Thứ nhất, cần quy định quyền sống
của trẻ em thành một điều luật riêng biệt
trong Hiến pháp chứ không nên lồng ghép
vào quy định quyền sống của con người tại
Điều 19 như hiện nay. Với quy định hiện
tại có hai hạn chế lớn: Một là, chưa làm
nổi bật một trong những quyền quan trọng
nhất của trẻ em trong Hiến pháp khiến cho
việc tìm hiểu những quyền trẻ em trong
Hiến pháp bị “hoà lẫn” trong quyền con
người nói chung; Hai là, khó lòng làm rõ
nội hàm quyền sống của trẻ em ở trong văn
bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến
pháp. Chúng tôi cho rằng quyền sống của
trẻ em cần phải được ghi nhận cụ thể hơn
trong quyền sống của con người, là vấn đề
đặc biệt trong quyền sống của con người,
làm rõ tính đặc thù trong nội hàm quyền
và thể hiện nỗ lực của Nhà nước trong bảo
vệ quyền này. Đề xuất này không chỉ thuần
tuý là sự ghi nhận về mặt hiến định, nó còn
thể hiện thái độ, tuyên bố của Nhà nước về
mối quan tâm sâu sắc đối với trẻ em trong
sự nghiệp phát triển Tổ quốc từ quyền thiên
liêng nhất - quyền sống.
Thứ hai, cần có những quy định cụ
thể hơn về quyền của thai nhi. Ở đây cần
xác định rõ thai nhi có phải là con người,
có phải là trẻ em và xác định từ thời điểm
nào thai nhi có thể được thụ hưởng các
quyền con người, quyền của trẻ em. Hiện
tại quyền của thai nhi vẫn đang là vấn đề
có nhiều tranh luận ở Việt Nam và việc
ghi nhận, bảo vệ quyền của thai nhi vẫn
đang tản mạn, riêng rẽ ở các luật chuyên
ngành mà chưa có tiếng nói chung trong
quy định của Hiến pháp. Việc quy định
cụ thể hơn quyền của thai nhi trong Hiến
pháp, trong luật dân sự, luật trẻ em là cơ
sở pháp lý quan trọng để bảo đảm những
điều kiện tồn tại và phát triển của thai nhi
trong thực tiễn. Việc xác định tư cách con
người của thai nhi còn tác động rất lớn tới
sự điều chỉnh của pháp luật đối với các
hành vi nạo, phá thai của luật hình sự.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật Việt Nam về bảo đảm các điều kiện tồn tại phát triển của trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinionTạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 68 (6/2020) 24-32
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM CÁC ĐIỀU KIỆN
TỒN TẠI PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM
VIETNAM LAW ON ASSURANCE OF CONDITIONS
FOR CHILDREN’S SURVIVAL AND DEVELOPMENT
Võ Khánh Linh*, Phan Duy Anh†, Hoàng Trung Hiếu‡
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/12/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/6/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/6/2020
Tóm tắt: Bài viết tổng hợp và phân tích cụ thể các quy định pháp luật trong hệ thống
pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp đến các luật chuyên ngành ở góc độ bảo đảm các điều kiện
tồn tại và phát triển trẻ em - một khía cạnh quan trọng trong bảo đảm quyền sống của trẻ em.
Từ đó, nhóm tác giả đưa ra một số đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Từ khoá: Quyền trẻ em, tồn tại và phát triển, Luật Việt nam.
Abstract: The article summarizes and analyzes in detail the laws in the Vietnamese legal
system from the Constitution to specialized laws in the perspective of ensuring the conditions
of children’s survival and development - an important aspect in ensuring children’s right to
life. From there, the authors give some assessments on the current situation of Vietnamese
law on this issue.§
Keywords: Children’s right, survival and development, Vietnam Law.
* Khoa Chính trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
† Trung tâm Hỗ trợ phát triển vì Phụ nữ và Trẻ em (DWC)
‡ Khoa Chính trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
§ Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1969 (Convention on the Rights of the Child 1969)
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, pháp luật Việt
Nam đã có những bước tiến quan trọng
trong nội luật hoá quyền sống của trẻ em
theo tinh thần của CRC 1969§. Trong hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay, từ văn
bản có hiệu lực cao nhất là Hiến pháp, cho
đến các luật chuyên ngành và các văn bản
quy phạm pháp luật khác đều có quy định
về vấn đề này, cụ thể như sau:
Các điều kiện tồn tại và phát triển
của trẻ em được ghi nhận và bảo đảm
trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tại
Khoản 1, Điều 37: “Trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc
25Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
và giáo dục; đượ c tham gia và o cá c vấ n
đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc
lột sức lao động và những hành vi khác
vi phạm quyền trẻ em”. Đây là quy định
thể hiện ý chí của Nhà nước trong bảo vệ,
tăng cường và thúc đẩy quyền trẻ em nói
chung và bảo đảm các điều kiện tồn tại và
phát triển của trẻ em. Mặc dù không có
quy định cụ thể về khái niệm quyền sống
của trẻ em, tuy nhiên quyền trẻ em luôn là
đối tượng điều chỉnh về quyền con người
mà vấn đề này được quy định tại Điều 19:
“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị
tướ c đoạ t tính mạng trái luật.”. Hơn nữa,
những điều kiện bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của trẻ em cũng được thể hiện
qua những quy định về quyền con người
như: Điều 14: “Tất cả các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đều
được công nhận,tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật”; Điều
20 về quyền tự do và an toàn cá nhân (hay
an ninh cá nhân); Điều 34 về quyền được
bảo đảm an sinh xã hội; Điều 38 về quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, chăm sóc
y tế; Điều 39 về quyền được học tập, giáo
dục; Điều 41 về quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời
sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.
Bên cạnh đó, tại Chương III Hiến
pháp năm 2013 quy định về kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công
nghệ và môi trường cũng đã có một số quy
định liên quan đến trẻ em từ góc độ bảo
đảm những điều kiện tồn tại và phát triển
¶ Phan Duy Anh (2016), Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học
viện Khoa học xã hội, tr. 10.
** Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người,
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, tr. 164.
như: Khoản 2, Điều 58 về việc Nhà nước,
xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực
hiện kế hoạch hóa gia đình; Khoản 2, Điều
61 về việc Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu
hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục;
chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo
dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không
thu họ c phí ; từng bước phổ cập giáo dục
trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học
bổng, học phí hợp lý.
Quyền sống của trẻ em, theo nghĩa
rộng của quyền này, không chỉ là sự toàn
vẹn về tính mạng của trẻ em, mà còn là
những điều kiện bảo đảm sự tồn tại và phát
triển toàn diện cho trẻ em ¶. Ở khía cạnh
thứ hai, CRC khuyến nghị trách nhiệm chủ
động, tích cực của các quốc gia thành viên
phải bảo đảm đến mức tối đa có thể được
sự phát triển của trẻ em **. Với tư cách là
đạo luật có hiệu lực cao nhất, luật nền tảng
của hệ thống pháp luật quốc gia, có thể thấy
những quy định mang tính định hướng của
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 đã làm tốt vai trò thể
hiện quan điểm của Nhà nước và vai trò
của pháp luật trong bảo đảm điều kiện tồn
tại và phát triển của trẻ em. Đây chính là
nền tảng cho những luật chuyên ngành
khác thể hiện rõ vai trò của mình trong bảo
đảm quyền sống của trẻ em.
Các điều kiện tồn tại và phát triển
của trẻ em được ghi nhận và bảo đảm
trong các luật chuyên ngành
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Bên cạnh các quy định của Hiến
pháp 2013, quyền sống của trẻ em ở góc
độ là những điều kiện bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển còn được thể chế hóa
trong nhiều văn bản pháp luật khác trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong phạm
vi của mình, bài viết chỉ dẫn những quy
định nền tảng trong một số các văn bản
luật chuyên ngành.
2. Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS)
Điều 16 BLDS 2015 đã quy định
mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân
sự như nhau và năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết. Từ quy định
này, có thể hiểu trong hệ thống pháp luật
Việt Nam thì trẻ em được coi là một chủ
thể của quyền con người là từ lúc được
sinh ra. Cùng với đó, các quyền nhân thân
được ghi nhận và bảo vệ với tất cả mọi
người, trong đó đã hàm ý tới quyền sống
của trẻ em từ góc độ quyền tự do và cá
nhân, trách nhiệm của cha mẹ đối với trẻ
em từ các quy định tại Điều 33 về quyền
sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể và Điều 39 về
quyền nhân thân trong hôn nhân gia đình.
3. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)
BLHS 2015 có nhiều quy định bảo
đảm quyền sống của trẻ em thể hiện rất
rõ trong hình phạt tử hình và giới hạn áp
dụng hình phạt tử hình tại Điều 40. Điều
này cho thấy không được áp dụng hình
phạt tử hình và thi hành án tử hình với phụ
nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi (với trường hợp không thi hành
án tử hình, tức đã bị kết án tử hình mà là
phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi thì chuyển thành hình phạt tù
chung thân). Thứ nhất, quy định này cho
thấy pháp luật hình sự Việt Nam hoàn toàn
phù hợp với nội dung của CRC 1989 khi
đã bảo vệ sự sống của trẻ em từ trước khi
được sinh ra, mặc dù đó không phải là sự
bảo vệ quyền sống của một tự nhiên nhân
(không tử hình phụ nữ có thai). Thứ hai,
pháp luật hình sự Việt Nam bảo đảm điều
kiện tồn tại và phát triển của trẻ em khi
thấy rõ sự gắn kết, mối liên hệ quan trọng
trong sự sống và phát triển của trẻ em ở
giai đoạn đầu đời với người mẹ (không tử
hình phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi).
Những quy định thuộc Chương XII
- Những quy định đối với người dưới 18
tuổi phạm tội - thể hiện chính sách hình sự
đặc biệt đối với trẻ em (dưới 16 tuổi) trên
một số phương diện như sau: Thứ nhất,
phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người
dưới 18 tuổi (bao gồm trẻ em) và chủ yếu
nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở
thành công dân có ích cho xã hội (Khoản 1
Điều 91); Thứ hai, người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi có thể được miễn trách nhiệm
hình sự nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, tự nguyện khắc phục
phần lớn hậu quả (Khoản 2 Điều 91); Thứ
ba, không xử phạt tù chung thân hoặc tử
hình; Thứ tư, được hưởng mức án nhẹ hơn
mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi
trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn
thích hợp ngắn nhất (Khoản 6 Điều 91, từ
Điều 100 đến Điều 106); Thứ năm, án đã
tuyên với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội
thì không tính để xác định tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm (Khoản 7 Điều 91)
27Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
cũng như không được coi là có án tích
(Điều 107). Có thể thấy những đường
hướng xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
đã phản ánh rất nhiều chính sách khoan
hồng của luật hình sự đối với trẻ em. Điều
này nhằm hạn chế những tác động không
có lợi của hình phạt tới các điều kiện tồn
tại và phát triển của trẻ em trong độ tuổi
này cũng như ảnh hưởng của chúng tới
tương lai của các em.
BLHS 2015 cũng quy định những
tội phạm riêng liên quan tới các hành vi
xâm hại đến đối tượng là trẻ em như: Điều
142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi);
Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13
đến 16 tuổi); Điều 145 (tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi); Điều
146 (tội dâm ô với người dưới 16 tuổi);
Điều 147 (tội sử dụng người dưới 16 tuổi
vào mục đích khiêu dâm); Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 152
(tội đánh tráo người dưới 1 tuổi); Điều
153 (tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi).
Cùng với đó, BLHS 2015 đã quy định về
phạm tội với người dưới 16 tuổi và phụ nữ
có thai là tình tiết tăng nặng trong quyết
định hình phạt tại danh mục các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52)
và xác định “phạm tội đối với người dưới
16 tuổi” là một trong những số tình tiết
định khung tăng nặng trong Chương XIV
- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người.
Có thể thấy rằng, BLHS 2015 bảo
vệ đối tượng trẻ em ở mức độ rất cao từ
hai khía cạnh: lên án người phạm tội đối
với trẻ em và khoan hồng đối với người
phạm tội là trẻ em. Điều này lần lượt thể
hiện quan điểm của luật hình sự Việt Nam
không chỉ bảo vệ toàn vẹn tính mạng mà
còn bảo đảm những điều kiện tồn tại, phát
triển của trẻ em.
4. Luật trẻ em 2016
LTE 2016 quy định về quyền và bổn
phận của trẻ em, trách nhiệm và nghĩa vụ
của các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục,
gia đình, cá nhân trong việc thực hiện
quyền và bổn phận của trẻ em. Đây là đạo
luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ quyền trẻ em, trong đó có quyền sống.
Nội dung của LTE 2016 cơ bản đã thể hiện
việc nội luật hoá các quy định của CRC
1989. Điều 12 về quyền sống của trẻ em
đã ghi nhận trẻ em “được bảo đảm tốt nhất
các điều kiện sống và phát triển”. Cùng
với đó, các quyền được bảo vệ để không
bị xâm hại tình dục, quyền được bảo vệ
để không bị bóc lột sức lao động, quyền
được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi,
bỏ mặc, quyền được bảo vệ để không bị
bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, quyền được bảo
vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh
tráo, chiếm đoạt, quyền được bảo vệ khỏi
chất ma tuý, quyền được bảo vệ trong tố
tụng và xử lý vi phạm hành chính, quyền
được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm hoạ, ô
nhiễm môi trường, xung đột vũ trang được
quy định lần lượt từ Điều 25 đến Điều 31
đã thể hiện rõ khía cạnh “được bảo đảm
tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”
trước những tác nhân có thể phương hại
tới quyền sống của trẻ em. LTE năm 2016
còn quy định trách nhiệm của Nhà nước,
xã hội, gia đình trong bảo vệ sự tồn tại
và phát triển toàn diện của trẻ em ở các
phương diện như sau:
28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Phương diện chăm sóc, nuôi dưỡng
trẻ em và vai trò của cha, mẹ
LTE 2016 đã quy định “Trẻ em có
quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát
triển toàn diện” (Điều 15) và yếu tố để
bảo đảm quyền này chính là “Trẻ em có
quyền được chung sống với cha mẹ, được
cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trừ trường hợp cách ly cha mẹ theo
quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tối
nhất của trẻ” (Điều 22). Chung sống với
cha mẹ là điều kiện để trẻ em có thể phát
triển toàn diện bởi lẽ cha, mẹ là người có
điều kiện gần gũi, yêu thương với tư cách
là “đấng sinh thành” của trẻ em. Chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em không
chỉ là trách nhiệm với tư cách là người
cha, người mẹ mà đó còn là trách nhiệm
được nêu rõ trong LTE 2016 tại Điều 96,
Điều 98 như bảo đảm chế độ dinh dưỡng
phù hợp với sự phát triển về thể chất, tinh
thần của trẻ em ở từng độ tuổi, chăm sóc
sức khoẻ ban đầu và phòng chống bệnh
cho trẻ em, trách nhiệm tiếp cận dịch vụ y
tế để sàng lọc, phòng ngừa các bệnh bẩm
sinh cho trẻ em Trong quá trình đó, cha
mẹ và các thành viên trong gia đình phải
có trách nhiệm tôn trọng các quyền của trẻ
em (Điều 75). Như vậy có thể thấy, trách
nhiệm chăm sóc trẻ em trước tiên phải
nêu cao vai trò của cha, mẹ, hay nói cách
khác trẻ em được ưu tiên bảo vệ tại gia
đình, “việc đưa trẻ em vào cơ sở trợ giúp
†† Điều 18 (1) CRC 1969 quy định: “Các Quốc gia thành viên phải có những cố gắng cao nhất để bảo đảm việc
thừa nhận nguyên tắc là cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của con
cái. Cha mẹ, và tùy trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp, có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng
và sự phát triển của trẻ em. Những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là điều quan tâm cơ bản của họ”.
xã hội là biện pháp tạm thời khi các hình
thức chăm sóc tại gia đình, gia đình thay
thế không thực hiện được hoặc vì lợi ích
tối nhất của trẻ em” (Khoản 1 Điều 47).
Trong quá trình đó, Nhà nước có trách
nhiệm ban hành các chính sách trợ cấp, trợ
giúp, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn để
thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
em theo từng nhóm đối tượng khác nhau
và khuyến khích xã hội dành sự ưu tiên
các điều kiện tốt nhất để chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em (Điều 42).
Các quy định trên là phù hợp với
Điều 18 CRC †† khi xác định nghĩa vụ,
trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi
dưỡng, chăm sóc trẻ em thuộc về cha mẹ,
người chăm sóc trẻ em khác và xác định
nghĩa vụ của nhà nước phải hỗ trợ, trợ giúp
các bậc cha mẹ, người chăm sóc trẻ em,
dành cho họ những sự trợ giúp thích đáng
trong việc thực hiện trách nhiệm chăm
sóc, nuôi dưỡng trẻ. Những quy định này
phần nào có thể thấy LTE 2016 coi trọng
như thế nào vai trò của cha mẹ, các thành
viên gia đình trong chăm sóc, nuôi dưỡng
vì sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Phương diện chăm sóc y tế và được
hưởng tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất
LTE 2016 đã ghi nhận: “Trẻ em
có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức
khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch
vụ phòng, khám, chữa bệnh”. Như vậy trẻ
em là đối tượng được ưu tiên tiếp cận hàng
29Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đầu trong chăm sóc y tế, hay nói cách khác,
chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em là mối quan
tâm hàng đầu của xã hội. Điều này nêu cao
trách nhiệm của Nhà nước ở các khía cạnh
sau đây (Điều 43): Thứ nhất, có chính sách
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã
hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ
em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; Thứ hai, bảo
đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức
khỏe định kỳ, chăm sóc dinh dưỡng, sức
khoẻ ban đầu, tiêm chủng cho phụ nữ mang
thai và trẻ em theo độ tuổi; tư vấn và hỗ trợ
trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh
sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi
theo quy định của pháp luật; Thứ ba, ưu tiên
tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh
dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi
con dưới 36 tháng tuổi và trẻ em; Thứ tư,
có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc,
chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh;
giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, trẻ sơ sinh; xóa
bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng
đến sức khỏe trẻ em; Thứ năm, đóng, hỗ trợ
đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định
của pháp luật; Thứ sáu, có chính sách, biện
pháp để trẻ em được tiếp cận nguồn nước
hợp vệ sinh, điều kiện vệ sinh cơ bản và an
toàn thực phẩm; Thứ bảy, khuyến khích xã
hội ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe cho trẻ em. Có thể thấy,
các quy định trên của LTE 2016 là phù hợp
với nội dung của Điều 24 CRC 1989.
Phương diện quyền được giáo dục
LTE 2016 đã ghi nhận tại Điều 16 về
quyền được giáo dục, học tập và phát triển
năng khiếu: “Trẻ em có quyền được giáo
dục, học tập để phát triển toàn diện và
phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân,
được bình đẳng về cơ hội học tập và
giáo dục; được phát triển tài năng, năng
khiếu, sáng tạo, phát minh”. Để hỗ trợ trẻ
em được tiếp cận một cách đầy đủ quyền
được giáo dục, trách nhiệm của Nhà nước
đã được xác định rõ ở Điều 44: Thứ nhất,
chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em
được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em
bỏ học; Thứ hai, đặc biệt quan tâm tới các
chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo,
trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh
sống tại các xã biên giới, miền núi, hải
đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn được tiếp cận giáo
dục và giới thiệu việc làm phù hợp với độ
tuổi và pháp luật về lao động; Thứ ba, có
chính sách phù hợp để phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em 05 tuổi và chính sách
hỗ trợ để trẻ em trong độ tuổi được giáo
dục mầm non phù hợp với Điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ; Thứ tư,
xây dựng chương trình, nội dung giáo dục
phải phải phù hợp với từng độ tuổi, từng
nhóm độ tuổi trẻ em, có trọng tâm, đáp
ứng chất lượng, yêu cầu phát triển toàn
diện và hội nhập; Thứ năm, quy định môi
trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân
thiện, phòng, chống bạo lực học đường.
Có thể thấy, các quy định trên của LTE
2016 là phù hợp với nội dung của Điều 28,
29 CRC 1989.
Phương diện quyền được nghỉ ngơi,
vui chơi, giải trí và sinh hoạt văn hóa
LT 2016 đã ghi nhận tại Điều 17 về
quyền vui chơi, giải trí: “Trẻ em có quyền
vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ
30 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp
với độ tuổi”. Để bảo đảm điều kiện vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, thể thao, du lịch cho trẻ em, Điều 24
đã xác định trách của Nhà nước như sau:
Thứ nhất, có chính sách hỗ trợ hoạt động
sáng tạo tác phẩm, công trình văn hóa
nghệ thuật; Thứ hai, phát triển hệ thống
thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở cho trẻ
em; Thứ ba, có chính sách ưu tiên trẻ em
khi sử dụng dịch vụ vui chơi, giải trí, thể
thao, du lịch và tham quan di tích, thắng
cảnh; Thứ tư, tạo điều kiện để trẻ em giữ
gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa tốt
đẹp và được sử dụng ngôn ngữ của dân
tộc mình; Thứ năm, khuyến khích tổ chức,
gia đình, cá nhân tham gia ủng hộ, đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ trẻ em
vui chơi, giải trí; Thứ sáu, khuyến khích
sáng tạo, sản xuất đồ chơi, trò chơi cho trẻ
em bảo đảm an toàn, lành mạnh, mang bản
sắc văn hóa dân tộc. Có thể thấy, các quy
định trên của LTE 2016 là phù hợp với nội
dung của Điều 30, 31 CRC 1989.
5. Luật Hôn nhân & Gia đình
2014 (LHNGĐ)
Chương V LHNGĐ 2014 quy định
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong mối
quan hệ giữa cha mẹ và con. Trong đó
có nhiều quy định liên quan đến vai trò,
trách nhiệm của cha mẹ đối với con, là
một trong những điều kiện bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của trẻ em: Điều 69 quy
định về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ;
Điều 70 quy định về nghĩa vụ và quyền
của con; Điều 71 quy định về nghĩa vụ và
quyền chăm sóc nuôi dưỡng; Điều 72 quy
định về nghĩa vụ và quyền giáo dục con và
Điều 74 quy định về bồi thường thiệt hại
do con gây ra. Trong phạm vi hẹp là mối
quan hệ gia đình, LHNGĐ đã có những
quy định rõ về vai trò, trách nhiệm của cha
mẹ và các thành viên gia đình trong việc
chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo đảm phát
triển toàn diện cho trẻ em.
6. Luật Giáo dục 2019 (LGD)
Một trong những nội dung quan
trọng trong xây dựng LGD 2019 đó là bảo
đảm các quyền được giáo dục không chỉ
đối với công dân mà đặc biệt quan tâm tới
đối tượng thụ hưởng quyền là trẻ em. Với
tư tưởng đó, các quy định của LGD 2019
đã từng bước hiện thực hoá, cụ thể hoá
quyền học tập của công dân nói chung,
quyền học tập của trẻ em nói riêng, cũng
như phương diện bảo đảm, thúc đẩy quyền
được giáo dục của trẻ em được quy định
trong LTE 2016. Một số điều luật của
LGD 2019 đã thể hiện quan điểm này bao
gồm: Thứ nhất, giáo dục tiểu học là bắt
buộc, từng bước phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 05 tuổi (Điều 14); Thứ hai,
giáo dục mầm non phải nhằm phát triển
toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành nhân cách (Điều
23) và có phương pháp giáo dục phù hợp
với trẻ em (Điều 24); Thứ ba, giáo dục
phổ thông phải nhằm phát triển toàn diện
cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo,
hình thành nhân cách con người Việt Nam
(Điều 29) và có các phương pháp giáo dục
phù hợp cho từng cấp học (Điều 30); Thứ
tư, ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục,
31Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
phát triển giáo dục ở các địa bàn vùng sâu,
vùng xa để trẻ em có thể tiếp cận quyền
được giáo dục (Điều 17); Thứ năm, các
trường hợp ưu tiên không đóng học phí,
hỗ trợ học phí, miễn học phí (Điều 99)
7. Một số đề xuất hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về bảo đảm điều kiện tồn
tại và phát triển của trẻ em
Hiện nay, quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo đảm điều kiện tồn tại và
phát triển của trẻ em cơ bản đã phù hợp với
CRC 1969. Việt Nam đã có những động
thái tích cực trong nội luật hoá các quy
định pháp luật về trẻ em, đặc biệt là quyền
sống của trẻ em. Điểm sáng Chương II -
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp năm
2013 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
quy định về quyền con người được ghi
nhận một cách cởi mở hơn trong các đạo
luật chuyên ngành. Trong phần này, nhóm
tác giả nêu ba vấn đề lớn có ý nghĩa góp
phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp
luật Việt Nam về bảo đảm điều kiện tồn tại
và phát triển của trẻ em như sau:
Thứ nhất, cần quy định quyền sống
của trẻ em thành một điều luật riêng biệt
trong Hiến pháp chứ không nên lồng ghép
vào quy định quyền sống của con người tại
Điều 19 như hiện nay. Với quy định hiện
tại có hai hạn chế lớn: Một là, chưa làm
nổi bật một trong những quyền quan trọng
nhất của trẻ em trong Hiến pháp khiến cho
việc tìm hiểu những quyền trẻ em trong
Hiến pháp bị “hoà lẫn” trong quyền con
người nói chung; Hai là, khó lòng làm rõ
nội hàm quyền sống của trẻ em ở trong văn
bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến
pháp. Chúng tôi cho rằng quyền sống của
trẻ em cần phải được ghi nhận cụ thể hơn
trong quyền sống của con người, là vấn đề
đặc biệt trong quyền sống của con người,
làm rõ tính đặc thù trong nội hàm quyền
và thể hiện nỗ lực của Nhà nước trong bảo
vệ quyền này. Đề xuất này không chỉ thuần
tuý là sự ghi nhận về mặt hiến định, nó còn
thể hiện thái độ, tuyên bố của Nhà nước về
mối quan tâm sâu sắc đối với trẻ em trong
sự nghiệp phát triển Tổ quốc từ quyền thiên
liêng nhất - quyền sống.
Thứ hai, cần có những quy định cụ
thể hơn về quyền của thai nhi. Ở đây cần
xác định rõ thai nhi có phải là con người,
có phải là trẻ em và xác định từ thời điểm
nào thai nhi có thể được thụ hưởng các
quyền con người, quyền của trẻ em. Hiện
tại quyền của thai nhi vẫn đang là vấn đề
có nhiều tranh luận ở Việt Nam và việc
ghi nhận, bảo vệ quyền của thai nhi vẫn
đang tản mạn, riêng rẽ ở các luật chuyên
ngành mà chưa có tiếng nói chung trong
quy định của Hiến pháp. Việc quy định
cụ thể hơn quyền của thai nhi trong Hiến
pháp, trong luật dân sự, luật trẻ em là cơ
sở pháp lý quan trọng để bảo đảm những
điều kiện tồn tại và phát triển của thai nhi
trong thực tiễn. Việc xác định tư cách con
người của thai nhi còn tác động rất lớn tới
sự điều chỉnh của pháp luật đối với các
hành vi nạo, phá thai của luật hình sự.
Thứ ba, nâng mức trần độ tuổi được
xác định là trẻ em. LTE 2016 quy định trẻ
em là người dưới 16 tuổi, trong khi định
nghĩa trẻ em của CRC 1969 là những người
dưới 18 tuổi. Quy định này của CRC 1969
có ý nghĩa mở, mức 18 tuổi là mức tiêu
32 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chuẩn nhưng không phải bắt buộc, cố định
với mọi quốc gia. Điều này cho phép các
quốc gia có thể quy định mức trần độ tuổi
của trẻ em thấp hơn 18 tuổi, hoặc tối đa là
18 tuổi. Chúng tôi cho rằng việc nâng trần
độ tuổi của trẻ em là người dưới 18 tuổi là
cơ sở để mở rộng hơn khả năng tiếp cận và
thụ hưởng quyền trẻ em. Từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi vẫn là độ tuổi mà trẻ em đang
dần tích luỹ, phát triển để trưởng thành, do
đó các em vẫn có quyền được xã hội quan
tâm bởi các quyền trẻ em đặc thù. Việc
nâng trần độ tuổi trẻ em là hoàn toàn khả
thi với những quy định hiện hành trong hệ
thống pháp luật quốc gia, dù rằng điều này
sẽ cần phải tính toán đến việc sửa đổi một
số ngành luật có liên quan. Nhưng xét từ
góc độ nhân đạo và nhân quyền điều này
là cần thiết.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
(2011), “Giới thiệu các văn kiện quốc tế về
quyền con người”, Nxb Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
[2]. Phan Duy Anh (2016), Quyền sống của
trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội.
[3]. Võ Khánh Linh, Phan Duy Anh (2019),
Luận giải về nội hàm quyền sống của trẻ em,
Tạp chí Pháp luật về Quyền con người, số 1 -
2019, tr. 78 - 85.
[4]. Võ Khánh Vinh (2011), “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và
chính trị”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Võ Khánh Linh, Khoa Chính
trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Email: vokhanhlinh07031991@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_viet_nam_ve_bao_dam_cac_dieu_kien_ton_tai_phat_tri.pdf