Vì trong NSMT sẽ không tránh khỏi chọc
hút dịch nang làm nhỏ thể tích để đưa nang ra
ngoài nên chúng tôi chia sẻ quan điểm chỉ định
ứng dụng NSMT là chỉ cho các UNBTLT(6,7). Do
đó chẩn đoán trước mổ xác định UNBTLT là đặc
biệt quan trọng. Kinh nghiệm của chúng tôi và
các tác giả khác(6) cho thấy chẩn đoán hình ảnh
(siêu âm, CT) và xét nghiệm các tumor marker
(đặc biệt là alpha fetoprotein) là có thể thực hiện
được điều này. Chúng tôi chỉ định NSMT cho
các trường hợp nang buồng trứng thành mỏng,
ranh giới rõ, không có chảy máu trong nang,
không có các thành phần đặc trong nang hoặc
khi có thành phần đặc phải được nghĩ tới là
teratoma trưởng thành với sự có mặt của các tổ
chức mỡ, xương, với alphafetoprotein bình
thường.
Dùng rốn là sẹo tự nhiên cho vết mổ đặt
trocar sẽ tránh để lại sẹo mổ nhìn thấy được, cho
kết quả thẩm mỹ tốt nhất. Lý tưởng nhất cho
NSMT cắt UNBTLT là chỉ cần một vết mổ qua
rốn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
điều này là khả thi trong 82,6% các trường hợp.
Trong 17,4% phải cần đến vết mổ nhỏ tối thiểu
trên xương mu để đưa u nang buồng trứng là
ngoài ổ bụng do phần phụ ngắn, không thể đưa
được qua rốn. Chúng tôi cho rằng trong các
trường họp như vậy dùng vết mổ nhỏ khoảng 2
cm trên xương mu vẫn cho kết quả thẩm mỹ tốt
và giúp cho việc cắt u nang bảo tồn nhu mô
buồng trứng được thuận lợi hơn là chuyển mổ
nội soi thông thường với 3‐4 trocar hoặc chuyển
mổ mở.
4 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội soi một trocar hỗ trợ cắt u nang buồng trứng lành tính ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 180
NỘI SOI MỘT TROCAR HỖ TRỢ CẮT U NANG BUỒNG TRỨNG
LÀNH TÍNH Ở TRẺ EM
Trần Ngọc Sơn*, Trần Quang Vịnh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của kỹ thuật nội soi một trocar hỗ trợ trong phẫu
thuật cắt u nang buồng trứng lành tính ở trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhi với chẩn đoán u nang buồng trứng lành tính được
phẫu thuật nội soi một trocar từ tháng 2/2009 đến tháng 5/2013. Trocar 10 mm qua rốn và ống camera 10 mm
kèm kênh 5 mm cho dụng cụ được sử dụng cho nội soi một trocar. Thành nang buồng trứng được đưa tới lỗ rốn
và tại đây dịch trong nang được hút ra ngoài. Sau đó nang được đưa ra ngoài qua đường rạch rốn (có thể mở
rộng tối thiểu nếu cần) và tiến hành cắt nang, bảo tồn buồng trứng khi có thể. Trong trường hợp phần phụ ngắn
không thể đưa được tới rốn, nang được chọc kim qua thành bụng hút dịch dưới sự quan sát trực tiếp của camera
nội soi. Sau đó nang được đưa ra ngoài ổ bụng qua đường rạch ngang tối thiểu trên xương mu và cắt nang như
đã mô tả.
Kết quả: Có 23 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu với tuổi trung vị là 3 tuổi (dao động từ 8 ngày đến 10
tuổi). Kích thước trung vị của nang là 7 cm (giao động 3‐11 cm). Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy u quái trưởng
thành ở 12 trẻ, nang đơn thuần ở 7 trẻ và nang bì ở 4 trẻ. 19 trường hợp (82,6%) nang được cắt qua rốn và 4
trường hợp (17,4%) – qua đường trên xương mu. Bảo tồn nhu mô buồng trứng đạt được ở 20 trẻ (87,0%). Thời
gian mổ trung bình là 46 ± 15,1 phút (dao động 30‐90 phút). Không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở.
Không có biến chứng trong và sau mổ. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 1,8 ± 0,6 ngày (dao động 1‐3
ngày). Với thời gian theo dõi sau mổ từ 1‐50 tháng, tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt, không bị tái phát. Kết
quả thẩm mỹ sau mổ là rất tốt.
Kết luận: Nội soi một trocar có tính khả thi, an toàn, hiệu quả và có tính thẩm mỹ cao trong điều trị u nang
buồng trứng lành tính ở trẻ em.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi một trocar, u nang buồng trứng lành tính, trẻ em.
ABSTRACT
SINGLE TROCAR LAPAROSCOPIC‐ASSISTED SURGERY FOR BENIGN OVARIAN CYSTIC TUMOR
IN CHILDREN
Tran Ngoc Son, Tran Quang Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 180 ‐ 183
Objective: The aim of this study is to investigate the feasibility, safety and effectiveness of single trocar
laparoscopic‐ assisted surgery for benign ovarian cystic tumor in children.
Methods: Medical records of all patients with diagnosis benign ovarian cystic tumor undergoing single
trocar laparoscopic‐ assisted surgery at our center from February, 2009 to May, 2013 were reviewed. For the
single trocar laparoscopic‐ assisted surgery, a 10 mm umbilical trocar was placed and a 10 mm camera with
engrafted 5 mm working channel was used. The ovarian cystic wall was grasped and brought to the umbilical site
and then the cystic fluid was aspirated outside the peritoneal cavity. After maximal decreasing of the cystic
volume, the cyst was brought out of the abdomen via the umbilical incision (with or without minimal
* Bệnh viện nhi Trung Ương
Tác giả liên lạc: Ts Bs Trần Ngọc Sơn ĐT: 0462738854 Email: drtranson@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 181
enlargement) and excision of the cyst was performed extracorporally, sparing ovarian tissue when possible. In
case of short adnexal pedicle, making delivery of the cyst to the umbilical site impossible, aspiration of the cyst
was performed by needle puncture through the abdominal wall under the laparoscopic control. The cyst then was
delivered out of the abdomen via a minimal transversal suprapubic incision and cystic removal was performed as
described.
Results: 23 patients were identified, with median age of 3 years (ranged from 8 days to 10 years). The
median size of the cyst was 7.0 cm (ranged from 3 cm to 11 cm). In 12 cases the cyst was mature teratoma, in 7 –
simple cyst and in 4 – dermoid cyst. In 19 patients the cyst was excised via the umbilical incision and in 4‐ via
the suprapubic incision. Ovarian tissue sparing was achieved in 20 cases (87.0%). The mean operative time was
46.5 ± 15.1 minutes (ranged 30 ‐ 90 minutes). There was no conversion, no intra‐ or postoperative complication.
The mean postoperative hospital stay was 1.8 ± 0.6 days (ranged 1‐3 days). For the follow up from 1‐ 50 months,
all patients were in good health, without recurrence. The postoperative cosmesis was excellent.
Conclusions: Single trocar laparoscopic‐ assisted surgery is highly feasible, safe, effective, with excellent
cosmesis in management of benign ovarian cystic tumor in children.
Key words: Laparoscopic surgery, single trocar, benign ovarian cystic tumor, children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại đa số u nang buồng trứng ở trẻ em là
lành tính(1,3). Phẫu thuật nội soi thông thường
với 3 trocar đã được ứng dụng rộng rãi điều trị u
nang buồng trứng ở người lớn sau đó là cả ở
trên trẻ em(4). Với sự phát triển của phẫu thuật
nội soi, gần đây các kỹ thuật mới đã được ứng
dụng trong điều trị u nang buồng trứng lành
tính (UNBTLT) ở trẻ em như nội soi 1 đường
rạch, nội soi 1 port, nội soi 1 trocar(5,7). Mục đích
của các kỹ thuật mới này là giảm số lượng các
đường rạch da, giảm bớt sang chấn có thể và đạt
kết quả thẩm mỹ tốt hơn cho bệnh nhân. Trong
điều trị UNBTLT ở trẻ em cho đến nay trên thế
giới mới chỉ có một vài nghiên cứu ứng dụng
các kỹ thuật mới này và còn trên số lượng ít
bệnh nhân(5,7), trong khi ở Việt nam còn chưa có
báo cáo nào về lĩnh vực này. Do đó chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá tính
khả thi, an toàn và hiệu quả của kỹ thuật nội soi
một trocar hỗ trợ (NSMT) cắt UNBTLT ở trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả
của kỹ thuật nội soi một trocar hỗ trợ trong phẫu
thuật cắt u nang buồng trứng lành tính ở trẻ em.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một hồi cứu báo cáo loạt ca bệnh.
Chúng tôi hồi cứu lại hồ sơ bệnh án của tất cả
các bệnh nhi được phẫu thuật NSMT cắt
UNBTLT trong thời gian từ tháng 2/2009 đến
tháng 2/2013 tại bệnh viện Nhi Trung Ương. Các
dữ liệu được tập hợp nghiên cứu bao gồm đặc
điểm bệnh nhân, bệnh cảnh lâm sàng, xét
nghiệm cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, mô
tả trong mổ, phương pháp phẫu thuật, diễn biến
sau mổ và kết quả theo dõi sau ra viện.
Về kỹ thuật mổ NSMT, chúng tôi đặt trocar
10 mm qua rốn và sử dụng camera 10 mm sản
xuất chuyên dụng kèm kênh 5 mm cho dụng cụ
phẫu thuật. Dùng panh cặp thành nang buồng
trứng đưa tới lỗ rốn và tại đây dịch trong nang
được hút ra ngoài. Trong trường hợp nang quá
căng không thể cặp được panh vào thành nang,
tiến hành chọc kim qua thành bụng hút bớt dịch
nang dưới sự quan sát trực tiếp của camera nội
soi. Sau đó nang được đưa ra ngoài qua đường
rạch rốn (có thể mở rộng tối thiểu nếu cần) và
tiến hành cắt nang, bảo tồn nhu mô buồng trứng
khi có thể. Trong trường hợp phần phụ ngắn
không thể đưa được tới rốn, nang được chọc
kim qua thành bụng hút dịch dưới sự quan sát
trực tiếp của camera nội soi. Sau đó nang được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 182
đưa ra ngoài ổ bụng qua đường rạch ngang tối
thiểu trên xương mu và cắt nang như đã mô tả.
KẾT QUẢ
Có 23 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu với
tuổi trung vị là 3 tuổi (dao động từ 8 ngày đến
10 tuổi). Lý do đến khám ở bệnh viện bao gồm
đau bụng ở 14 trẻ (60,9%), rối loạn tiêu hóa ở 2
trẻ (8,7%), gia đình sờ thấy khối u bụng ở 2 trẻ
(8,7%), rối loạn kinh nguyệt ở 1 trẻ (4,3%), phát
hiện u nang tình cờ qua siêu âm ở 1 trẻ (4,3%).
Có 5 trẻ (21,7%) được chẩn đoán siêu âm trước
sinh. Thăm khám lâm sàng thấy 4 bệnh nhân có
chướng bụng, sờ thấy khối u ở 10 bệnh nhân
(43,5%). Siêu âm được thực hiện trên tất cả các
bệnh nhân và CT ‐ ở trên 20 bệnh nhân (87%).
Xét nghiệm alpha fetoprotein được thực hiện
trên 14 bệnh nhân (60,9%) cho kết quả trong giới
hạn bình thường so với tuối. Chẩn đoán trước
mổ xác định là u nang buồng trứng đạt được ở
20 bệnh nhân (87%), trong đó 7 bệnh nhân được
chẩn đoán là u quái trưởng thành (dựa trên đặc
điểm của CT có thành phần mỡ, xương trong u).
3 bệnh nhân còn lại được chẩn đoán là u nang
bạch huyết ổ bụng. Tất cả các bệnh nhân được
chẩn đoán xác định trong mổ là u nang buồng
trứng với 16 trường hợp ở buồng trứng bên phải
(69,6%), 7 trường hợp ở bên trái (30,4%). Kích
thước trung vị của nang là 7 cm (dao động 3 ‐ 11
cm). Trong quá trình phẫu thuật, 15 bệnh nhân
(65,2%) phải cần hút bớt dịch nang (chọc kim
qua thành bụng) để có thể cặp panh vào thành
nang và đưa nang được ra ngoài. 19 trường hợp
(82,6%) nang được cắt qua rốn và 4 trường hợp
(17,4%) – qua đường trên xương mu. Bảo tồn
nhu mô buồng trứng đạt được ở 20 trẻ (87,0%).
Thời gian mổ trung bình là 46 ± 15,1 phút (dao
động 30‐90 phút). Không có bệnh nhân nào phải
chuyển về nội soi thông thường 3‐4 trocar hay
phải chuyển mổ mở. Không có biến chứng trong
và sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy u
quái trưởng thành ở 12 trẻ, nang đơn thuần ở 7
trẻ và nang bì ở 4 trẻ. Thời gian nằm viện sau
mổ trung bình là 1,8 ± 0,6 ngày (dao động 1‐3
ngày). Với thời gian theo dõi sau mổ từ 1‐50
tháng, tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt,
không bị tái phát. Kết quả thẩm mỹ sau mổ là
rất tốt.
BÀN LUẬN
Bước tiến mới của phẫu thuật nội soi là phát
triển các kỹ thuật nội soi giảm tối đa các vết rạch
da, tiến tới phẫu thuật không còn sẹo mổ, tiêu
biểu là các kỹ thuật phẫu thuật nội soi chỉ dùng
một đường vào (1 port, 1 trocar hoặc1 đường
rạch)(8). Phẫu thuật nội soi một đường rạch
(Single Incision Laparoscopic Surgery – SILS)
dùng nhiều trocar được đánh giá là cho kết quả
thẩm mỹ tốt hơn nhưng thực hiện phẫu thuật
này là khó khăn hơn so với phẫu thuật nội soi
thông thường và ứng dụng của kỹ thuật này vẫn
còn tương đối hạn chế(8). Phẫu thuật nội soi một
trocar hỗ trợ (NSMT) là kỹ thuật vẫn đảm bảo
tính thẩm mỹ cao nhưng lại tạo thuận lợi cho
phẫu thuật viên với các thao tác phẫu thuật ở
ngoài ổ bụng bệnh nhân, giống như mổ mở
thông thường. NSMT qua rốn được thực hiện
đầu tiên từ năm 1992 trong cắt ruột thừa viêm(9)
và sau đó được một số các tác giả ứng dụng
phẫu thuật các bệnh lý khác. Theo chúng tôi, đặc
điểm trẻ em với thành bụng mỏng và khoang
bụng nhỏ hơn so với người lớn (các nội quan di
động dễ tiếp cận và dễ đưa ra ngoài ổ bụng hơn)
là một thuận lợi để thực hiện được NSMT ở trẻ
em. Tại bệnh viện Nhi Trung Ương, chúng tôi
đã ứng dụng thành công NSMT điều trị một số
bệnh lý ngoại khoa ở trẻ em như u nang bạch
huyết ổ bụng(10), nối niệu quản‐ niệu quản trong
thận niệu quản đôi(11). Kết quả nghiên cứu này
của chúng tôi cho thấy NSMT có thể ứng dụng
với kết quả tốt trong phẫu thuật điều trị cắt
UNBTLT ở trẻ em.
Các nghiên cứu về phẫu thuật nội soi một
port hay một đường rạch trong cắt UNBTLT ở
trẻ em mới thường chỉ dựa trên một vài ca bệnh
hoặc loạt bệnh nhân hạn chế(5,,6,7). Một trong
những nghiên cứu số lượng bệnh nhi lớn nhất
ứng dụng phẫu thuật 1 port nội soi hoàn toàn
cắt UNBTLT trong ổ bụng cũng chỉ dựa trên 15
bệnh nhân(6). So với báo cáo này, thời gian mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 183
của NSMT cắt UNBTLT trong loạt bệnh nhân
của chúng tôi là ngắn hơn (46 phút so với 134
phút) trong khi tỷ lệ cắt UNBTLT mà bảo tồn
được nhu mô buồng trứng của chúng tôi là cao
hơn (87% so với 40%). Theo chúng tôi, lý giải
cho sự khác biệt này là kỹ thuật nội soi một
trocar hỗ trợ cắt UNBTLT có thuận lợi hơn hẳn
so với nội soi hoàn toàn cắt nang trong ổ bụng vì
thực hiện thao tác bóc cắt nang là ở bên ngoài ổ
bụng giống như mổ mở.
Vì trong NSMT sẽ không tránh khỏi chọc
hút dịch nang làm nhỏ thể tích để đưa nang ra
ngoài nên chúng tôi chia sẻ quan điểm chỉ định
ứng dụng NSMT là chỉ cho các UNBTLT(6,7). Do
đó chẩn đoán trước mổ xác định UNBTLT là đặc
biệt quan trọng. Kinh nghiệm của chúng tôi và
các tác giả khác(6) cho thấy chẩn đoán hình ảnh
(siêu âm, CT) và xét nghiệm các tumor marker
(đặc biệt là alpha fetoprotein) là có thể thực hiện
được điều này. Chúng tôi chỉ định NSMT cho
các trường hợp nang buồng trứng thành mỏng,
ranh giới rõ, không có chảy máu trong nang,
không có các thành phần đặc trong nang hoặc
khi có thành phần đặc phải được nghĩ tới là
teratoma trưởng thành với sự có mặt của các tổ
chức mỡ, xương, với alphafetoprotein bình
thường.
Dùng rốn là sẹo tự nhiên cho vết mổ đặt
trocar sẽ tránh để lại sẹo mổ nhìn thấy được, cho
kết quả thẩm mỹ tốt nhất. Lý tưởng nhất cho
NSMT cắt UNBTLT là chỉ cần một vết mổ qua
rốn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
điều này là khả thi trong 82,6% các trường hợp.
Trong 17,4% phải cần đến vết mổ nhỏ tối thiểu
trên xương mu để đưa u nang buồng trứng là
ngoài ổ bụng do phần phụ ngắn, không thể đưa
được qua rốn. Chúng tôi cho rằng trong các
trường họp như vậy dùng vết mổ nhỏ khoảng 2
cm trên xương mu vẫn cho kết quả thẩm mỹ tốt
và giúp cho việc cắt u nang bảo tồn nhu mô
buồng trứng được thuận lợi hơn là chuyển mổ
nội soi thông thường với 3‐4 trocar hoặc chuyển
mổ mở.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu này cho thấy phẫu thuật
nội soi một trocar hỗ trợ cắt u nang buồng trứng
lành tính ở trẻ em là có tính khả thi, an toàn,
hiệu quả và có tính thẩm mỹ cao. Kỹ thuật này
có thể là một trong những lựa chọn hàng đầu
trong điều trị UNBTLT ở trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Liu H, Wang X, Lu D, Liu Z, Shi G (2013). Ovarian masses in
children and adolescents in China: analysis of 203 cases. J
Ovarian Res,6(1): pp.47.
2. Michelotti B, Segura BJ, Sau I (2010). Surgical management of
ovarian disease in infants, children, and adolescents: a 15‐year
review. J Laparoendosc Adv Surg Tech, 20: pp 261‐264.
3. Vaysse C, Delsol M, Carfagna L (2010). Ovarian germ cell
tumors in children. Management, survival and ovarian
prognosis. A report of 75 cases. J Pediatric Surg, 45: pp 1484‐
1490.
4. Mayer JP, Bettolli M (2009). Laparoscopic approach to ovarian
mass in children and adolescents: already a standard in
therapy. J Laparoendosc Adv Surg Tech A,19 (Suppl 1): pp
111‐115.
5. Lacher M, Kuebler JF, Yannam GR (2013). Single‐incision
pediatric endosurgery for ovarian pathology. J Laparoendosc
Adv Surg Tech A, 23(3): pp 291‐6.
6. Lee SY, Lee HM, Kao CY, Chuang JH (2012). Transumbilical
1‐port laparoscopic resection of benign ovarian tumor. J
Pediatr Surg, 47(7): pp 1340‐1344.
7. Pontarelli EM, Emami C, Nguyen NX, Torres M, Anselmo
DM (2013). Single‐incision laparoscopic resection of ovarian
masses in children: a preliminary report. Pediatr Surg Int, 29
(7): pp 715‐718.
8. Saldaña LJ, Targarona EM (2013). Single‐Incision Pediatric
Endosurgery: A Systematic Review. J Laparoendosc Adv
Surg Tech A, 6;23(5): pp 467‐80.
9. Pelosi MA, Pelosi MA (1992). Laparoscopic appendectomy
using a single umbilical puncture (minilaparoscopy). J
Reprod Med,37(7): pp 588‐594.
10. Son TN, Liem NT (2012). Laparoscopic management of
abdominal lymphatic cyst in children. J Laparoendosc Adv
Surg Tech A, 22(5): pp 505‐507.
11. Liem NT, Dung LA, Viet ND (2012). Single trocar
retroperitoneoscopic assisted ipsilateral ureteroureterostomy
for ureteral duplication. Pediatr Surg Int, 28 (10): pp 1031‐
1034.
Ngày nhận bài 01/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 20/07/2013.
Ngày bài báo được đăng: 15–09‐2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_soi_mot_trocar_ho_tro_cat_u_nang_buong_trung_lanh_tinh_o.pdf