phải có tổ chức đại điện cho người lao động
(công đoàn). Chính vì vậy, luật quan hệ lao
động của một số nước thậm chí chỉ có quy
định về công đoàn mà không có quy định
về tổ chức người sử dụng lao động. Nhiều
nước nhập luật công đoàn và luật quan hệ
lao động là một.
Nếu không có tổ chức công đoàn hoặc
có nhưng không thật (tức là không đại diện
thật và không bảo vệ thật) thì thiết chế đại
diện sẽ không hoạt động, kể cả trường hợp
có thành lập cũng không hoạt động được5.
Theo cam kết trong Hiệp định CPTPP,
riêng Việt Nam có được thời gian chuẩn bị
là 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực
(tức là khoảng 07 năm kể từ khi ký Hiệp
định) để cho phép các tổ chức của người
lao động ở cấp cơ sở doanh nghiệp có thể
gia nhập hoặc cùng nhau thành lập tổ chức
của người lao động ở cấp cao hơn như cấp
ngành, cấp vùng theo đúng trình tự đăng
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 16(392) T8/2019
ký được pháp luật quy định một cách công
khai, minh bạch. Tôn chỉ, mục đích, trình tự,
thủ tục thành lập và phương thức hoạt động
của các tổ chức của người lao động ở mức
độ này cũng phải tuân thủ đầy đủ theo các
quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp
với các quy định của ILO. Thời gian chuẩn
bị này là để Việt Nam hoàn thiện hệ thống
pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý để bảo
đảm tốt nhất quyền lợi cho người lao động6.
Tham gia vào Hiệp định CPTPP, Việt Nam
sẽ phải tôn trọng đầy đủ nguyên tắc tự do
liên kết và đây được coi là phần khó khăn
nhất trong các thách thức về lao động của
Hiệp định CPTPP. Hiện nay, tất cả các công
đoàn đều phải thuộc Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam. Nhưng theo CPTPP, người
lao động có quyền tự do thành lập hoặc gia
nhập tổ chức mà họ lựa chọn. Đây là một
thay đổi quan trọng không chỉ đối với người
lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam mà còn đối với người sử dụng lao
động và Chính phủ. Bởi vì người sử dụng
lao động có thể phải ứng phó với các tổ chức
của người lao động không thuộc Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam tại nơi làm việc và
Chính phủ sẽ phải xây dựng một hệ thống
hiệu quả để xác nhận các tổ chức này với tư
cách là tổ chức đại diện của người lao động
tham gia vào thương lượng tập thể và các
hành động tập thể khác trong quan hệ lao
động. Như vậy, BLLĐ cần bổ sung các quy
định về tổ chức đại diện của người lao động,
về thủ tục đăng ký, nghĩa vụ, quyền hạn tự
chủ phù hợp với quy định của ILO và pháp
luật Việt Nam, nhằm hướng đến mục đích
bảo đảm quyền của lao động nước ngoài tại
các doanh nghiệp mà họ làm việc. Trước hết
là các hình thức tương tác đã được quy định
trong pháp luật, bao gồm đối thoại, thương
lượng tập thể, đình công và các hoạt động tập
thể khác trong quan hệ lao động. Ngoài ra,
pháp luật cũng cần bổ sung các nội dung về
bảo vệ tổ chức của người lao động để không
bị người sử dụng lao động can thiệp và phân
biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy
6 Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công thương (2019), Các cam kết về Lao động - Công đoàn của Hiệp định
CPTPP, https://sct.quangbinh.gov.vn/3cms/cac-cam-ket-ve-lao-dong---cong-doan-cua-hiep-dinh-cptpp.htm
yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền
lợi của người lao động; bảo đảm nghĩa vụ
thương lượng thiện chí của người sử dụng
lao động khi tiến hành thương lượng tập thể
với tổ chức của người lao động về tiền lương
và các điều kiện lao động khác.
Thứ tư, vấn đề bảo đảm quyền của
NLĐNN tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam
Hiện nay, Luật Bảo hiểm xã hội
(BHXH) năm 2014, sửa đổi năm 2015 (thay
thế Luật BHXH năm 2006) đã bổ sung
NLĐNN làm việc tại Việt Nam vào đối
tượng áp dụng BHXH bắt buộc. Theo Điều
124 Luật BHXH năm 2014, sửa đổi, bổ sung
năm 2015, quy định này có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2018. Việc tham gia BHXH
và các chế độ BHXH cụ thể áp dụng đối với
NLĐNN cần được quy định chi tiết.
Cần nghiên cứu xây dựng các điều
kiện để ký kết các hiệp định khung với một
số nước phái cử về chính sách BHXH cho
lao động di cư, đặc biệt là lao động nước
ngoài đến Việt Nam làm việc, thúc đẩy bảo
vệ quyền của người lao động di cư. Bởi lẽ,
việc thực hiện BHXH bắt buộc với NLĐNN
sẽ rất khó khăn khi Việt Nam còn thiếu sự kết
nối và thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực này
với các đối tác. Vì vậy, xác định rõ đối tượng
tham gia cũng như quy định về thuế hay
chuyển đổi tiền tệ là những yếu tố không thể
thiếu trong thực thi chính sách BHXH với
người lao động di trú. Đây chính là bảo đảm
nguyên tắc công bằng và tránh tình trạng thu
bảo hiểm chồng chéo, gây ảnh hưởng không
tốt đối với người lao động và doanh nghiệp.
Nếu các yếu tố trên không rõ ràng, thị trường
lao động nói riêng và môi trường đầu tư
nói chung khó tránh khỏi những ảnh hưởng
tiêu cực. Vì vậy, cần sớm ban hành văn bản
hướng dẫn thi hành chế độ BHXH bắt buộc
với NLĐNN vào Việt Nam làm việc. Điều
này không chỉ cụ thể hóa Luật BHXH với
các nước nhằm bảo đảm tối ưu hóa các quyền
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 16(392) T8/2019
lợi không chỉ cho NLĐNN làm việc tại Việt
Nam mà còn đảm bảo quyền lợi cho số đông
người lao động Việt Nam đang và sẽ đi làm
việc ở nước ngoài.
Thứ năm, hoàn thiện quy định pháp
luật về quản lý nhà nước đối với lao động
là người nước ngoài làm việc trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Bối cảnh quốc tế hiện nay vừa mang
đến những thuận lợi, vừa tạo ra những khó
khăn cho công tác quản lý lao động nước
ngoài của Việt Nam. Chính vì vậy, giải pháp
hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý nhà
nước đối với người lao động là người nước
ngoài làm việc trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đặt ra.
Cụ thể:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về quản lý lao động
nước ngoài phù hợp với các quy định của
pháp luật quốc tế. Tiếp tục nghiên cứu, đàm
phán, ký kết, phê chuẩn các công ước quốc
tế liên quan. Xây dựng Luật cho lao động
di cư bao gồm cả đối tượng lao động đi làm
việc ở nước ngoài và lao động người nước
ngoài đến Việt Nam làm việc, cho phép
điều chỉnh tất cả các đối tượng theo hướng
khuyến khích di cư hợp pháp, an toàn, phòng
chống di cư trái phép trên cơ sở xem xét quá
trình di cư như một chỉnh thể liên tục, thống
nhất và bao trùm được các đối tượng di cư
và mọi giai đoạn của quá trình di cư (trước
khi đi, xuất cảnh, nhập cảnh, hồi hương và
tái hòa nhập).
Hai là, sửa đổi, bổ sung nội dung về
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
trong BLLĐ năm 2012 theo hướng tăng
cường công tác quản lý nhà nước về lao động
nước ngoài, đơn giản hóa các thủ tục hành
chính để phù hợp với thị trường lao động và
tạo điều kiện để doanh nghiệp, tổ chức tuyển
lao động nước ngoài mà lao động Việt Nam
không đáp ứng được. Cụ thể là:
- Trong quá trình sửa đổi BLLĐ, cần
nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách về
quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam đồng bộ với các quy định có liên quan
đến Luật Đầu tư, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh,
quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại
Việt Nam để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực này. Nghiên cứu, sửa đổi
các quy định về thành viên góp vốn là người
nước ngoài theo hướng quy định mức góp
vốn cụ thể, phù hợp để tránh lạm dụng. Cần
có các quy định cụ thể về mức góp vốn phù
hợp để được xác nhận không thuộc diện cấp
giấy phép lao động cho lao động nước ngoài
là chủ đầu tư, chủ sở hữu doanh nghiệp và
phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hồ sơ đề nghị xác nhận NLĐNN
không thuộc diện cấp giấy phép lao động cần
quy định bổ sung thêm giấy khám sức khỏe
và phiếu lý lịch tư pháp của từng người, để
chặt chẽ hơn trong công tác quản lý.
- Đề nghị nghiên cứu xem xét, sửa đổi
về điều kiện cấp Giấy phép lao động giống
như các quốc gia khác. Theo đó, Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội sẽ ban hành
danh mục ngành nghề công việc được phép
tuyển dụng lao động nước ngoài hàng năm
hoặc theo giai đoạn. Căn cứ vào danh mục
công việc đó, các doanh nghiệp, nhà thầu
mới được tuyển dụng lao động nước ngoài
làm việc tại Việt Nam.
- Nghiên cứu sửa đổi các quy định về
hồ sơ, giấy tờ đề nghị cấp Giấy phép lao
động hoặc xác nhận không thuộc diện cấp
giấy phép lao động để bảo đảm cải cách thủ
tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản
lý như: bỏ lý lịch tư pháp phía nước ngoài;
quy định cụ thể về thời gian kinh nghiệm
của vị trí công việc nhà quản lý, giám đốc
điều hành; hướng dẫn cụ thể đối với các loại
bằng cấp, trình độ chuyên môn của người
nước ngoài
- Đề nghị cho phép chuỗi hợp đồng
lao động đối với NLĐNN (Điều 22) để phù
hợp với nội dung của Giấy phép lao động
cũng như phù hợp với quy định của pháp
luật hiện hành.
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước về lao động, đặc biệt là
thẩm quyền của Bộ Lao động - Thương binh
và xã hội nhằm tăng hiệu quả quản lý lao
động nước ngoài. Theo đó, góp phần khắc
phục một số bất cập đối với các trường hợp
NLĐNN làm việc cho các Bộ, ngành, cơ
quan trung ương và địa phương.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 16(392) T8/2019
Ba là, trường hợp không thuộc diện
cấp giấy phép lao động là thành viên góp
vốn: Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 của
Luật Đầu tư thì nhà đầu tư có quyền góp
vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức
kinh tế. Đồng thời, Luật Đầu tư không có
quy định cụ thể về mức góp vốn bao nhiêu
thì được coi là nhà đầu tư. Do đó, có một số
trường hợp lợi dụng quy định này chỉ góp
7 Đề tài khoa học cấp Bộ (2018), Quản lý Nhà nước về lao động nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế - thực trạng và giải pháp (tr.142-145), Viện Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội.
vốn vài triệu đồng để được coi là thành viên
góp vốn và được xác nhận không thuộc diện
cấp giấy phép lao động (như đã xảy ra ở tỉnh
Khánh Hòa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Do
đó, cần có các quy định cụ thể về mức góp
vốn phù hợp để được xác nhận không thuộc
diện cấp giấy phép lao động cho lao động
nước ngoài là chủ đầu tư, chủ sở hữu doanh
nghiệp và phù hợp với thông lệ quốc tế7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BLLĐ số 10/2012/QH10 ngày 18/6/2012.
2. Công ước quốc tế về Bảo vệ các quyền của người lao động di trú và các thành viên gia đình họ, 1990 được
thông qua theo Nghị quyết A/RES/45/158 ngày 18/12/1990
3. Công ước số 87, ngày 09/7/1948, Công ước về Quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức, 1948.
4. Hiến pháp 2013.
5. Luật Việc làm năm 2013.
6. Luật Công đoàn Việt Nam năm 2012.
7. Luật BHXH năm 2014.
8. Lê Thị Hoài Thu, Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2013
9. Nghị định số 34/2008/NĐ–CP ngày 25/3/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý NLĐNN làm việc tại Việt Nam.
10. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (2011), Quan hệ việc làm; Tài liệu hướng dẫn khuyến nghị số 198 của
Tổ chức Lao động Quốc tế, Vụ Đối thoại xã hội, Luật Lao động và Quản lý Lao động Văn phòng Lao động
Quốc tế, tháng 08/2011.
Vụ Chính sách thương mại đa biên Bộ Công thương (2019), Các cam kết về Lao động - Công đoàn của Hiệp
định CPTPP, https://sct.quangbinh.gov.vn/3cms/cac-cam-ket-ve-lao-dong---cong-doan-cua-hiep-dinh-cptpp.htm.
Chính phủ - quyền hành pháp - có
nhiệm vụ hoạch định chính sách nhà nước
và chịu trách nhiệm trước chính sách đưa
ra đó. Hiến pháp cũng phải xác định trách
nhiệm của Chính phủ đối với chính sách của
mình nhưng cơ chế trách nhiệm chưa được
làm rõ. Đặc biệt, vấn đề trách nhiệm tiêu
cực của Chính phủ (Chính phủ có bị bất tín
nhiệm, bị giảỉ tán giữa nhiệm kỳ như Hiến
pháp năm 1946 đã có quy định hay không)
thì vẫn như các Hiến pháp trước là không
được quy định. Khi Hiến pháp không (hoặc
chưa) nêu vấn đề này, có nghĩa là sự thể hiện
vị trí, vai trò của Chính phủ với tính cách là
cơ quan thực hiện quyền hành pháp là chưa
hoàn toàn thành công. Bản năng của Chính
phủ với tính cách là cơ quan thực hiện quyền
hành pháp - hoạch định và thực thi chính
sách quốc gia - đòi hỏi phải có cơ chế cộng
đồng trách nhiệm (trách nhiệm tập thể -
collective responsibility) rất cao. Các phiên
họp Chính phủ phải được tổ chức sao cho
có thể bảo đảm để các thành viên thẳng thắn
bàn thảo các vấn đề gai góc của quốc gia,
giải quyết những xung đột về lợi ích trong
hoạch định chính sách. Tính trách nhiệm tập
thể thể hiện một Chính phủ thực thi quyền
lực “mạnh mẽ và sáng suốt”. Đương nhiên,
đi cùng với tính trách nhiệm tập thể đoàn
kết, thống nhất này phải là cơ chế chịu cùng
trách nhiệm tập thể chung - bị bất tín nhiệm,
bị lật đổ. Cơ chế đó chính là góp phần đề cao
vị trí của Chính phủ đúng với tính chất thực
hiện quyền hành pháp của nó
QUYỀN HÀNH PHÁP THEO ...
(Tiếp theo trang 20)
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 16(392) T8/2019
Tóm tắt:
Điểm tương đồng khá thú vị giữa chính thể đại nghị ở Anh và
chính thể xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là vai trò nổi bật của cơ
quan dân cử cao nhất (nghị viện - quốc hội)2. Vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và tư pháp nói chung
cũng như hoạt động giám sát của nghị viện đối với nhánh quyền
tư pháp nói riêng ở vương quốc Anh sẽ mang lại nhiều giá trị tham
khảo cho Việt Nam.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2016, tr.422.
MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM1
1 Bài viết này là một phần từ kết quả triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ: Nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo Hiến pháp 2013 do TS. Trần Văn Thuân, Viện Nghiên cứu lập pháp làm chủ nhiệm.
GIÁM SÁT CỦA NGHỊ VIỆN ĐỐI VỚI
NHÁNH QUYỀN LỰC TƯ PHÁP Ở VƯƠNG QUỐC ANH:
Đậu Công Hiệp*
* ThS. Khoa Pháp luật Hành chính-nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
The interesting similarity between the Parliament of the United
Kingdom and the National Assembly of Vietnam is the prominent
role of the highest elected body (the Parliament – the National
Assembly). The relationship between the legislative body and the
judiciary one in general as well as the parliamentary supervision
over the judicial body in particular in the United Kingdom would
provide valuable references for Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Nghị viện Anh, quốc hội, giám
sát tư pháp của Nghị viện Anh.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 23/07/2019
Biên tập : 15/08/2019
Duyệt bài : 21/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Parliament of the United
Kingdom; National Assembly;
Parliament of the United Kingdom’s
supervision over the judicial body.
Article History:
Received : 23 Jul. 2019
Edited : 15 Aug. 2019
Approved : 22 Aug. 2019
Nghị viện là một thiết chế lâu đời. Nếu không kể tới nền dân chủ cổ đại ở Athens, nơi tồn tại một Hội nghị
công dân (Ecclesia) vừa có quyền tối cao
trong việc quyết định các công việc trọng
đại, vừa có quyền thành lập ra những cơ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 16(392) T8/2019
quan chức năng khác3, hay Hội nghị Đại
diện đẳng cấp ở Pháp có quyền quyết sách
về thuế khóa4; thì vương quốc Anh có thể
coi là cái nôi của Nghị viện tư sản5. Để có
được một mô hình đại nghị như ngày hôm
nay, chính thể của vương quốc Anh đã trải
qua một sự tiến triển được đánh giả là “tuy
chậm-chạp nhưng vững-chắc và ôn-hòa”6,
với những cột mốc quan trọng từ Đại Hiến
chương (Magna Carta) 1215, Đạo luật về
các quyền (Bill of rights) 1689, tới đạo luật
về Nghị viện (Parliament Act) 1911. Có một
sự tương đồng khá thú vị giữa chính thể đại
nghị ở Anh và chính thể xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, đó chính là ở vai trò nổi bật của
cơ quan dân cử cao nhất (nghị viện – quốc
hội)7. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa cơ quan lập pháp và tư pháp nói chung
cũng như hoạt động giám sát của nghị viện
đối với nhánh quyền tư pháp nói riêng ở
vương quốc Anh chắc chắn sẽ có nhiều giá
trị tham khảo cho Việt Nam.
1. Đạo luật Cải cách Hiến pháp8 và sự
thay đổi trong quan niệm về giám sát tư
pháp của Nghị viện ở vương quốc Anh
Sự ra đời của Đạo luật Cải cách Hiến
pháp (Constitutional Reform Act) 2005
đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong
hệ thống tư pháp vương quốc Anh. Về mặt
bối cảnh xoay quanh mối quan hệ giữa Nghị
viện và nhánh quyền tư pháp, phải thấy rằng
3 David Held, Các mô hình quản lí nhà nước hiện đại, Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2017, trang 50.
4 Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014,
tr.164.
5 Nguyễn Đăng Dung, Đặng Minh Tuấn, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2014, tr.423.
6 Trần Đức An, Chính trị phổ thông, Nxb. Sáng, Sài Gòn, tr.50, 1965.
7 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2016, tr.422.
8 Xem nguyên văn tại: https://www.legislation.gov.uk/ukpga/2005/4/part/3/crossheading/annual-report
9 Montesquieu chỉ ra ba trường hợp ngoại lệ mà lập pháp có thể can thiệp vào tư pháp:
(1) Khi người bị xét xử là quý tộc thì không thể bị xét xử bởi tòa án thông thường mà phải bởi Quý tộc viện
(2) Khi luật pháp “mù quáng” và “khắc nghiệt” còn các vị quan tòa thì máy móc.
(3) Khi cơ quan lập pháp đóng vai trò là người tố cáo.
Xem:Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.148, 149.
10 Một câu nói thường được trích dẫn để miêu tả điều này: Nghị viện có thể làm mọi thứ trừ việc biến đàn ông thành đàn
bà. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2014, tr.227.
11 Theo: Raymond Wacks, Triết học luật pháp, Phạm Kiều Tùng dịch, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2011, tr.48, 49.
ngay từ xa xưa, ưu thế rõ ràng của nhánh
quyền lập pháp so với tư pháp ở Anh đã là
một đặc điểm của chính thể đại nghị này.
Montesquieu tuy đề cao việc phân định rõ
các nhánh quyền lực nhưng lại ca ngợi việc
ở Anh có những cơ chế để cơ quan lập pháp
(mà ông nhấn mạnh chủ yếu vào Quý tộc
viện) can thiệp nhằm ngăn ngừa sự sai trái
và thiếu sót của tư pháp9. Điều này có thể
giải thích trên hai khía cạnh: (1) Bản thân
nhánh quyền lập pháp ở Anh được coi là có
rất nhiều quyền hạn. Hình thức nghị viện
manh nha ra đời từ thế kỷ XI, khi người
Normand cai trị nước Anh nhưng không
hiểu rõ luật lệ của địa phương nên phải triệu
tập các lãnh chúa để hỏi ý kiến. Đến sau
các cuộc cách mạng tư sản, quyền lực của
nhà vua suy yếu và nghị viện nắm rất nhiều
quyền10. (2) Bản thân nhánh quyền tư pháp
với đại diện là các vị quan tòa cũng biểu lộ
những bất cập, đặc biệt là trong hệ thống
Thông luật, nơi luật bất thành văn ngự trị.
Từ thế kỷ XVIII, Bentham đã đánh giá các
quan tòa Anh là “thiên vị, đồi bại và có tính
khí thất thường”. Ông đề xướng việc đặt ra
luật thành văn rõ ràng để các quan tòa ít phải
giải thích luật11. Như vậy, có thể thấy rằng sự
chi phối của Nghị viện lên hệ thống cơ quan
xét xử là có nguyên nhân sâu xa từ trong
lịch sử cũng như chính trị của Anh và đặc
biệt là trong bối cảnh đất nước này nổi tiếng
với một chế độ đại nghị điển hình. Điều đó
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 16(392) T8/2019
vẫn còn được biểu hiện một cách khá rõ nét
trong pháp luật Anh đương đại, nhất là trước
khi có Đạo luật Cải cách Hiến pháp. Trong
đó có một số biểu hiện quan trọng như:
- Trước Đạo luật Cải cách Hiến pháp
2005 và trên thực tế là vào năm 2009, Tòa
án tối cao được tích hợp trong Thượng viện
(hay Quý tộc viện – House of Lords) với
người đứng đầu là Lord Chancellor (Đại
chưởng Ấn) và các thành viên được gọi là
Law Lords (các Nghị sĩ Pháp luật). Khi đó
vương quốc Anh không có Tòa án tối cao
mà chỉ có Ủy ban phúc thẩm (Appellate
committee) thuộc Thượng viện nắm quyền
xét xử.
- Về mặt tổ chức, Đại chưởng ấn vừa là
một Thượng nghị sĩ, vừa là một bộ trưởng
trong nội các, lại vừa là một thẩm phán
đứng đầu các thẩm phán trong Ủy ban Phúc
thẩm12. Ngoài ra, Đại chưởng ấn còn nắm
các vị trí trong giáo hội Anh giáo và văn
phòng hoàng gia13.
- Việc bổ nhiệm thẩm phán trên nguyên
tắc là thuộc thẩm quyền của Hoàng đế theo
đề xuất của Thủ tướng (đối với thẩm phán
tòa tối cao) và Đại chưởng ấn (đối với thẩm
phán tòa cao cấp) nhưng trong quy trình này
Ủy ban Nội vụ (và sau này là Ủy ban các vấn
đề hiến định) của Hạ viện có quyền thẩm tra
việc này thông qua điều trần hoặc các cơ chế
báo cáo14.
- Cả hai viện đều có quyền yêu cầu
Hoàng đế loại bỏ một thẩm phán của Tòa
cấp cao hoặc Tòa phúc thẩm theo Khoản 3,
Điều 11 Đạo luật về Tòa án tối cao 1981 với
nền tảng có từ Đạo luật về sự chuyển giao
12 https://publications.parliament.uk/pa/ld201415/ldselect/ldconst/75/7504.htm.
13 Nguyên trong lịch sử, Đại chưởng ấn thường là các chức sắc tôn giáo thông thái và thường đưa ra những phán xét khôn
ngoan. Vì vậy, dần dần vị trí Đại chướng ấn cũng kiêm thêm các công việc mang tính chất xét xử và lãnh đạo các thẩm
phán tối cao.
14 Cheung Wai-lam, The Process of Appointment of Judges in Some Foreign Countries: The United Kingdom, 22
November 2000,
15 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2014,
tr.227.
16 Chris Ballinger, The House of Lords 1911-2011: A Century of Non-Reform, Bloomsbury Publishing, 2014.
17 Theo: Richard Benwell and Oonagh Gay, The Separation of Powers, Parliament and Constitution Centre, House of
Common Library. researchbriefings.files.parliament.uk/documents/SN06053/SN06053.pdf
1701. Quyền nay cho đến ngày nay vẫn còn
được duy trì nhưng thực tế rất ít khi được
sử dụng. Riêng ở nước Anh và xứ Wales,
chưa bao giờ có thẩm phán nào bị bãi nhiệm
(trường hợp duy nhất xảy ra vào năm 1830
ở Bắc Ireland)15.
- Ngân sách của cơ quan xét xử tối cao
phải xin trực tiếp từ Thượng viện bởi nó là
một bộ phận của Thượng viện. Theo Chris
Ballinger, ngân sách dành cho Ủy ban Phúc
thẩm khi nó còn thuộc Thượng viện là rất
nhỏ và người đứng đầu cơ quan này dường
như khó có thể thương lượng một cách rõ
ràng về các khoản chi hàng năm16.
Tuy nhiên, kể từ sau Đạo luật Cải cách
Hiến pháp 2005, tính độc lập của tòa án được
nhấn mạnh hơn và sự ảnh hưởng của Nghị
viện lên nhánh quyền tư pháp có xu hướng
giảm bớt. Theo một tài liệu nghiên cứu của
Hạ viện Anh thì nguyên nhân ra đời Đạo luật
trên một phần là do yêu cầu phân chia quyền
lực được đặt ra tại Đoạn 1, Điều 6, Công ước
Châu Âu về Nhân quyền trong khi đó luật
hiến pháp ở Anh vẫn còn bị đánh giá là “hỗn
hợp quyền” chứ không phải phân quyền17.
Có thể nói, tính độc lập tư pháp được
nhắc đi nhắc lại trong Đạo luật này như
là một yêu cầu và nhiệm vụ gắn với pháp
quyền. Hầu hết các cải cách từ Đạo luật này
đều hướng tới việc bảo vệ tính độc lập tư
pháp. Điều này khẳng định sự chuyển đổi rõ
rệt về mặt quan niệm của nhà nước Anh về
việc Nghị viện không nên can thiệp quá sâu
vào tư pháp. Bản thân nhánh quyền tư pháp
có thể tự tồn tại một cách độc lập dựa trên
hai nền tảng lớn là tính minh bạch và nguyên
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 16(392) T8/2019
tắc hai cấp xét xử. Điều này là đủ để đảm
bảo tính đúng đắn của việc vận dụng quyền
tư pháp. Ở đây, cần thấy rằng, nguyên tắc
hai cấp xét xử là cách thức tự kiểm soát của
nhánh quyền tư pháp để đảm bảo tính đúng
đắn của hoạt động xét xử. Trong khi đó, tính
minh bạch mà tòa án phải đảm bảo lại phản
ánh sự kiểm soát từ bên ngoài, trong đó có
cơ chế nghị viện. Vì thế, trong phần tiếp
theo, chúng tôi sẽ làm rõ một số khía cạnh
của việc Nghị viện giám sát tư pháp dựa trên
những trụ cột lớn đã trình bày, trong đó tập
trung vào sự cân bằng giữa tính độc lập của
tòa án với nhu cầu bảo đảm tính minh bạch
trong hoạt động của cơ quan này thông qua
hoạt động của nghị viện.
2. Một số biện pháp giám sát của Nghị
viện đối với nhánh quyền lực tư pháp
trong pháp luật Vương quốc Anh
2.1. Chế độ báo cáo định kỳ
Điều 54 Đạo luật Cải cách Hiến pháp
quy định một cách ngắn gọn về chế độ báo
cáo định kỳ hàng năm của tòa án tối cao. Cụ
thể, sớm nhất sau mỗi năm tài chính, Tòa án
tối cao phải chuẩn bị một bản báo cáo về các
vấn đề của mình trong năm đó và chuyển tới
các địa chỉ sau:
- Đại chưởng ấn (Lord Chancellor) kiêm
Bộ trưởng Tư pháp.
- Thủ tướng Scotland
- Thủ tướng Bắc Ireland
- Thủ tướng xứ Wales
Đại chưởng ấn sau đó phải chuyển báo
cáo này tới cả Thượng viện và Hạ viện. Khi
Đạo luật Cải cách Hiến pháp mới ra đời,
vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể về nội
dung báo cáo này. Người phụ trách về tư
pháp trong Thượng viện Anh khi đó chỉ trả
lời chung chung rằng: “báo cáo này sẽ gồm
những thứ mà chúng ta đang quan tâm”18.
Cho đến hiện nay, báo cáo thường niên của
18 https://publications.parliament.uk/pa/ld200607/ldselect/ldconst/151/151.pdf, tr.43.
19 Xem tại đây: https://www.supremecourt.uk/docs/annual-report-2017-18.pdf
20 Gee, G., "The Financial and Administrative Independence of The UK Supreme Court: Five Years On", (2015) 21(1)
European Journal of Current Legal Issues.
21
Tòa án tối cao thường có những nội dung
như sau:
- Tổng quan về sứ mệnh, mục tiêu
- Báo cáo về sự thay đổi nhân sự (nếu có)
- Báo cáo về công tác xét xử, bao gồm
các số liệu và thông tin về một số vụ việc
quan trọng được đưa ra xét xử trong năm
- Báo cáo về công tác quần chúng
- Báo cáo về công tác đối ngoại
- Báo cáo về hoạt động hợp tác
- Báo cáo về hệ thống quản trị
- Báo cáo về trách nhiệm
- Báo cáo về tài chính
Nói chung, với một bản báo cáo với
nội dung tương đối dày dặn (riêng báo cáo
năm 2017 dày tới 116 trang)19, các báo cáo
thường niên này là một nguồn cung cấp
thông tin quan trong cho nghị viện và đồng
thời cho cả công chúng theo đúng nguyên
tắc minh bạch trong hoạt động của tòa án.
Để đảm bảo sự độc lập của tòa án, đặc biệt
sau khi Tòa tối cao tách ra khỏi thượng viện
một cách chính thức từ năm 2009, cơ chế
báo cáo đối với nghị viện có phần giảm bớt
sức ép. Trước đó, vào mỗi năm, Ủy ban
phúc thẩm trong thượng viện phải trình báo
cáo để xin cấp ngân sách cho năm tài chính
tiếp theo. Cơ chế này được nhận xét là khiến
các Thượng nghị sĩ Pháp luật bị gò bó trong
một thủ tục nghị viện cổ hủ20. Ngày nay,
kinh phí của Tòa án tối cao không phải trực
tiếp xin từ Nghị viện mà được hình thành từ
các nguồn sau21:
- Nguồn cung từ Bộ Tư pháp
- Tiền án phí và các khoản tài trợ từ
Chính quyền Scotland, Bắc Ireland
- Tiền cho thuê nhà, bán đồ lưu niệm,
tiệm café của Tòa án tối cao
Nói chung, nguồn thu quan trọng và chủ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 16(392) T8/2019
yếu nhất của Tòa án tối cao vương quốc Anh
đến từ Chính phủ mà đại diện là Bộ Tư pháp.
Theo một Bản ghi nhớ giữa Bộ Tư pháp và
Tòa án tối cao năm 201322, về vấn đề tài
chính, Tòa án tối cao sẽ ước tính một khoản
kinh phí cần thiết và thảo luận về định mức
này với Bộ Ngân khố cũng như Bộ Tư pháp
sau khi đã đệ trình cho Đại chưởng ấn. Sau
khi cả hai cơ quan này kiểm tra kỹ lưỡng về
tính đúng đắn của định mức kinh phí trên,
Bộ Ngân khố sẽ đưa nó vào tổng dự tính chi
hàng năm của Chính phủ để trình Hạ viện
theo khoản 4, điều 6, Đạo luật về Kinh phí
và nguồn lực của Chính phủ năm 200023.
Như vậy, chúng ta có thể thấy phần nào sự
phụ thuộc giữa Tòa án tối cao vào Nghị viện
tuy đã giảm bớt, từ việc phải xin kinh phí
hoạt động trực tiếp từ Nghị viện, ngày nay,
khoản tiền này đã nằm trong tổng dự toán
kinh phí của Chính phủ. Tuy nhiên, vai trò
của Nghị viện cũng không mất đi hoàn toàn.
Trong một báo cáo của Ủy ban về các vấn
đề hiến định của Hạ viện24, cơ quan này cho
biết, nếu cần thiết, Nghị viện có thể tổ chức
những phiên điều trần liên quan đến vấn đề
nhu cầu hỗ trợ tài chính của tòa án. Và theo
họ, các bản báo cáo công tác thường niên
sẽ tạo cơ hội đối thoại giữa Tòa án và Nghị
viện, đặc biệt là trong các vấn đề mang tính
xây dựng như ngân sách.
Nói chung, chế độ báo cáo định kỳ có
ý nghĩa rất quan trọng trong mối liên hệ
giữa Tòa án và Nghị viện. Mặc dù vậy, xu
hướng ngày nay cho thấy các báo cáo định
kỳ hàng năm của Tòa án chủ yếu hướng tới
công chúng nhằm nâng cao tính minh bạch
tư pháp. Dù sao, đây cũng là một cơ sở quan
trọng để Nghị viện có thể thi hành vai trò
giám sát tư pháp của mình, đặc biệt là trên
lĩnh vực ngân sách.
22 https://www.supremecourt.uk/docs/concordat-with-ministry-of-justice-150113.pdf
23 https://www.legislation.gov.uk/ukpga/2000/20/section/6
24 https://publications.parliament.uk/pa/cm200405/cmselect/cmconst/275/27508.htm
25 https://assets.publishing.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/272368/6945.pdf
26 Ninth Report of Session 2006–07, The Meaning of Public Authority under the Human Rights Act (HL Paper
77/HC 410); Seventh Report of Session 2003–04, The Meaning of Public Authority under the Human Rights
Act (HL Paper 39/HC 382).
2.2. Cơ chế giám sát thực thi pháp luật
Với tư cách là cơ quan lập pháp, Nghị
viện Anh thường xuyên thực hiện các hoạt
động giám sát việc thực thi những sản phẩm
lập pháp của mình, hay còn gọi là Giám sát
hậu lập pháp (Post-legislative Scrutiny). Ở
Anh, việc giám sát thực thi pháp luật không
có một cơ sở pháp lý ở tầm đạo luật mà chủ
yếu biểu hiện thông qua các hoạt động cụ thể
của các Ủy ban của cả hai viện. Hoạt động
này được khởi động và hoàn thiện dần qua
các năm gần đây. Trong một tài liệu nghiên
cứu được thực hiện bởi Bộ Tư pháp25, lý do
của việc tiến hành các hoạt động giám sát
thực thi pháp luật này bao gồm: (1) Quy định
tốt hơn, (2) Tập trung vào quá trình thực thi,
(3) Hiệu quả của các chính sách, (4) Chính
sách tốt và (5) Chất lượng lập pháp. Thực tế
cho thấy, phần lớn các hoạt động giám sát
thực thi pháp luật chú trọng vào hoạt động
của cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp, Nghị viện có thể tham
khảo tới các cách tiếp cận của tòa án trong
nhừng vụ việc cụ thể. Một ví dụ điển hình
là từ năm 2006, một Ủy ban kết hợp giữa
Hạ viện và Thượng viện về Nhân quyền đã
thực hiện những nghiên cứu giám sát để
tìm hiểu cách tiếp cận của tòa án trong việc
định nghĩa khái niệm “thẩm quyền công” và
“chức năng của một thực thể công”26. Sau
cuộc giám sát, Ủy ban trên đã kết luận rằng
những phán quyết và lập luận của tòa án đã
co hẹp những khái niệm kia hơn mục đích
ban đầu của Nghị viện. Nói chung, thông
qua việc giám sát thực thi pháp luật mà
trong trường hợp này là tìm hiểu quan điểm
của tòa án, Nghị viện có thể xem xét tới
những sự giải thích tư pháp và đối chiếu nó
với quan điểm lập pháp của mình để hướng
tới việc dung hòa và làm rõ hơn những vấn
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 16(392) T8/2019
đề pháp lý liên quan. Đây cũng được đánh
giá như một cơ chế đối thoại mang tính chất
xây dựng giữa Nghị viện và tòa án27. Mặc
dù Nghị viện không thể can thiệp trực tiếp
vào bản án nhưng thông qua giám sát thực
thi pháp luật việc áp dụng pháp luật có thể
thống nhất hơn.
Theo Franklin De Vieze, hoạt động giám
sát thực thi pháp luật của Nghị viện được
thực hiện dựa trên nhiều nguyên lý khác
nhau.28 Trong số đó, giám sát thực thi pháp
luật xem xét tới ảnh hưởng của một đạo luật
tới toàn thể xã hội, không chỉ thể hiện ở các
quy định của pháp luật mà còn ở cách tòa
án giải thích, cách người dân vận dụng quy
định của pháp luật. Như vậy, cách tiếp cận,
giải thích và vận dụng pháp luật của Tòa án
là một nguồn quan trọng cho hoạt động giám
sát thực thi pháp luật.
Nói chung, xét trên một phương diện
nhất định, sự giám sát thực thi pháp luật của
Nghị viện cũng là cách thức để phần nào
nâng cao tính minh bạch của tòa án thông
qua việc giảm thiểu những mâu thuẫn trong
cách giải thích pháp luật với dụng ý của nhà
làm luật. Các kết luận giám sát thực thi pháp
luật của Nghị viện chỉ có tính tham khảo
mà không làm thay đổi kết quả bản án. Đây
là điểm mà cơ chế này dừng lại ở việc cân
bằng giữa tính độc lập tư pháp và phát huy
sự minh bạch của tòa án.
2.3. Vai trò của các Ủy ban
Nhìn chung trong cơ chế Nghị viện,
các Ủy ban có vai trò rất quan trọng trong
hầu hết các công việc, từ làm luật cho đến
giám sát. Ở Anh, trong giai đoạn đầu hình
27 Select Committee on the Constitution 6th Report of Session 2006–07, Relations between the executive, the judiciary
and Parliament Report with Evidence, Ordered to be printed 11 July 2007 and published 26 July 2007, Published by the
Authority of the House of Lords.
28 Franklin De Vrieze, Principles of Post-Legislative Scrutiny by Parliaments, Westminster Foundation for Democracy,
2018.
29 Lê Đình Chân, Luật Hiến pháp – Khuôn mẫu dân chủ, Tập 2, Tủ sách Đại học, Sài Gòn, 1975, trang 122.
30 Select Committee on the Constitutional Reform Bill, First Report of Session 2003–04 (HL Paper 125-I),
para 420.
31 Jack Beatson, Closer engagement with parliament: The importance of developing new conventions, https://www.judi-
ciary.uk/wp-content/uploads/2015/07/closer-engagement-with-parliament-beatson.pdf
32 https://publications.parliament.uk/pa/cm201314/cmselect/cmpolcon/802/80205.htm
thức toàn bộ nghị sĩ cùng họp, hay còn gọi
là Ủy ban toàn viện, là chủ yếu nhưng dần
dần đã bị thay thế vai trò bởi các Ủy ban
thường trực bởi cơ chế toàn viện vừa lâu
đời lại quá ư cồng kềnh29. Hiện nay, vai trò
của các Ủy ban, đặc biệt là các Ủy ban làm
việc về các vấn đề liên quan tới Hiến pháp,
Tư pháp, Nhân quyền. v.v trong việc giám
sát hoạt động tư pháp là khá tích cực. Cụ
thể, các thẩm phán có thể được yêu cầu phải
trình bày dưới hình thức các phiên điều trần
trước các Ủy ban của Nghị viện. Về cơ bản,
các Ủy ban có thể đặt vấn đề với các thẩm
phán về hệ thống quản trị hay cách thức vận
hành của Tòa án. Tuy nhiên, việc thảo luận
về các vấn đề bên ngoài cũng được chấp
nhận. Chẳng hạn, đã có những thẩm phán
được yêu cầu trình bày quan điểm về những
vấn đề pháp lý rộng hơn như công dụng của
luật so sánh, sự phân biệt giữa điều 3 và 4
của Đạo luật Nhân quyền hay sự giải thích
phán quyết của vụ Pepper v. Hart30. Về mặt
lịch sử, trước nửa cuối của thế kỷ 20 thì gần
như không có một thẩm phán nào phải xuất
hiện trước các Ủy ban của Nghị viện31. Tuy
nhiên, về sau, việc các thẩm phán phải điều
trần trước Nghị viện được trở nên ưa thích
và được coi như là một cách tạo sự gắn kết
giữa nhánh tư pháp và lập pháp. Hơn thế, nó
cũng là một cách để giúp hoạt động của Tòa
án minh bạch hơn. Theo một nghiên cứu, kể
từ khi Đạo luật Cải cách hiến pháp có hiệu
lực cho đến năm 2014, đã có 120 lần thẩm
phán đương nhiệm xuất hiện trước các Ủy
ban của Nghị viện32. Bản thân Ban Thực thi
tư pháp (Judicial Executive Board) một cơ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 16(392) T8/2019
chế thuộc Tòa án tối cao, đã ban hành một
văn bản hướng dẫn cho các thẩm phán khi ra
điều trần trước các Ủy ban của Nghị viện33.
Theo văn bản này, nếu một thẩm phán được
yêu cầu phải trình bày trước một Ủy ban nào
đó, yêu cầu phải được thông qua văn phòng
Vị Chánh Tư pháp (Lord Chief Justice)34.
Ngoại lệ cho việc tham dự một phiên điều
trần như vậy là khi nội dung có liên hệ tới
những vụ việc đã có hiệu lực pháp lý khi
thảo luận về những nguyên tắc chung của
pháp luật.
Chúng tôi thử nghiên cứu tập trung vào
một phiên điều trần gần đây nhất mà hai
thẩm phán đứng đầu của Tòa án tối cao đã ra
trước Ủy ban của Nghị viện. Đó là cuộc điều
trần ngày 21, tháng 3, năm 2018 tại Ủy ban
Hiến pháp Thượng viện35. Các vấn đề được
thảo luận hôm đó bao gồm:
- Những thách thức nào mà Brexit đặt
ra cho hệ thống tòa án, để đối phó thì cần
những bước nào?
- Tòa tối cao đang tuyển thêm thẩm
phán, những điều gì cần làm để thu hút thêm
một diện đa dạng hơn những ứng cử viên?
- Trách nhiệm của Tòa án tối cao trước
Nghị viện là thế nào? Liệu mối liên hệ giữa
Tòa án tối cao và Nghị viện có nên tăng
cường không?
Nhìn chung thì các câu hỏi được đưa
ra đều xoay quanh các vấn đề lớn của Tòa
án, trong đó có nhiều vấn đề mang tính chất
thời sự. Điều đó cho thấy sự quan tâm của
Nghị viện tới hệ thống tòa án là rất rõ ràng.
Mục đích hướng tới của hoạt động này, theo
chúng tôi, không chỉ dừng lại ở việc tạo
thêm những liên hệ sâu hơn giữa Nghị viện
với Tòa án mà còn chính là ở chỗ thúc đẩy
thêm sự minh bạch của Tòa án. Chính những
33 Toàn văn xem tại đây:
https://www.judiciary.uk/wp-content/uploads/JCO/Documents/Guidance/select_committee_guidance.pdf
34 Đây là người đứng đầu Tòa án tối cao.
35 Xem cụ thể tại đây: https://www.parliament.uk/business/committees/committees-a-z/lords-select/
constitution-committee/news-parliament-2017/president-and-deputy-president-supreme-court/
36 Đậu Công Hiệp, Bàn về khái niệm điều trần và hoạt động điều trần ở các Ủy ban thuộc Quốc hội Hoa Kỳ, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 2/2015.
37 UNODC, Hướng dẫn tăng cường năng lực và liêm chính tư pháp, 2011
trao đổi công khai và liên tục với Nghị viện
sẽ giúp Tòa án tránh rơi vào tình trạng khép
kín và cô lập bởi một trong những ý nghĩa
quan trọng của điều trần chính là nâng cao
tính minh bạch của các cơ quan nhà nước
đồng thời hỗ trợ cho việc thực hiện chức
năng giám sát của cơ quan dân cử36.
Nói chung, các Ủy ban của Nghị viện
tránh can thiệp sâu vào hoạt động xét xử của
Tòa án. Vậy nên nội dung của các cuộc điều
trần như vậy luôn cần tránh sa đà vào các vụ
việc cụ thể hay đòi hỏi thẩm phán thay đổi
quan điểm của mình. Đó chính là điểm cân
bằng giữa tính minh bạch và tính độc lập của
tòa án.
3. Kết luận và hàm ý tới Việt Nam
Thông qua các nội dung vừa được trình
bày, cả trên phương diện lịch sử, chính trị
lẫn trên phương diện thực tiễn, có thể thấy
một điều rất đáng phải rút ra đó là nước Anh
đã và đang thiếp lập một cơ chế giám sát
của Nghị viện tới Tòa án theo hướng cân
bằng giữa hai yếu tố cần thiết cho hệ thống
Tòa án, đó là tính minh bạch và tính độc
lập. Một mặt, Tòa án phải được hoạt động
một cách độc lập nhằm đảm bảo sự vô tư,
khách quan trong xét xử. Mặt khác, các hoạt
động của Tòa án phải được minh bạch nhằm
và chịu sự giám sát từ người dân37. Vậy có
một vấn đề đặt ra là liệu Tòa án có bị ảnh
hưởng bởi các ý kiến bên ngoài, từ cả công
chúng lẫn các cơ quan nhà nước khác khi
mọi hoạt động của Tòa án đều bị đưa ra “soi
mói” một cách công khai hay không? Tính
độc lập của Tòa án có bị ảnh hưởng không
nếu cơ quan này vấp phải những ý kiến trái
chiều của dư luận? Theo chúng tôi đó chính
là mâu thuẫn giữa việc Tòa án vừa phải độc
lập lại vừa phải minh bạch.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 16(392) T8/2019
Độc lập không có nghĩa là tự cô lập và
minh bạch không có nghĩa là phải chạy theo
quần chúng. Vấn đề là phải cân bằng được
hai yếu tố trên và nước Anh là một ví dụ
điển hình cho điều đó. Hệ thống Tòa án anh
đã thoát ra khỏi Nghị viện về cả cơ cấu tổ
chức lẫn một quy trình lựa chọn thẩm phán
độc lập hơn. Tuy vậy, Nghị viện Anh vẫn đòi
hỏi Tòa án phải minh bạch hơn thông qua
những góc độ cụ thể mà chúng tôi đã trình
bày, bao gồm:
- Chế độ báo cáo thường niên
- Giám sát thực thi pháp luật
- Điều trần trước các Ủy ban
Trong mỗi hoạt động đó, yếu tố trung
tâm mà Nghị viện Anh hướng tới là làm sao
để Nghị viện “hiểu” Tòa án hơn là để Nghị
viện “chỉ huy” Tòa án. Với vai trò là cơ quan
dân cử, thiết nghĩ các hoạt động đó của Nghị
viện cũng chính là cầu nối để đưa Tòa án
gần với công chúng hơn. Ở Việt Nam, chúng
ta cần định hình được mục đích của mình
trong công cuộc cải cách tư pháp là gì, đặc
biệt là khi hệ thống Tòa án còn đang rất yếu
cả về tính độc lập lẫn minh bạch
khó khăn. Việc tuyển NLĐ mới, hay điều
chuyển NLĐ khác sang đảm nhận cũng
phải mất thời gian làm quen việc, đào tạo,
tập huấn tốn kém. Kể cả trong trường hợp
NLĐ sẵn sàng bồi thường cho những ngày
không báo trước, để có thể sớm chấm dứt
HĐLĐ, thì khoản bồi thường đó cũng không
thể bù đắp hết những thiệt hại mà NSDLĐ
phải gánh chịu khi NLĐ đó nghỉ việc. Đó
là chưa kể đến việc NLĐ đó làm việc cho
đơn vị sử dụng lao động cùng lĩnh vực kinh
doanh, đang cạnh tranh trực tiếp với họ và
tạo ra tiền lệ xấu cho những trường hợp các
lao động khác cũng đang có ý muốn chấm
dứt HĐLĐ. Theo chúng tôi, quy định này
cần sửa đổi, bổ sung theo hướng buộc NLĐ
muốn nghỉ việc phải nêu được lý do xác
đáng mới được chấm dứt hợp đồng như đối
với HĐLĐ xác định thời hạn để kiểm soát,
hạn chế tình trạng chấm dứt HĐLĐ tùy tiện
nêu trên, giảm bớt các tranh chấp về chấm
dứt HĐLĐ và ổn định QHLĐ (tương tự quy
định của pháp luật lao động của Lào, của
Trung Quốc hay Nhật Bản).
16 Khoản 5, Điều 43, BLLĐ năm 2012.
- Cần điều chỉnh thống nhất quy định
của pháp luật lao động về căn cứ chấm dứt
và thủ tục chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
Khoản 1, khoản 2 Điều 43 BLLĐ năm 2012
quy định NLĐ vi phạm về căn cứ chấm dứt
thì “không được hưởng trợ cấp thôi việc và
phải bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng tiền
lương theo HĐLĐ”; còn nếu NLĐ vi phạm
thủ tục chấm dứt thì vừa không được hưởng
trợ cấp thôi việc, vừa “phải bồi thường cho
NSDLĐ một khoản tiền tương ứng với tiền
lương của NLĐ trong những ngày không
báo trước”16. Như vậy, quy định này bất hợp
lý ở chỗ số tiền mà NLĐ bồi thường trong
trường hợp vi phạm thủ tục chấm dứt còn
nhiều hơn so với trường hợp NLĐ vi phạm
căn cứ chấm dứt. Do đó, theo chúng tôi, cần
điều chỉnh thống nhất quy định về vấn đề
này, không thể để tình trạng vi phạm về hình
thức bị phạt bồi thường nhiều hơn vi phạm
về nội dung, vừa tạo ra sự khó khăn trong
việc áp dụng và xử lý trên thực tế; vừa có
thể gây hiểu nhầm trong việc đánh giá thực
hiện bồi thường
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ...
(Tiếp theo trang 27)
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 16(392) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_lap_phap_so_16_nam_2019.pdf