Nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân và đáp ứng của một số bệnh viện tuyến trung ương

Khuyến nghị Về các qui định pháp lý - Để thực hiện tốt Thông t 08, cần có qui định rõ ai là ngời chịu trách nhiệm việc đánh giá dinh dỡng cho bệnh nhân khi nhập viện và đánh giá dinh dỡng trong quá trình nằm viện và đa hoạt động này thành một hoạt động thờng quy và là một tiêu chí trong đánh giá, kiểm tra bệnh viện. - Cần có qui định bắt buộc hội chẩn phải có sự tham gia của bác sĩ dinh dỡng. - Các chế độ ăn theo hớng dẫn của Bộ Y tế chỉ nêu nguyên tắc, còn chế độ ăn phải theo vùng miền. Về tuyên truyền - Cần cung cấp t liệu cho việc tuyên truyền giáo dục bệnh nhân. Hiện nay, việc truyền thông giáo dục bệnh nhân gặp khó khăn do không có t liệu. Mặt khác, các thông tin tuyên truyền do các bệnh viện tự thiết kế nên cha thống nhất. - Bên cạnh việc phát triển đội ngũ, mạng lới thày thuốc dinh dỡng tại các bệnh viện cho tơng lai thì cần có các tập huấn nâng cao kiến thức và thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của dinh dỡng đối với hồi phục bệnh cho các bác sĩ điều trị và các điều dỡng viên, là những ngời hiện nay trực tiếp t vấn, hớng dẫn về dinh dỡng, chếđộ ăn cho bệnh nhân. Về phát triển mạng lới Cần bổ sung thêm nhân lực làm công tác dinh dỡng tiết chế trong bệnh viện để có thể triển khai đợc hoạt động t vấn dinh dỡng cho bệnh nhân. - Cần có dụng cụ cân, kiểm tra dinh dỡng cho các bệnh nhân nặng. - Cần có hệ thống nối mạng trong toàn bệnh viện để các thày thuốc dinh dỡng có thể quản lý và t vấn dinh dỡng trực tiếp cho bệnh nhân nội trú. - Cần xây dựng và phát triển công tác chăm sóc dinh dỡng của các bệnh viện tuyến dới Về cung ứng suất ăn cho bệnh nhân nội trú Việc triển khai bếp ăn nên theo mô hình bếp ăn xã hội hóa tự hạch toán, tất cả là dịch vụ nhng đợc kiểm soát theo quy trình. Về nghiên cứu tiếp theo Cần có các nghiên cứu toàn diện về tình trạng dinh dỡng của bệnh nhân nội trú và các phơng pháp đánh giá tình trạng dinh dỡng của bệnh nhân trong điều kiện hiện nay.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 35 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân và đáp ứng của một số bệnh viện tuyến trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25 NHU CầU CHĂM SóC DINH DƯỡNG CủA BệNH NHÂN Và ĐáP ứNG CủA MộT Số BệNH VIệN TUYếN TRUNG ƯƠNG 1 TS. Phan Hồng Vân và cộng sự Đặt vấn đề Theo quan điểm y học hiện đại, dinh dưỡng không đơn thuần chỉ là một phương thức hỗ trợ mà cùng với thuốc dinh dưỡng đã trở thành một phác đồ điều trị cần thiết với mọi bệnh lý. Khi dinh dưỡng không đủ, không hợp lý, cơ thể sẽ không có sức lực chống đỡ bệnh tật. ở các nước phát triển, việc điều trị cho bệnh nhân thường do một ê kíp trị liệu, bao gồm: bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia dinh dưỡng và điều dưỡng, trong đó bác sĩ kê đơn thuốc, dược sĩ có ý kiến về việc tương tác của các thuốc trong đơn, chuyên gia dinh dưỡng cho ý kiến về nhu cầu calo, chế độ ăn của bệnh nhân và điều dưỡng góp ý về chăm sóc bệnh nhân. Sự phối hợp này sẽ giúp cho việc nâng cao hiệu quả điều trị. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc chăm sóc dinh dưỡng trong bệnh viện, ngày 26/1/2011 Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 08/2011/TT- BYT hướng dẫn về công tác dinh dưỡng, tiết chế trong bệnh viện. Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang thiếu đội ngũ cán bộ dinh dưỡng tại bệnh viện trong khi trình độ hiểu biết của bác sĩ điều trị và điều dưỡng về chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân còn hạn chế đã làm hạn chế chất lượng điều trị. Việc cung cấp dinh dưỡng, chế độ ăn cho bệnh nhân hầu như do người nhà đảm nhận, thành phần dinh dưỡng không đáp ứng được các dạng bệnh tật khác nhau. Mới có một số ít bệnh viện trung ương có thày thuốc dinh dưỡng và xây dựng được trung tâm dinh dưỡng tiết chế và bếp ăn cung cấp các suất ă n theo chế độ bệnh lý cho một số loại bệnh. Tuy nhiên, việc cung ứng này mới đáp ứng phần nào nhu cầu dinh dưỡng trong điều trị bệnh cho bệnh nhân. Các cơ sở y tế của Việt Nam rất cần có chương trình can thiệp dinh dưỡng sớm cho người bệnh nhằm góp phần rút ngắn thời gian điều trị trong bệnh viện, giảm chi phí đáng kể cho bệnh nhân và bệnh viện. Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, trong phần “Các vấn đề dinh dưỡng cần giải quyết đến năm 2020” đã chỉ rõ:“Hệ thống dinh dưỡng lâm sàng và tiết chế trong bệnh viện chưa được quan tâm đúng mức và bị ảnh hưởng do quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường Mạng lưới triển khai các hoạt động dinh dưỡng còn chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ làm công tác dinh dưỡng ở cộng đồng và bệnh viện còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng”. Chiến lược cũng đưa ra định hướng cần phát triển hệ thống dinh dưỡng bệnh viện nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của người dân: “Hệ thống này cần được khôi phục và phát triển để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng cho các nhóm bệnh và đối tượng đặc thù.” Bên cạnh đó, việc thiết lập và triển khai hệ thống dinh dưỡng tiết chế trong các bệnh viện là điều cần thiết nhằm tăng chất lượng điều trị và giảm số ngày nằm viện, góp phần giảm tải cho các bệnh viện, nhất là các bệnh viện trung ương. Để góp phần cung cấp thông tin cho việc đề xuất các giải pháp cần thiết để thiết lập và vận hành hệ thống này, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về "Nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân và đáp ứng của một số bệnh viện tuyến trung ương". 1 Trưởng phòng Quản lý Khoa học - Đào tạo - Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí Xỏc định /đỏn h gi ỏ vấ n đề Xỏc định vấn đề v à cỏc chủ đề c hớnh Tổ c hức in tư vấn của cỏc b ờn li ờn quan - Chu ẩn b ị RIA sơ b ộ Chu ẩn b ị RI A mộ t ph ần Chu ẩn b ị cỏ c v ăn b ản th am v ấn (b ao gồm RIA một phầ n) v à ph ổ biế n Tha m v ấn c ủa c ỏc b ờn li ờn q uan T iến h ành chớn h thứ c xin tham vấn , và/h oặc thu t hập cỏc t ờ trỡn h viế t tay T iến h ành điều tra n ếu c ần th iết Thu thậ p số liệu và p hõn tớch Túm tắt c ỏc th am v ấn, t hu th ập v à phõn tớch số l iệu. Xỏc định cỏc vấn đề tồ n tại Chu ẩn b ị bỏ o cỏ o RI A đầy đủ Chu ẩn b ị RIA đầy đủ, b ao g ồm túm tắt cỏ c tha m vấ n Thụ ng q ua b ỏo c ỏo R IA Đệ t rỡnh lấy chữ ký c ủa th ủ trư ởng cỏc c ơ qu an n hà n ước cú tr ỏch nhiệ m Cú c ần p hải t ham vấn và/h oặc c ần thờm số liệu sõu hơn khụn g? Cú Khụ ng Nhữ ng k ết qu ả ban đầu cú g iỳp ớ ch ch o RI A một phần khụ ng? Cú Khụ ng 26 Nghiên cứu chính sách Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả thực trạng công tác chăm sóc dinh dưỡng cho bệnh nhân nội trú tại một số bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tuyến trung ương; 2. Tìm hiểu nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân nội trú; 3. Đề xuất một số giải pháp góp phần cải thiện công tác chăm sóc dinh dưỡng tiết chế tại các bệnh viện. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, chọn mẫu có chủ đích. Địa bàn nghiên cứu: Chọn mẫu có chủ đích gồm 4 bệnh viện đa khoa và 1 bệnh viện chuyên khoa tuyến trung ương. Phương pháp thu thập thông tin: - Thu thập và phân tích các số liệu thứ cấp. - Phỏng vấn sâu: lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo Khoa/Trung tâm Dinh dưỡng bệnh viện, thày thuốc trực tiếp khám/tư vấn dinh dưỡng cho bệnh nhân. - Thảo luận nhóm: nhóm lãnh đạo các khoa phòng của bệnh viện, nhóm cán bộ khám/điều trị/tư vấn và nhóm cung cấp các dịch vụ dinh dưỡng. - Phỏng vấn bằng phiếu hỏi bán cấu trúc với tổng số 324 bệnh nhân nội trú của 5 bệnh viện. Một số kết quả nghiên cứu chính Thực trạng công tác chăm sóc dinh dưỡng tiết chế tại bệnh viện trung ương Các bệnh viện điều tra đều có Khoa Dinh dưỡng hoặc Trung tâm Dinh dưỡng và mạng lưới dinh dưỡng tiết chế trong bệnh viện và thực hiện các chức năng, hoạt động như Thông tư 08 qui định. Mạng lưới này có sự tham gia của các khoa điều trị trong toàn bệnh viện. Chức năng chỉ đạo tuyến chuyên ngành dinh dưỡng lâm sàng đã được các bệnh viện đa khoa trung ương triển khai thực hiện. Các bệnh viện đều đã triển khai cung cấp các suất ă n bệnh lý theo qui định của Bộ Y tế. Công tác tư vấn, tuyên truyền, giáo dục về chăm sóc dinh dưỡng cho bệnh nhân bước đầu được triển khai. Nhận thức của bác sĩ điều trị về tầm quan trọng của chăm sóc dinh dưỡng trong điều trị bệnh ngày càng được nâng cao: “Bệnh nhân suy dinh dưỡng chậm lành vết thương, kéo dài thời gian điều trị, tăng viện phí, tăng tiền chi trả của bảo hiểm. Nếu ăn qua đường miệng tốt, thì BHYT sẽ giảm chi phí cho chai dịch truyền Bệnh nhân suy dinh dưỡng hay biến chứng sau phẫu thuật, kháng sinh phải dùng liều cao, kéo dài thời gian nằm viện” (PVS bác sĩ điều trị tại một bệnh viện đa khoa TW). Tuy vai trò của thày thuốc dinh dưỡng được đánh giá cao hơn, nhưng cho tới nay chưa có qui định nào bắt buộc khi Hội chẩn phải có sự tham gia của thày thuốc dinh dưỡng. Công tác dinh dưỡng, tiết chế với bệnh nhân nội trú: Khi nhập viện - Tỉ lệ bệnh nhân được đo chiều cao và cân trọng lượng khi nhập viện không cao: 50% được kiểm tra cân nặng; 37% được đo chiều cao; 45% được hỏi về tình trạng ăn uống; Vẫn còn 34% bệnh nhân không được kiểm tra về dinh dưỡng khi nhập viện. (Xem bảng 1) Bảng 1: Các hoạt động đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân khi nhập viện (n = 324) Các hoạt động Cân trọng lượng Đo chiều cao Số người được kiểm tra Tỉ lệ % 157 120 48,5 37% Trình độ học vấn Không biết chữ (n = 11) 45,5% 54,5% 1 Hết cấp 1 (n = 61) 44,3% 55,7% 1,7 0,4 - 7,4 Hết cấp 2 (n = 98) 46,9% 53,1% 1,9 0,5 - 7,8 Các hoạt động Đo lớp mỡ dưới da Đo cơ bắp tay Kiểm tra tình trạng phù Tình trạng ăn uống Khẩu vị ăn uống Không được kiểm tra gì Tổng Số người được kiểm tra Tỉ lệ % 30 30 145 66 109 324 81 9,3 9,3 44,8 20,4 33,6 100% 25 Khi xem xét việc cân trọng lượng cho bệnh nhân khi nhập viện theo các yếu tố nhân khẩu, xã hội, kinh tế của bệnh nhân thì thấy việc bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện không có mối liên quan với các yếu tố như: giới, tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nơi cư trú. Chỉ có yếu tố kinh tế hộ gia đình là có liên quan đến việc được cân trọng lượng khi nhập viện hay không. Theo đó, những bệnh nhân có mức kinh tế trung bình được cân trọng lượng khi nhập viện thấp hơn hẳn bệnh nhân nghèo (chỉ bằng 0,5 lần so với bệnh nhân nghèo) và sự khác biệt này có ý Bảng 2: Tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện phân bố theo các yếu tố nhân khẩu, kinh tế (N = 324) nghĩa thống kê. Tỉ lệ bệnh nhân có mức kinh tế khá được cân trọng lượng khi nhập viện thấp nhất so với nhóm kinh tế nghèo và trung bình (chỉ bằng 0,2 lần so với nhóm kinh tế nghèo), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. (Xem bảng 2). Điều này có thể được lý giải là do các bệnh nhân nghèo thường có thể trạng kém hơn so với các bệnh nhân khác nên đã được các thày thuốc chú ý đến việc đánh giá dinh dưỡng của bệnh nhân hơn khi làm các thủ tục nhập viện. Cân trọng lượng Tỉ suất chênh 95% CICó n = 157 Nam (n = 154) 50,6% 49,4% Không n = 167 Các yếu tố nhân khẩu, kinh tế của bệnh nhân Giới 1 Nữ (n = 170) 46,5% 53,5% 0,9 0,5 -1,4 Tuổi < 16 tuổi (n = 7) 85,7% 14,3% 1 16-59 tuổi (n = 263) 46,0% 54,0% 0,1 0,0 -1,0 > = 60 tuổi (n = 54) 55,6% 44,4% 0,4 0,0 - 4,4 Nghề nghiệp Nông dân (n = 94) 46,8% 53,2% 1 Làm công ăn lương (n = 84) 51,2% 48,8% 1,0 0,5 - 2,2 Kinh doanh dịch vụ (n = 21) 47,6% 52,4% 1,0 0,3 - 3,0 Làm thuê, tự do (n = 47) 44,7% 55,3% 0,9 0,4 - 2,1 Hưu/Già yếu (n = 55) 43,6% 56,4% 0,4 0,1 - 1,0 Khác (n = 23) 65,2% 34,8% 1,9 0,7 - 5,3 Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 27 28 Nghiên cứu chính sách Khi xem xét bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện theo hình thức chi trả cho đợt điều trị đó cho thấy, tỉ lệ bệnh nhân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cân trọng lượng là cao hơn gấp 2,7 lần so với bệnh nhân nhập viện điều trị tự chi Trình độ học vấn Hết cấp 3 (n = 80) 48,8% 51,3% 1,9 Sơ/trung cấp (n = 24) 58,3% 41,7% 3,4 0,6 - 18,1 CĐ/ĐH trở lên (n = 50) 52,0% 48,0% 2,1 0,4 - 9,9 Cân trọng lượng Tỉ suất chênh 95% CICó n = 157 Không n = 167 Các yếu tố nhân khẩu, kinh tế của bệnh nhân 0,4 - 7,9 Nông thôn (n = 209) 45,9% 54,1%Nơi cư trú 1 Thành thị (n = 115) 53,0% 47,0% 1,6 0,9 - 2,9 Mức sống HGĐ Nghèo (n = 87) 58,6% 41,4% 1 Trung bình (n = 230) 45,2% 54,8% 0,5 *0,3 - 0,9 Khá giả (n = 7) 28,6% 71,4% 0,2 0,0 - 1,2 trả bằng tiền túi (Xem bảng 3). Điều này cho thấy bệnh nhân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện các qui trình khám chữa bệnh theo đúng quy định hơn so với bệnh nhân tự trả phí. Bảng 3: Tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng khi vào viện theo hình thức chi trả cho đợt điều trị đó Khi xem xét bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện theo các bệnh viện của nghiên cứu cho thấy so với bệnh nhân của Bệnh viện Bạch Mai thì tỉ lệ bệnh nhân của Bệnh viện K và Bệnh viện Trung ương Huế được cân trọng lượng lúc nhập viện cao hơn hẳn. Bệnh viện Trung ương Huế có tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng lúc nhập viện là cao nhất (82%), cao hơn 10,6 lần so với tỉ lệ này ở Bệnh viện Bạch Mai. Tỉ lệ bệnh nhân Bệnh viện K được cân trọng lượng lúc nhập viện cao hơn 4,3 lần so với tỉ lệ này ở Bệnh viện Bạch Mai. Các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê. ở Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Trung ương Cần Thơ có tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện tương tự như bệnh nhân của ệnh viện Bạch Mai (hơn 30%) (Xem bảng 4). B Hình thức chi trả cho lần KCB này Được cân nặng Không được cân nặng Tỉ suất chênh 95% CI N Tự chi trả 23 30,7 52 69,3 1 Thẻ BHYT 134 54,0 114 46,0 *2,7 1,5 - 4,6 % %N Bảng 4: Tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng khi vào viện theo các bệnh viện của nghiên cứu Bạch Mai (n = 88) 26 29,5 62 70,5 1 Được cân nặng Không được cân nặng Tỉ suất chênh 95% CI N % %N Bệnh viện K (n = 25) 16 64 9 36 *4,3 1,7 - 10,8 Trung ương Huế (n = 87) 71 81,6 16 18,4 *10,6 5,2 - 21,5 Chợ Rẫy (n = 76) 26 34,2 50 65,8 1,2 0,6 - 2,4 Trung ương Cần Thơ (n = 48) 26 34,2 50 65,8 1,2 0,6 - 2,4 29 Các nghiên cứu định tính cũng cho thấy ở hầu hết các bệnh viện, trước khi có Thông tư số 08/2011/TT-BYT, chỉ có một tỉ lệ bệnh nhân được cân trọng lượng khi nhập viện và việc cân trọng lượng bệnh nhân mang tính lý thuyết, hình thức, không được nhân viên bệnh viện tuân thủ nghiêm ngặt như một hoạt động thường qui. Sau khi Thông tư 08 ra đời, các bệnh viện đều triển khai thực hiện. Tuy nhiên, có những điểm chưa được qui định rõ như tại Chương I, Điều 2 qui định khi người bệnh vào viện phải được đo chiều cao, cân nặng và ghi vào hồ sơ bệnh án, nhưng không qui định cụ thể ai là người phải chịu trách nhiệm làm việc này. Một vấn đề nảy sinh khi kiểm tra trọng lượng cho bệnh nhân nặng phải nằm hồi sức thì không có dụng cụ nào để kiểm tra. “... trước đây không có bệnh viện nào cân bệnh nhân hết. Khi có thông tư đã triển khai mạng lưới các khoa cũng bắt đầu thực hiện khá tốt... Nhưng cần phải quy định rõ là ai làm, là bác sĩ hay điều dưỡng Dụng cụ cho bệnh nhân thường thì không vấn đề gì, nhưng bệnh nhân không đứng cân được, bệnh nhân khoa hồi sức thì cái đó là vấn đề.” (PVS Thày thuốc điều trị tại một Bệnh viện TW). Trên thực tế, chỉ những bệnh nhân nặng có dấu hiệu suy kiệt mới được kiểm tra dinh dưỡng. Việc kiểm tra này chủ yếu là hỏi bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân về tình trạng cân nặng của bệnh nhân. Nếu các qui định về cân trọng lượng và đo chiều cao của bệnh nhân nhập viện được đưa vào qui trình thường quy và có trong danh mục kiểm tra bệnh viện thì các nội dung này mới có thể được làm thường xuyên trên thực tế. - Khi nhập viện, 58% bệnh nhân được tư vấn thức ăn phù hợp với bệnh lý; 18% về cách tính calo, dinh dưỡng; 33% về số bữa ăn phù hợp; 30% về giờ ăn; 30% về cách thức ăn; vẫn còn 22% số bệnh nhân không được hướng dẫn, tư vấn chế độ ă n bệnh lý. - Bác sĩ điều trị là người tư vấn về dinh dưỡng chính cho bệnh nhân nội trú (59%), điều dưỡng viên (30%), bác sĩ phòng khám (11%); thày thuốc dinh dưỡng chỉ chiếm hơn 4%. Trong quá trình điều trị tại bệnh viện Theo qui định của các bệnh viện, các bệnh nhân sau một thời gian nằm viện đều được đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng kiểm tra cân nặng và làm các xét nghiệm máu các chỉ số liên quan. Tuy nhiên, kết quả điều tra bệnh nhân tại các bệnh viện cho thấy có đến 50% số bệnh nhân trả lời họ chưa được kiểm tra cân nặng lần nào trong quá trình nằm điều trị. Số bệnh nhân được kiểm tra cân nặng hàng ngày là 12%; số bệnh nhân được kiểm tra cân nặng khi có vấn đề là 24%; số bệnh nhân được kiểm tra cân nặng hàng tuần là 12%. Hiện nay, tại các bệnh viện, việc tư vấn và chăm sóc dinh dưỡng cho bệnh nhân là trách nhiệm của bác sĩ điều trị. Bác sĩ dinh dưỡng chỉ được mời tham gia tư vấn hoặc hội chẩn khi bệnh nhân có vấn đề đặc biệt. Kết quả khảo sát bệnh nhân cho thấy 66% bệnh nhân nhận tư vấn Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí Được cân nặng Không được cân nặng Tỉ suất chênh 95% CI N % %N Bệnh viện 30 Nghiên cứu chính sách dinh dưỡng từ bác sĩ điều trị; 14% từ điều dưỡng viên; chỉ có 1% từ thày thuốc dinh dưỡng; có khoảng 4% từ người thân, bệnh nhân cùng phòng hoặc qua sách báo. Vẫn còn hơn 15% số bệnh nhân không có thông tin về dinh dưỡng từ bất cứ nguồn nào. - Về chất lượng tư vấn dinh dưỡng của các bác sĩ điều trị: 89% đánh giá là rất tốt/tốt. Về chất lượng tư vấn của các điều dưỡng viên: 78% bệnh nhân đánh giá là rất tốt/tốt. Về tư vấn của thày thuốc dinh dưỡng: 100% đánh giá là rất tốt/tốt. - Về thái độ tư vấn của các bác sĩ điều trị: 75% đánh giá là tận tâm, nhiệt tình; 24% bình thường, chấp nhận được; 0,5% là thờ ơ, làm cho xong chuyện. Với các điều dưỡng viên: 59% đánh giá là nhiệt tình, tận tâm; 39% có thái độ bình thường; 2% có thái độ thờ ơ, làm cho qua chuyện. Với các thày thuốc dinh dưỡng, 100% đánh giá là thái độ tận tâm, nhiệt tình. - Về cách thức tư vấn dinh dưỡng: 44% đưa ra các định mức cho bệnh nhân tự tính chế độ ă n; 22% cung cấp thực đơn để tự cung cấp bữa ăn; 26% bệnh nhân được cung cấp suất ăn theo bệnh; có 2% bệnh nhân chỉ được tư vấn chung về các loại thức ă n phù hợp với bệnh lý. - Về địa điểm tư vấn: 75% được tư vấn dinh dưỡng tại giường; 17% tại buổi họp bệnh nhân; 4% tại phòng tư vấn của bệnh viện; hơn 4% từ tài liệu hướng dẫn, sách báo. - Nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày cho bệnh nhân nội trú hiện nay chủ yếu là do bệnh viện cung cấp theo chế độ bệnh (43%); 34% bệnh nhân sử dụng thức ă n do gia đình nấu và có 23% bệnh nhân dùng thức ă n do gia đình mua ở bên ngoài. Nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân nội trú Quan điểm và tuân thủ của bệnh nhân với chế độ dinh dưỡng bệnh lý - 93% bệnh nhân có quan điểm chế độ ăn rất quan trọng trong việc điều trị bệnh. Vẫn còn 7% chưa thấy tầm quan trọng của chế độ ăn bệnh lý. - 90% bệnh nhân tuân thủ chế độ dinh dưỡng do thày thuốc tư vấn; 10% không tuân thủ do thấy không cần thiết, không tin tưởng vào tư vấn của thày thuốc; thấy không thực tế, không đủ tiền mua thức ă n theo tư vấn của thày thuốc. Nhu cầu chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân nội trú - 40% muốn được bệnh viện cung cấp các suất ă n theo chế độ bệnh tại giường; 30% muốn được bệnh viện cung cấp thực đơn theo chế độ bệnh để gia đình tự chế biến; 26% muốn bệnh viện cung ứng bếp ăn để bệnh nhân tự đặt ăn theo bệnh và khẩu vị; 3% không có nhu cầu gì. (Xem hình 1) Hình 1: Phân bố nhu cầu của bệnh nhân về thức ăn do bệnh viện cung cấp 30% 41% 26% 3% Bệnh viện cung cấp các thực đơn theo chế độ bệnh Bệnh viện cung cấp các suất ăn theo chế độ bệnh viện tại giường Bệnh viện cung ứng bếp ăn để tự đặt ăn theo bệnh và khẩu vị Không có nhu cầu, muốn tự nấu ăn 31 - 46% muốn nhận tư vấn dinh dưỡng ngay khi nhập viện; 44% cần được tư vấn dinh dưỡng hàng ngày khi nằm điều trị; 24% muốn được tư vấn dinh dưỡng bất cứ lúc nào; 8% cần được tư vấn dinh dưỡng trước khi ra viện; 1% không có nhu cầu tư vấn dinh dưỡng. - 73% muốn được bác sĩ điều trị tư vấn; 26% muốn được thày thuốc dinh dưỡng tư vấn; 19% muốn nhận tư vấn từ điều dưỡng viên. - 57% muốn được tư vấn tại giường; 37% muốn được tư vấn tại phòng bệnh; 9% muốn nhận thông tin khi họp nhóm bệnh nhân; 6% bệnh nhân muốn nhận tư vấn tại phòng khám tư vấn dinh dưỡng. Khuyến nghị Về các qui định pháp lý - Để thực hiện tốt Thông tư 08, cần có qui định rõ ai là người chịu trách nhiệm việc đánh giá dinh dưỡng cho bệnh nhân khi nhập viện và đánh giá dinh dưỡng trong quá trình nằm viện và đưa hoạt động này thành một hoạt động thường quy và là một tiêu chí trong đánh giá, kiểm tra bệnh viện. - Cần có qui định bắt buộc hội chẩn phải có sự tham gia của bác sĩ dinh dưỡng. - Các chế độ ă n theo hướng dẫn của Bộ Y tế chỉ nêu nguyên tắc, còn chế độ ăn phải theo vùng miền. Về tuyên truyền - Cần cung cấp tư liệu cho việc tuyên truyền giáo dục bệnh nhân. Hiện nay, việc truyền thông giáo dục bệnh nhân gặp khó khăn do không có tư liệu. Mặt khác, các thông tin tuyên truyền do các bệnh viện tự thiết kế nên chưa thống nhất. - Bên cạnh việc phát triển đội ngũ, mạng lưới thày thuốc dinh dưỡng tại các bệnh viện cho tương lai thì cần có các tập huấn nâng cao kiến thức và thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với hồi phục bệnh cho các bác sĩ điều trị và các điều dưỡng viên, là những người hiện nay trực tiếp tư vấn, hướng dẫn về dinh dưỡng, chế độ ă n cho bệnh nhân. Về phát triển mạng lưới Cần bổ sung thêm nhân lực làm công tác dinh dưỡng tiết chế trong bệnh viện để có thể triển khai được hoạt động tư vấn dinh dưỡng cho bệnh nhân. - Cần có dụng cụ cân, kiểm tra dinh dưỡng cho các bệnh nhân nặng. - Cần có hệ thống nối mạng trong toàn bệnh viện để các thày thuốc dinh dưỡng có thể quản lý và tư vấn dinh dưỡng trực tiếp cho bệnh nhân nội trú. - Cần xây dựng và phát triển công tác chăm sóc dinh dưỡng của các bệnh viện tuyến dưới Về cung ứng suất ă n cho bệnh nhân nội trú Việc triển khai bếp ăn nên theo mô hình bếp ăn xã hội hóa tự hạch toán, tất cả là dịch vụ nhưng được kiểm soát theo quy trình. Về nghiên cứu tiếp theo Cần có các nghiên cứu toàn diện về tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nội trú và các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân trong điều kiện hiện nay. TàI LIệU THAM KHảO (1)Bộ Y tế, Thông tư số 07/2011/TT-BYT "Hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện". Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 2011 (2)Bộ Y tế, Thông tư số 08 /2011/TT-BYT "Hướng dẫn về công tác dinh dưỡng, tiết chế trong bệnh viện", Hà Nội, ngày 26 tháng 1 năm 2011 Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 32 Nghiên cứu chính sách (3)Lê Phong, Lê Phi Điệt, Tạ Văn Bình và cộng sự (2008). Hiệu quả tư vấn thay đổi hành vi dinh dưỡng luyện tập cho các đối tượng tiền đái tháo đường tại Thanh Hóa. Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, tập 4 - Số 3+4 - Tháng 12 năm 2008. (4)Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Xuân Ninh, Nguyễn Nguyên Khôi (2006). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ tại bệnh viện Thanh Nhàn - Hà Nội. Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, tập 2 - Số 3+4 - Tháng 11 năm 2006. (5)Nguyễn Thị Vân Anh, Trần Thị Phúc Nguyệt (2008). Thực trạng tư vấn dinh dưỡng tại bệnh viện Bạch Mai năm 2008. Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, tập 4 - Số 3+4 - Tháng 12 năm 2008. (6)Phạm Thu Hương, Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Bích Ngọc và cộng sự (2006). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện khoa tiêu hóa và nội tiết tại bệnh viện Bạch Mai. Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, tập 2 - Số 3+4 - Tháng 11 năm 2006. (7)Viện Dinh dưỡng quốc gia (2011). Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2011 2020 và tầm nhìn 2030.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhu_cau_cham_soc_dinh_duong_cua_benh_nhan_va_dap_ung_cua_mot.pdf
Tài liệu liên quan