Phạt vi phạm trong hợp đồng xây dựng
Quy định của Luật Xây dựng 2014
được hiểu hợp đồng xây dựng bao gồm hợp
đồng xây dựng đối với công trình sử dụng
vốn nhà nước và công trình không sử dụng
vốn nhà nước. Nếu áp dụng bốn nguyên tắc
trên đây vào việc xác định quy định điều
chỉnh mức phạt vi phạm tối đa áp dụng đối
với hợp đồng xây dựng, các kết luận sau đây
sẽ được rút ra:
1. Đối với hợp đồng xây dựng của công
trình có sử dụng vốn nhà nước, do Luật Xây
dựng 2014 (với tư cách là luật chuyên ngành
điều chỉnh quan hệ hợp đồng xây dựng) đã
có quy định cụ thể về mức phạt vi phạm tối
đa (cụ thể là 12% giá trị phần hợp đồng bị
vi phạm), nên quy định của Luật Xây dựng
2014 sẽ được ưu tiên áp dụng so với Luật
Thương mại 2005 và BLDS 2015; và
2. Đối với hợp đồng xây dựng của công
trình không sử dụng vốn nhà nước, do Luật
Xây dựng 2014 không có quy định cụ thể về
mức phạt vi phạm tối đa, nên quy định của
Luật Thương mại 2005 (với tư cách là luật
chuyên ngành có quy định về vấn đề này
không trái với nguyên tắc cơ bản của BLDS
2015) sẽ được ưu tiên áp dụng so với Luật
Xây dựng 2014 và BLDS 2015. Theo Luật
Thương mại 2005, mức phạt vi phạm tối
đa 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm áp dụng cho mọi hợp đồng thương mại
sẽ được áp dụng cho hợp đồng xây dựng đáp
ứng điều kiện là hợp đồng thương mại (bao
gồm cả hợp đồng xây dựng của công trình
không sử dụng vốn nhà nước). Với phân tích
trên đây, chúng tôi cho rằng, cách giải thích
của Bộ Xây dựng tại Công văn 48 chưa phù
hợp với các nguyên tắc giải quyết xung đột
pháp luật được quy định tại Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phạt vi phạm trong hợp đồng xây dựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẠT VI PHẠM TRONG HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Tóm tắt:
Phạt vi phạm là một trong các biện pháp khắc phục quan trọng,
phổ biến thường được quy định trong hợp đồng, bao gồm cả hợp
đồng xây dựng. Tuy nhiên, hiện nay giữa các Luật Xây dựng, Luật
Thương mại, Bộ luật Dân sự đang có các quy định khác nhau về
vấn đề này, từ đó dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng
trên thực tế.
Trương Nhật Quang*
Phạm Hoài Huấn**
** TS. Đại học Luật TP. HCM.
* LS. Công ty luật TNHH YKVN.
Abstract:
Penalties for violation is one of the important, common remedies
often prescribed in contracts, including construction contracts.
However, there are different provisions on the penalties in the Law
on Construction, the Law on Commerc, the Civil Code, which leads
to different interpretations when they are applied in practices.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Phạt vi phạm hợp đồng, xung
đột pháp luật, hợp đồng xây dựng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 16/11/2019
Biên tập : 20/11/2019
Duyệt bài : 21/11/2019
Article Infomation:
Keywords: penalties for contract
violations; legal conflicts; construction
contracts.
Article History:
Received : 16 Nov. 2019
Edited : 20 Nov. 2019
Approved : 21 Nov. 2019
Mức phạt vi phạm hợp đồng tối đa hiện được quy định có sự khác biệt trong các văn bản luật có liên quan
điều chỉnh hợp đồng xây dựng, bao gồm Bộ
luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), Luật
Thương mại năm 2005 (Luật Thương mại
2005) và Luật Xây dựng năm 2014 (Luật
Xây dựng 2014). Liên quan đến vấn đề này,
Bộ Xây dựng đã có Công văn số 48/BXD-
KTXD ngày 3 tháng 9 năm 2019 (Công văn
48) giải đáp vướng mắc của doanh nghiệp
xoay quanh mức phạt vi phạm tối đa được
áp dụng trong hợp đồng xây dựng đối với
các công trình xây dựng không sử dụng vốn
nhà nước. Trong bối cảnh đó, chúng tôi tập
trung trình bày, phân tích về hai vấn đề pháp
lý: i) nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật điều chỉnh hợp đồng xây dựng giữa
BLDS 2015, Luật Thương mại 2005 và Luật
Xây dựng 2014 và ii) mức phạt vi phạm tối
đa được áp dụng trong hợp đồng xây dựng
(bao gồm cả hợp đồng xây dựng của công
trình sử dụng vốn nhà nước và công trình
không sử dụng vốn nhà nước).
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
36 Số 24(400) T12/2019
1. Bản chất của hợp đồng xây dựng và
pháp luật điều chỉnh đối với hợp đồng
xây dựng
Một cách khái quát, hợp đồng xây
dựng có thể là một loại hợp đồng đặc thù
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng chịu sự điều
chỉnh của Luật Xây dựng 2014, hợp đồng
dân sự chịu sự điều chỉnh của BLDS 2015,
và/hoặc hợp đồng thương mại chịu sự điều
chỉnh của Luật Thương mại 2005.
Trước hết, bản thân hợp đồng xây
dựng là một loại hợp đồng đặc thù thuộc lĩnh
vực chuyên ngành về đầu tư xây dựng và
được quy định tại Luật Xây dựng 2014. Do
đó, hợp đồng xây dựng thuộc đối tượng điều
chỉnh của Luật Xây dựng 2014.
Luật Xây dựng 2014 cũng định nghĩa
hợp đồng xây dựng là một loại hợp đồng dân
sự. Do vậy, hợp đồng xây dựng có thể thuộc
phạm vi điều chỉnh của BLDS 2015. Cụ thể,
khoản 1 Điều 138 của Luật Xây dựng 2014
quy định như sau:
“Hợp đồng xây dựng là hợp đồng dân
sự được thoả thuận bằng văn bản giữa bên
giao thầu và bên nhận thầu để thực hiện một
phần hay toàn bộ công việc trong hoạt động
đầu tư xây dựng”.
Mặc dù không được định nghĩa cụ
thể tại Luật Xây dựng 2014, hợp đồng xây
dựng về lý thuyết cũng có thể là hợp đồng
thương mại chịu sự điều chỉnh của Luật
Thương mại 2005. Về cơ bản, hợp đồng
thương mại cũng là một loại hợp đồng dân
sự. Tuy nhiên, khác với những loại hợp đồng
dân sự khác, hợp đồng thương mại có đặc
trưng về chủ thể xác lập (được xác lập giữa
các bên là thương nhân hoặc một trong các
bên là thương nhân) và mục đích của hợp
đồng (nhằm mục đích sinh lợi). Do đó, nếu
một hợp đồng xây dựng cụ thể đáp ứng điều
kiện về chủ thể xác lập và mục đích của hợp
đồng thương mại (như đã đề cập), hợp đồng
1 Khoản 2 Điều 418 BLDS 2015.
2 Điều 301 Luật Thương mại 2005.
3 Khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng 2014.
4 Đoạn 3 Công văn số 48.
xây dựng đó có thể đồng thời là hợp đồng
thương mại và chịu sự điều chỉnh của Luật
Thương mại 2005.
Trên thực tế, phần lớn các hợp đồng
xây dựng đáp ứng các điều kiện của hợp
đồng thương mại (như đã đề cập). Trong
trường hợp như vậy, các hợp đồng xây dựng
này có thể đồng thời là đối tượng điều chỉnh
của cả BLDS 2015, Luật Thương mại 2005
và Luật Xây dựng 2014. Ngoài ra, BLDS
2015, Luật Thương mại 2005 và Luật Xây
dựng 2014 đều có quy định về mức phạt vi
phạm tối đa được áp dụng trong hợp đồng.
Tuy nhiên, các quy định này có sự khác biệt
nhất định và có thể tạo ra xung đột pháp luật
khi xác định mức phạt vi phạm tối đa được
áp dụng đối với hợp đồng xây dựng (đặc biệt
là hợp đồng xây dựng của công trình không
sử dụng vốn nhà nước). Cụ thể, BLDS 2015
cho phép các bên thỏa thuận về mức phạt vi
phạm mà không chịu bất kỳ giới hạn nào,
trừ khi luật chuyên ngành có quy định khác1.
Luật Thương mại 2005 quy định mức phạt
vi phạm không vượt quá 8% giá trị phần hợp
đồng bị vi phạm2. Luật Xây dựng 2014 quy
định mức phạt vi phạm không vượt quá 12%
giá trị phần hợp đồng bị vi phạm đối với
công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước3.
Luật Xây dựng 2014 không quy định về
mức phạt vi phạm áp dụng đối với hợp đồng
xây dựng của công trình xây dựng không sử
dụng vốn nhà nước.
Liên quan đến vấn đề này, một doanh
nghiệp đã hỏi ý kiến Bộ Xây dựng về một
trường hợp cụ thể liên quan đến công trình
xây dựng không sử dụng vốn nhà nước mà
các bên đã thỏa thuận mức phạt là 20% giá
trị hợp đồng. Tại Công văn 48, Bộ Xây dựng
cho rằng, các bên được quyền áp dụng mức
phạt vi phạm đã được thỏa thuận theo hợp
đồng xây dựng đối với công trình không sử
dụng vốn nhà nước4. Với cách giải thích này
của Bộ Xây dựng, có thể hiểu rằng trong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
37Số 24(400) T12/2019
trường hợp của công trình xây dựng không
sử dụng vốn nhà nước, mức phạt vi phạm tối
đa 8% theo Luật Thương mại 2005 không
được áp dụng và các bên có quyền tự do thỏa
thuận mức phạt vi phạm theo BLDS 2015.
Do BLDS 2015, Luật Thương mại 2005
và Luật Xây dựng 2014 có quy định khác
nhau về mức phạt vi phạm tối đa, vấn đề pháp
lý cơ bản đầu tiên được đặt ra là quy định nào
sẽ được ưu tiên áp dụng đối với hợp đồng xây
dựng trên cơ sở nguyên tắc giải quyết xung
đột pháp luật. Khi nguyên tắc giải quyết xung
đột được xác định, các bên có cơ sở pháp lý
rõ ràng hơn khi thỏa thuận mức phạt vi phạm
tối đa trong hợp đồng xây dựng, bao gồm cả
hợp đồng xây dựng của công trình không sử
dụng vốn nhà nước.
2. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật trong quan hệ hợp đồng xây dựng
giữa BLDS 2015, Luật Thương mại 2005
và Luật Xây dựng 2014
Do BLDS 2015, Luật Thương mại
2005 và Luật Xây dựng 2014 đều là các văn
bản luật có hiệu lực pháp lý ngang nhau do
Quốc hội ban hành, có hai nguyên tắc giải
quyết xung đột pháp luật có liên quan sau sẽ
được xem xét áp dụng, bao gồm: i) nguyên
tắc văn bản ban hành sau và ii) nguyên tắc
luật chung – luật riêng. Theo nguyên tắc thứ
nhất, đối với các văn bản pháp luật do cùng
một cơ quan ban hành về cùng một vấn đề,
văn bản pháp luật được ban hành sau được
ưu tiên áp dụng so với văn bản pháp luật
được ban hành trước. Theo nguyên tắc thứ
hai, luật riêng (hay luật chuyên ngành) được
ưu tiên áp dụng so với luật chung.
Nếu nhìn vào quan hệ giữa BLDS
2015, Luật Thương mại 2005 và Luật Xây
dựng 2014, việc áp dụng riêng lẻ hai nguyên
tắc này dường như tạo ra sự mâu thuẫn.
Theo đó, nếu chỉ áp dụng nguyên tắc thứ
nhất, trình tự ưu tiên áp dụng để giải quyết
xung đột pháp luật trong trường hợp này
sẽ là BLDS 2015, Luật Xây dựng 2014 và
Luật Thương mại 2005. Trong khi đó, nếu
chỉ áp dụng nguyên tắc thứ hai, trình tự này
sẽ là Luật Xây dựng 2014, Luật Thương mại
2005 và BLDS 2015. Đây là vấn đề không
phát sinh tại thời điểm BLDS 2005 có hiệu
lực vì Luật Thương mại 2005 và Luật Xây
dựng 2014 được ban hành sau BLDS 2005.
Do đó, hai nguyên tắc này cần được giải
thích cùng nhau để có thể rút ra các nguyên
tắc pháp lý phù hợp nhằm xử lý xung đột
pháp luật về vấn đề này.
Nguyên tắc văn bản ban hành sau
Khoản 3 Điều 156 của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy
định nguyên tắc văn bản ban hành sau và
nguyên tắc này xử lý xung đột giữa các văn
bản pháp luật do cùng một cơ quan ban
hành. Cụ thể như sau:
“Trong trường hợp các văn bản quy
phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban
hành có quy định khác nhau về cùng một
vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy
phạm pháp luật ban hành sau”.
Nguyên tắc này về cơ bản áp dụng
giữa các văn bản pháp luật do cùng một
cơ quan ban hành (ví dụ, các luật do Quốc
hội ban hành). Nếu không có một nguyên
tắc xung đột nào khác áp dụng (ví dụ luật
chuyên ngành được ưu tiên áp dụng so với
BLDS 2015 theo nguyên tắc luật chung –
luật riêng) thì BLDS 2015 sẽ được ưu tiên
áp dụng so với các luật ban hành trước thời
điểm ban hành BLDS 2015 và không được
ưu tiên áp dụng so với các luật ban hành
sau thời điểm ban hành BLDS 2015 trong
trường hợp có xung đột pháp luật. Cụ thể,
BLDS 2015 sẽ được ưu tiên áp dụng so với
Luật Xây dựng 2014 và Luật Thương mại
2005, và Luật Xây dựng 2014 sẽ được ưu
tiên áp dụng so với Luật Thương mại 2005.
Nguyên tắc luật chung – luật riêng
Nguyên tắc luật chung – luật riêng
không được quy định cụ thể tại Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
nhưng thường được quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể. Bản thân BLDS
2015 cũng quy định nguyên tắc này để giải
quyết xung đột giữa BLDS 2015 và các luật
chuyên ngành. Theo nguyên tắc luật chung
– luật riêng của BLDS 2015; BLDS 2015 sẽ
được xem là “luật chung” và các luật chuyên
ngành sẽ được xem là “luật riêng”. Trong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38 Số 24(400) T12/2019
quan hệ giữa “luật chung” và “luật riêng”,
luật chuyên ngành với tư cách là “luật riêng”
được ưu tiên áp dụng với điều kiện là không
được trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự được quy định trong BLDS
2015; nếu trái thì các quy định của BLDS
2015 sẽ được áp dụng. Ngoài ra, nếu luật
chuyên ngành không quy định về một vấn
đề mà vấn đề đó được quy định trong BLDS
2015 thì BLDS 2015 sẽ áp dụng. Cụ thể,
khoản 2 và 3 của Điều 4 BLDS 2015 quy
định nguyên tắc pháp lý này như sau:
“2. Luật khác có liên quan điều chỉnh
quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể
không được trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của
Bộ luật này.
3. Trường hợp luật khác có liên quan
không quy định hoặc có quy định nhưng vi
phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ
luật này được áp dụng”.
Bên cạnh BLDS 2015, Luật Thương
mại 2005 cũng có quy định nguyên tắc luật
chung - luật riêng tại Điều 4. Cụ thể như sau:
“1. Hoạt động thương mại phải tuân theo
Luật Thương mại và pháp luật có liên quan.
2. Hoạt động thương mại đặc thù
được quy định trong luật khác thì áp dụng
quy định của luật đó.
3. Hoạt động thương mại không được
quy định trong Luật thương mại và trong
các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ
luật Dân sự”.
Khác với BLDS 2015 và Luật Thương
mại 2005, Luật Xây dựng 2014 không quy
định nguyên tắc luật chung – luật riêng.
Nếu đọc cả hai nguyên tắc văn bản
ban hành sau và luật chung – luật riêng như
đã nêu, bốn kết luận sau có thể được rút ra
để giải quyết xung đột pháp luật trong bối
cảnh quan hệ hợp đồng xây dựng:
5 Theo Điều 3 BLDS 2015, năm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự bao gồm (i) không phân biệt đối xử, (ii) tự do
thỏa thuận, (iii) thiện chí trung thực, (iv) không xâm phạm lợi ích công cộng và (v) tự chịu trách nhiệm. Quy định về
mức phạt vi phạm tối đa của Luật Xây dựng 2014 và Luật Thương mại 2005 không trái với bất kỳ nguyên tắc cơ bản
nào của BLDS 2015.
1. Nếu quy định của Luật Thương
mại 2005 và Luật Xây dựng 2014 trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
được quy định tại BLDS 2015, quy định của
Luật Thương mại 2005 và Luật Xây dựng
2014 sẽ không được áp dụng và quy định
của BLDS 2015 sẽ được áp dụng;
2. Nếu quy định của Luật Thương
mại 2005 và Luật Xây dựng 2014 không trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân
sự được quy định tại BLDS 2015, quy định
của Luật Thương mại 2005 và Luật Xây
dựng 2014 sẽ được áp dụng và quy định của
BLDS 2015 sẽ không được áp dụng;
3. Nếu Luật Thương mại 2005 và
Luật Xây dựng 2014 đều không quy định về
một vấn đề mà vấn đề đó lại được quy định
trong BLDS 2015 thì BLDS 2015 sẽ được
áp dụng; và
4. Nếu Luật Xây dựng 2014 có quy
định về một vấn đề cụ thể thì ưu tiên áp
dụng quy định đó. Nếu Luật Xây dựng 2014
không có quy định thì áp dụng Luật Thương
mại 2005 nếu Luật Thương mại 2005 có quy
định điều chỉnh vấn đề cụ thể đó. Nếu Luật
Thương mại 2005 và Luật Xây dựng 2014
đều không có quy định thì áp dụng quy định
của BLDS 2015 nếu BLDS 2015 có quy
định điều chỉnh vấn đề cụ thể đó.
3. Mức phạt vi phạm tối đa được áp dụng
trong hợp đồng xây dựng
Luật Xây dựng 2014 và Luật Thương
mại 2005 đều có quy định về mức phạt vi
phạm tối đa và các quy định này không trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân
sự được quy định tại BLDS 20155. Do đó,
trong trường hợp này, quy định của Luật
Xây dựng 2014 và Luật Thương mại 2005
về mức phạt vi phạm tối đa đối với các hợp
đồng chịu sự điều chỉnh tương ứng của Luật
Xây dựng 2014 và Luật Thương mại 2005
sẽ được ưu tiên áp dụng so với BLDS 2015.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 24(400) T12/2019
Quy định của Luật Xây dựng 2014
được hiểu hợp đồng xây dựng bao gồm hợp
đồng xây dựng đối với công trình sử dụng
vốn nhà nước và công trình không sử dụng
vốn nhà nước. Nếu áp dụng bốn nguyên tắc
trên đây vào việc xác định quy định điều
chỉnh mức phạt vi phạm tối đa áp dụng đối
với hợp đồng xây dựng, các kết luận sau đây
sẽ được rút ra:
1. Đối với hợp đồng xây dựng của công
trình có sử dụng vốn nhà nước, do Luật Xây
dựng 2014 (với tư cách là luật chuyên ngành
điều chỉnh quan hệ hợp đồng xây dựng) đã
có quy định cụ thể về mức phạt vi phạm tối
đa (cụ thể là 12% giá trị phần hợp đồng bị
vi phạm), nên quy định của Luật Xây dựng
2014 sẽ được ưu tiên áp dụng so với Luật
Thương mại 2005 và BLDS 2015; và
2. Đối với hợp đồng xây dựng của công
trình không sử dụng vốn nhà nước, do Luật
Xây dựng 2014 không có quy định cụ thể về
mức phạt vi phạm tối đa, nên quy định của
Luật Thương mại 2005 (với tư cách là luật
chuyên ngành có quy định về vấn đề này
không trái với nguyên tắc cơ bản của BLDS
2015) sẽ được ưu tiên áp dụng so với Luật
Xây dựng 2014 và BLDS 2015. Theo Luật
Thương mại 2005, mức phạt vi phạm tối
đa 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm áp dụng cho mọi hợp đồng thương mại
sẽ được áp dụng cho hợp đồng xây dựng đáp
ứng điều kiện là hợp đồng thương mại (bao
gồm cả hợp đồng xây dựng của công trình
không sử dụng vốn nhà nước). Với phân tích
trên đây, chúng tôi cho rằng, cách giải thích
của Bộ Xây dựng tại Công văn 48 chưa phù
hợp với các nguyên tắc giải quyết xung đột
pháp luật được quy định tại Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005
Đoàn Thanh tra thì phải có sự minh định với
biện pháp “trưng tập cộng tác viên thanh
tra” thuộc thẩm quyền của Chánh Thanh
tra huyện. Theo chúng tôi, nếu thừa nhận
biện pháp này thì chỉ nên áp dụng đối với
đối tượng là cán bộ mà không bao gồm đối
tượng là công chức, viên chức13 vì công
chức, viên chức đã có thể áp dụng biện
pháp “trưng tập cộng tác viên thanh tra”.
Nếu quy định như vậy thì biện pháp này cần
được điều chỉnh tên gọi cho phù hợp với
chủ thể là “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên
quan cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh
tra”. Nói cách khác, biện pháp “trưng tập
cộng tác viên thanh tra” thuộc thẩm quyền
của Chánh thanh tra huyện và được áp dụng
13 Cán bộ, công chức, viên chức là những chủ thể pháp luật có địa vị pháp lý và quy chế điều chỉnh hoàn toàn riêng biệt,
khác nhau. Có thể xem thêm Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010.
nhằm huy động lực lượng là công chức, viên
chức tham gia vào đoàn thanh tra. Trong khi
đó, nhằm huy động nhân lực là cán bộ tham
gia đoàn thanh tra thì Thanh tra huyện có
thể “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan
cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra”.
Trong trường hợp này, “trưng tập cộng tác
viên thanh tra” và “yêu cầu cơ quan, đơn vị
có liên quan cử cán bộ tham gia các Đoàn
thanh tra” có thể giống nhau về mục đích
và thủ tục nhưng lại khác nhau về đối tượng
được huy động tham gia đoàn thanh tra. Sự
phân biệt này tạo cơ sở rõ ràng trong việc
huy động lực lượng tham gia đoàn thanh tra
thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện và
Chánh thanh tra huyện
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH...
(Tiếp theo trang 22)
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
40 Số 24(400) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_vi_pham_trong_hop_dong_xay_dung.pdf