Hiện nay, vẫn chưa có phân giai đoạn chính
thức ung thư ống niệu rốn.
Sheldon và cộng sự (1984) đưa ra hệ thống
phân loại với 4 mức xâm lấn.
Jehonathan H.(13). cũng đề nghị phân chia độ
xâm lấn của bướu như sau:
Giai đoạn I, bướu chỉ ở lớp dưới niêm
Giai đoạn II, bướu đến lớp cơ bàng quang
Giai đoạn III, bướu vượt qua mô xung quanh
ống niệu rốn hoặc mô mềm bàng quang
Giai đoạn IV, bướu xâm lấn cơ quan xung
quanh bao gồm cả thành bụng
Hệ thống phân loại của Mayo Clinic(2) dựa
trên cải tiến hệ thống phân loại của Henly với 4
giai đoạn được xác định:
Giai đoạn I, khối bướu chỉ giới hạn ở ống
niệu rốn và /hoặc bàng quang.
Giai đoạn II, các khối bướu vượt ra ngoài lớp
cơ của ống niệu rốn và / hoặc bàng quang.
Giai đoạn III, khối bướu xâm nhập vào các
hạch bạch huyết gần.
Giai đoạn IV, khối bướu xâm nhập hạch
bạch huyết xa hoặc di căn xa.
Tiên lượng của bệnh lý ung thư ống niệu rốn
thì thường rất xấu(17). Nghiên cứu của Mayo
clinic cho thấy 59% bệnh nhân đã có di căn khi
phát hiện bệnh(2). Và 92% bệnh nhân này sẽ tử
vong trong khoảng thời gian 1 năm(2). Khác với
ung thư tế bào chuyển tiếp của bàng quang, cho
đến nay các tác giả nhận thấy hóa trị toàn thân
và xạ trị hầu như không có ý nghĩa đáng kể
trong điều trị phối hợp của bệnh lý này(4). Cũng
có một vài báo cáo về hóa trị toàn thân cho ung
thư ống niệu rốn(5,6,7,8,16). Báo cáo với nhiều ca lâm
sàng nhất và theo dõi lâu nhất của Mayo clinic
trên 29 bệnh nhân có di căn với các phát đồ
cisplatin (50% bệnh nhân), doxorubicin (36%
bệnh nhân), cyclophosphamide (21% bệnh
nhân), 5-fluorouacil (21% bệnh nhân), and
paclitaxel (14% bệnh nhân) cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về khoảng thời
gian sống còn của nhóm nhận hóa trị và nhóm
không hóa trị(2).
Năm 2002 Arlene O. và cộng sự(16) đã nhấn
mạnh trong nghiên cứu của mình về sự giống
nhau giữa ung thư ống niệu rốn và ung thư
đại tràng thể hiện trên kháng nguyên phôi
(carcinoembryonic antigene) và CA 19-9 cũng
thường tăng trong ung thư ống niệu rốn.
Những chất chỉ điểm sinh học này có thể giúp
theo dõi tình trạng đáp ứng điều trị, tiến triển
và tái phát bệnh.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 67 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp ung thư ống niệu rốn ở giai đoạn trễ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 41
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ ỐNG NIỆU RỐN
Ở GIAI ĐOẠN TRỄ
Lê Việt Hùng*, Tô Quốc Hãn**, Lê Anh Tuấn**, Hồ Xuân Tuấn**
TÓM TẮT
Mở đầu: Chúng tôi báo cáo một trường hợp ung thư ống niệu rốn trên một bệnh nhân có sự tồn tại ống niệu
rốn từ lúc mới sinh.
Trường hợp lâm sàng: Một bệnh nhân nam, 78 tuổi, nhập viện với một khối bướu ung thư ống niệu rốn
xâm lấn phúc mạc. Bệnh nhân đã có một bệnh sử lâu dài với các triệu chứng của tồn tại ống niệu rốn mà khống
được điều trị thích hợp. Quá tình phẫu thuật của bệnh nhân bao gồm cắt khối bướu ung thư ống niệu rốn, cắt bán
phần bàng quang, phúc mạc, cân và cấu trúc rốn.
Bàn luận: Ung thư ống niệu rốn là một bệnh lý rất ác tính và ít được biết đến. Adenocarcinoma chiếm phần
lớn các trường hợp và thường không được phát hiện cho đến khi di căn gần (dẫn đến tái phát sau phẫu thuật) và
di căn xa (dẫn đến tử vong) trước khi được điều trị phù hợp. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính bao gồm
cắt ống niệu rốn và rốn, đồng thời phải đảm bảo biên phẫu thuật không còn tế bào bướu vì có giá trị tiên lượng
thời gian sống còn cho bệnh nhân. Có một số bằng chứng cho thấy sự tồn tại bất thường ống niệu rốn từ giai
đoạn tuổi trẻ có thể là nguyên nhân xuất hiện ung thư ống niệu rốn về sau.
Kết luận: Phẫu thuật cắt bỏ các dạng tồn tại của ống niệu rốn nên được thực hiện nhằm phòng tránh những
bất thường hoặc ung thư trên ống niệu rốn về sau.
Từ khóa: Ung thư niệu rốn
ABSTRACT
A CASE OF END STAGE URACHAL CARCINOMA
Le Viet Hung, To Quoc Han, Le Anh Tuan, Ho Xuan Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 41 - 46
Object: We report a case with persistent urachal remnant in childhood was the cause of later cancer
development.
Case Report: A 78-year-old male presented with urachal carcinoma with peritoneal invasion. He had a long
history of patent urachus without proper treatment. An excision of the bladder dome and the urachal remnant
along with its peritoneal, facial, and umbilical segments was performed.
Discussion: Carcinoma of the urachus is an aggressive malignancy about which relatively little is known.
Malignant urachal tumors usually are adenocarcinomas which often escape clinical detection and grow for a
prolonged period prior to diagnosis, which allows local invasion (leading to local recurrences) and systemic spread
(leading to death) before therapeutic intervention is initiated. Surgery remains the mainstay of therapy, and the
achievement of a complete urachectomy, including umbilectomy and negative surgical margins, is critical to long-
* Khoa Ngoại Tiết Niệu ,bệnh viện Nhân Dân Gia Định TPHCM
** Bộ môn Tiết Niệu Học, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Tô Quốc Hãn ĐT: 0972124850 Email: dr_han1984@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 42
term survival. There was some evidence that a persistent urachal remnant in childhood was the cause of later
cancer development.
Conclusions: Urachal excision in early childhood is recommended to prevent later problems or cancer
formation.
Key words: Urachal cancer
MỞ ĐẦU
Các bất thường của ống niệu rốn là một bệnh
lý thường gặp trong lâm sàng niệu khoa, bệnh có
thể được phát hiện khi bệnh nhân còn nhỏ hoặc
ở giai đoạn trưởng thành. Có bốn dạng bất
thường của ống niệu rốn được đã được miêu tả
là: tồn tại ống niệu rốn (Patent urachus), xoang
niệu rốn (Umbilical-urachus sinus), nang niệu
rốn (Urachal cyst), túi thừa bàng quang niệu rốn
(Vesicourachal diverticulum)(3). Bệnh lý lành tính
của ống niệu rốn thường gặp là viêm, nhiễm
trùng các cấu trúc bất thường của ống niệu rốn.
Ung thư ống niệu rốn rất hiếm gặp và thường
được thể hiện dưới dạng một bướu vùng vòm
của bàng quang. Độ tuổi thường gặp của ung
thư ống niệu rốn ở một số ca được báo cáo ở Việt
Nam là 35 – 47 tuổi(10). Tuy nhiên vẫn có một số
trường hợp ung thư ống niệu rốn xảy ra ở bệnh
nhân lớn tuổi với bướu ở giai đoạn trễ như trong
trường hợp lâm sàng sau.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam 78 tuổi, nhập viện vì khối
bướu ở rốn chảy dịch. Bệnh nhân đã có bệnh sử
thường chảy dịch ở rốn từ thời thanh niên, đôi
lúc chảy dịch rốn vàng xanh, hôi. Triệu chứng
trên thường xảy ra khi bệnh nhân đi tiểu. Mười
năm gần đây bệnh nhân thấy khối bướu ở rốn
lớn dần, gây đau âm ỉ, chảy dịch nhiều hơn
nhưng bệnh nhân tự đắp thuốc lá. Một năm nay,
khối bướu tăng kích thước nhanh, chảy dịch
nhầy vàng, kèm cảm giác nặng bụng và đau
nhiều hơn vùng quanh rốn. Trong quá trình
bệnh lý, bệnh nhân không có các tình trạng tiểu
máu, tiểu gắt, tiểu nhầy.
Hình 1. Ung thư ống niệu rốn rất to chảy dịch nhầy.
Các xét nhiệm sinh hóa và huyết học của
bệnh nhân trong giới hạn bình thường. Xét
nghiệm nước tiểu cho thấy tình trạng tiểu máu
vi thể. X quang ngực không thấy tổn thương ở
hai phổi. Chụp điện toán cắt lớp bụng chậu có
cản quang ghi nhận một cấu trúc dạng bướu ở
rốn, xâm lấn ở khoang trước phúc mạc và có
thông nối với bàng quang.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 43
A B
Hình 2. Bướu ung thư ống niệu rốn rất to, thành dày bắt thuốc cản quang. Lòng có mật độ dịch, xâm lấn khoang
trước phúc mạc hai bên. Bướu xâm lấn nhiều nhất về bên Trái.
Bệnh nhân được phẫu thuật cắt bướu ung
thư ống niệu rốn với một phần phúc mạc và cắt
bán phần bàng quang. Bệnh nhân xuất viện sau
7 ngày hậu phẫu và được hẹn để hóa trị hổ trợ.
Kết quả giải phẫu bệnh là Adenocarcinoma tiết
nhầy xâm lấn thành bụng, xâm lấn phúc mạc.
Ung thư ống niệu rốn của bệnh nhân đã ở vào
giai đoạn 4 theo phân loại của Mayo Clinic(2).
A B
Hình 3. Bướu sau khi được phẫu thuật với thành phần mô nhầy trong bướu và đường mổ sau đó
BÀN LUẬN
Ung thư ống niệu rốn (Urachal
adenocarcinoma) là một bệnh lý hiếm gặp, một
báo cáo ở bệnh viện Bình Dân chỉ ghi nhận 4 ca
trong vòng hai năm(10). Ung thư ống niệu rốn
thường thể hiện dưới dạng một khối bướu vùng
vòm của bàng quang nhưng cũng có những
trường hợp ung thư ống niệu rốn xảy ra trên cấu
trúc ống niệu rốn mà không có bất cứ liên hệ nào
với bàng quang đã được báo cáo(3). Trong đó,
khoảng 84% là adenocarcinoma, 16 % là
carcinoma tế bào chuyển tiếp hoặc tế bào vảy(12).
Triệu chứng của bệnh rất ít và không đặc
hiệu, thường bao gồm triệu chứng tiểu máu và
tiểu lắt nhắt khi bướu đã có xâm lấn bàng quang.
Bệnh cảnh bệnh nhân đến với khối bướu ở bụng,
chảy dich ở rốn có thể thấy khi bệnh ở giai đoạn
muộn(12). Độ tuổi của bệnh nhân trẻ hơn nhiều so
với tuổi của ung thư tế bào chuyển tiếp của bàng
quang. Đôi khi các bướu ung thư ống niệu rốn
chỉ được phát hiện sau phẫu thuật cắt đốt bướu
bàng quang vùng vòm với kết quả
adenocarcinoma. Chính những đặc điểm như
trên, Henly và cộng sự khuyến cáo rằng: nếu
mẫu sinh thiết bướu vùng chóp bàng quang cho
kết quả adenocarcinoma, thì nên tầm soát ung
thư ống niệu rốn cho đến khi có bằng chứng
ngược lại(4).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 44
Tuy bệnh thường xảy ra ở bệnh nhân trung
niên, nhưng không phải không có các trường
hợp xảy ra ung thư ống niệu rốn trên bệnh nhân
lớn tuổi. Jehonathan H.(13) đã báo cáo có đến 20%
số trường hợp là bệnh nhân lớn tuổi, một số báo
cáo khác cũng cho thấy bệnh có thể xảy ra trên
những người lớn tuổi(4,14,2).
Ashley và các cộng sự (2007) hồi cứu 176
bệnh nhân được chẩn đoán với một sự bất
thường của ống niệu rốn(1). Các bệnh nhân trẻ
em chỉ trải qua phẫu thuật đơn giản trong khi đó
50 % các bệnh nhân người lớn phải cắt bỏ ống
niệu rốn và một phần bàng quang vì ung thư
ống niệu rốn(1). Vì vậy nghiên cứu trên đưa ra
khuyến cáo: “Bệnh lý tiến triển của ống niệu rốn
khác nhau giữa trẻ em và người trưởng thành.
Nên phẫu thuật các trường hợp có tồn tại các
dạng của ống niệu rốn ở độ tuổi trẻ em nhằm dự
phòng những bất thường và ung thư xảy ra khi
trưởng thành”(1).
Tuy nhiên thời điểm can thiệp là khi nào?
Galati và cộng sự (2008)(6) nghiên cứu trên 23 trẻ
em cho thấy: “Đa phần ống niệu rốn sẽ tự thoái
hóa trước 6 tháng tuổi”. Nếu sau 6 tháng mà trẻ
vẫn còn tồn tại ống niệu rốn thì cần can thiệp
phẫu thuật(6).
Các vấn đề trên phần nào nói lên mức độ
nguy hiểm của bướu và sự mất cảnh giác của các
bác sĩ niệu khoa nếu không chú ý đến loại ung
thư này nhất là đối với các bệnh nhân đã phát
hiện sự tồn tại ống niệu rốn.
Về điều trị ung thư ống niệu rốn phải bao
gồm điều cắt bỏ vùng vòm bàng quang và ống
niệu rốn, cùng với phúc mạc, cân, và
rốn(4,6,9,15,17). Phải đảm bảo bờ phẫu thuật không
có tế bào bướu. Chưa có bằng chứng về việc
nạo hạch, xạ trị, hóa trị mang lại lợi ít cho
bệnh nhân ung thư ống niệu rốn(4,15). Tương
tự, phương pháp phẫu thuật cắt bàng quang
tận gốc và cắt bàng quang bán phần cùng dây
chằng rốn hiện vẫn chưa có các nghiên cứu
kiểm chứng so sánh hiệu quả của hai phương
pháp trên. Các tác giả ủng hộ phẫu thuật cắt
bàng quang tận gốc thì cho rằng phương pháp
điều trị này có kết quả tốt hơn về thời gian
sống còn(13). Trong khi đó nhiều tác giả lại cho
thấy lợi điểm của phẫu thuật cắt bàng quang
bán phần cùng với phần mô của dây chằng
rốn, với một tỉ lệ lớn bệnh nhân được chữa
khỏi và đảm bảo chất lượng sống của bệnh
nhân(4,17,11).
Hiện nay, vẫn chưa có phân giai đoạn chính
thức ung thư ống niệu rốn.
Sheldon và cộng sự (1984) đưa ra hệ thống
phân loại với 4 mức xâm lấn.
Jehonathan H.(13). cũng đề nghị phân chia độ
xâm lấn của bướu như sau:
Giai đoạn I, bướu chỉ ở lớp dưới niêm
Giai đoạn II, bướu đến lớp cơ bàng quang
Giai đoạn III, bướu vượt qua mô xung quanh
ống niệu rốn hoặc mô mềm bàng quang
Giai đoạn IV, bướu xâm lấn cơ quan xung
quanh bao gồm cả thành bụng
Hệ thống phân loại của Mayo Clinic(2) dựa
trên cải tiến hệ thống phân loại của Henly với 4
giai đoạn được xác định:
Giai đoạn I, khối bướu chỉ giới hạn ở ống
niệu rốn và /hoặc bàng quang.
Giai đoạn II, các khối bướu vượt ra ngoài lớp
cơ của ống niệu rốn và / hoặc bàng quang.
Giai đoạn III, khối bướu xâm nhập vào các
hạch bạch huyết gần.
Giai đoạn IV, khối bướu xâm nhập hạch
bạch huyết xa hoặc di căn xa.
Tiên lượng của bệnh lý ung thư ống niệu rốn
thì thường rất xấu(17). Nghiên cứu của Mayo
clinic cho thấy 59% bệnh nhân đã có di căn khi
phát hiện bệnh(2). Và 92% bệnh nhân này sẽ tử
vong trong khoảng thời gian 1 năm(2). Khác với
ung thư tế bào chuyển tiếp của bàng quang, cho
đến nay các tác giả nhận thấy hóa trị toàn thân
và xạ trị hầu như không có ý nghĩa đáng kể
trong điều trị phối hợp của bệnh lý này(4). Cũng
có một vài báo cáo về hóa trị toàn thân cho ung
thư ống niệu rốn(5,6,7,8,16). Báo cáo với nhiều ca lâm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 45
sàng nhất và theo dõi lâu nhất của Mayo clinic
trên 29 bệnh nhân có di căn với các phát đồ
cisplatin (50% bệnh nhân), doxorubicin (36%
bệnh nhân), cyclophosphamide (21% bệnh
nhân), 5-fluorouacil (21% bệnh nhân), and
paclitaxel (14% bệnh nhân) cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về khoảng thời
gian sống còn của nhóm nhận hóa trị và nhóm
không hóa trị(2).
Năm 2002 Arlene O. và cộng sự(16) đã nhấn
mạnh trong nghiên cứu của mình về sự giống
nhau giữa ung thư ống niệu rốn và ung thư
đại tràng thể hiện trên kháng nguyên phôi
(carcinoembryonic antigene) và CA 19-9 cũng
thường tăng trong ung thư ống niệu rốn.
Những chất chỉ điểm sinh học này có thể giúp
theo dõi tình trạng đáp ứng điều trị, tiến triển
và tái phát bệnh.
KẾT LUẬN
Ung thư ống niệu rốn là một bệnh lý hiếm
gặp với tiên lượng rất xấu. Phẫu thuật vẫn là
phương pháp điều trị chính và bao gồm việc cắt
bỏ bướu ung thư ống niệu rốn và cắt bỏ toàn
phần hoặc bán phần bàng quang với cân cơ phúc
mạc thành một khối. Phải đảm bảo biên phẫu
thuật sạch tế bào bướu vì có ý nghĩa tiên lượng
thời gian sống còn cho bệnh nhân. Hóa trị và xạ
trị không cho thấy hiệu quả điều trị rõ ràng. Vì
vậy, đây là một bệnh hiếm gặp nhưng rất nguy
hiểm nếu không được chẩn đoán và điều trị
đúng mức. Nhất là với ung thư ống niệu rốn xảy
ra trên bệnh nhân có tồn tại ống niệu rốn trong
thời gian dài. Các bệnh nhân khi có các bất
thường của ống niệu rốn nên được chỉ định điều
trị phẫu thuật từ lúc phát hiện nhằm loại bỏ
nguy cơ phát triễn thành tổn thương ác tính về
sau. Ngoài ra, một khối bướu vùng chóp bàng
quang thì nên nghĩ đến ung thư ống niệu rốn,
đặc biệt là khi kết quả giải phẫu bệnh là ung thư
tế bào tuyến (adenocarcinoma).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ashley RA1, Inman BA, Sebo TJ, Leibovich BC, Blute ML,
Kwon ED, Zincke H (2006). Urachal carcinoma:
clinicopathologic features and long-term outcomes of an
aggressive malignancy. Cancer.. Vol107 :712-20.
2. Ashley R.A, Brant A. Inman, Thomas J. Sebo, Bradley C.
Leibovich, M, Michael L. Blute, Eugene D. Kwon, Horst
Zincke: Urachal Carcinoma (2006). Clinicopathologic Features
and Long-Term Outcomes of an Aggressive Malignancy.
American Cancer Society.
3. Frimberger DC, Bradley P. Kropp (2012). Bladder Anomalies
in Children. Campbell-Walsh Urology, Tenth Edition, 3379 –
3388.
4. Henly D.R., Farrow G.M. and Zincke H. (1993). Urachal
cancer: role of conservative surgery. Urology, 42: 635.
5. Johnson, D. E., Hodge, G. B., Abdul-Karim, F. W. and Ayala,
A. G. (1985). Urachal carcinoma. Urology, 26: 218.
6. Kakizoe T., Matsumoto K., Andoh M., Nishio, Y. and Kishi, K.
(1983). Adenocarcinoma of urachus. Report of 7 cases and
review of literature. Urology, 21: 360.
7. Kawakami S., Kageyama, Y., Yonese, J., Fukui, I., Kitahara, S.,
Arai, G. et al (2001). Successful treatment of metastatic
adenocarcinoma of the urachus: report of 2 cases with more
than 10-year survival. Urology, 58: 462.
8. Logothetis C.J., Samuels, M. L. and Ogden, S. (1985).
Chemotherapy for adenocarcinomas of bladder and urachal
origin: 5-fluorouracil, doxorubicin, and mitomycin-C.
Urology, 26: 252.
9. Lane, V. (1976). Prognosis in carcinoma of the urachus. Eur
Urol, 2: 282.
10. Nguyễn Đạo Thuấn, Vũ Văn Ty, Lê Anh Tuấn (2007). Ung
thư ống niệu rốn: một số kinh nghiệm về chẩn đoán và điều
trị. Hội nghị niệu – thận học TP. Hồ Chí Minh; tr.135-139.
11. Milhoua PM, Knoll, Clifford B (2006). Bleustein, And Reza
Ghavamian: A Laparoscopic partial cystectomy for treatment
of adenocarcinoma of the urachus. Urology 67: 423.e15–
423.e17.
12. Sheldon C.A., Clayman R.V., Gonzalez R., Williams R.D. and
Fraley E.E. (1984). Malignant urachal lesions. J Urol, 131: 1.
13. Pinthus J.H., Riad Haddad, Trachtenberg J., Eric Holowaty,
Jeff Bowler, Andrew M. Herzenberg, Michael Jewett and Neil
E. Fleshner (2006). Population Based Survival Data on Urachal
Tumors . The Journal Of Urology, Vol. 175, 2042-2047.
14. Siefker-Radtke, A. O., Gee, J., Shen, Y., Wen, S., Daliani, D.,
Millikan, R. E. et al (2003). Multimodality management of
urachal carcinoma: the M. D. Anderson Cancer Center
experience J Urol, 169: 1295.
15. Santucci R. A., True, L. D. and Lange, P. H. (1997). Is partial
cystectomy the treatment of choice for mucinous
adenocarcinoma of the urachus? Urology, 49: 536.
16. Siefker-Radtke A.O., Jason Gee, Yu Shen, Sijin Wen, Danai
Daliani, Randall E. Millikan‡ And Louis L. Pisters (2003).
Multimodality Management Of Urachal Carcinoma: The M.
D. Anderson Cancer Center Experience. The Journal Of
Urology, Vol. 169, 1295–1298.
17. Wadhwa P., Surendra B. Kolla, and Ashok K. Hemal (2006).
Laparoscopic en bloc partial cystectomy with bilateral pelvic
lymphadenectomy for urachal adenocarcinoma. Urology 67:
837–843.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 46
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_ung_thu_ong_nieu_ron_o_giai_doan_tre.pdf