Quy định về áp dụng án lệ trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự ở Việt Nam hiện nay

Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố mười án lệ (trong đó có tám án lệ được áp dụng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự17. Và trong số tám án lệ được công bố thì chỉ có án lệ về các lập luận liên quan đến xác định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ pháp luật dân sự. Án lệ về các lập luận liên quan đến áp dụng pháp luật tố tụng giải quyết vụ việc dân sự chưa được công bố. Như vậy, so với hàng trăm quyết định Giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong những năm qua thì số lượng án lệ được công bố như vậy là chưa phong phú về phạm vi nội dung án lệ và còn ít về số lượng. Ngoài ra chất lượng án lệ cũng là một vấn đề cần phải hoàn thiện trong thời gian tới để việc áp dụng án lệ hiệu quả hơn. Và thực tế chưa có một báo cáo nào về việc án lệ được Tòa án áp dụng trong hoạt động tố tụng nói chung và khi giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng để đánh giá hoạt động áp dụng án lệ trong xét xử có những thuận lợi và khó khăn cụ thể như thế nào. Từ những hạn chế về quy định pháp luật nêu trên, Nhà nước cần nghiên cứu thấu đáo và có những điều chỉnh phù hợp để hoàn thiện nguyên tắc áp dụng án lệ ở Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về áp dụng án lệ trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 40 QUY ĐỊNH VỀ ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thị Vân Anh1 Nguyễn Thị An Na2 Tóm tắt: Quan niệm và pháp luật về án lệ đã xuất hiện từ lâu và ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những năm gần đây, Việt Nam mới ghi nhận nguyên tắc áp dụng án lệ trong các văn bản pháp luật. Theo quy định pháp luật, Tòa án có trách nhiệm áp dụng án lệ khi giải quyết vụ việc dân sự, hành chính, hình sự. Ở bài viết này, tác giả đề cập về áp dụng án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam trên ba nội dung chính: Cơ sở pháp lý, nội dung và hạn chế của quy định pháp luật. Từ khóa: Án lệ; vụ việc dân sự; tố tụng dân sự; quy định pháp luật về án lệ ở Việt Nam. Ngày nhận bài: 10/01/2018 ; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng: 30/1/2018. Abstract: Concepts and laws of the jurisprudences have been appeared for long time and in many countries around the world. Recently, in Vietnam the jurisprudence was provided for by law. According to the law, the Court shall apply the jurisprudence to settle civil cases, administrative cases, criminal cases. Within the scope of this article, the author refers to civil jurisprudences on the three contents:the legal basis, content and limitations of the law. Keywords: Jurisprudences; civil cases; civil procedure; jurisprudences of law in Vietnam 18/01/2018. Date of receipt: 10/01/2018 ; Date of revision:18/01/2018; Date of approval: 30/1/2018. 1. Cơ sở pháp lý về áp dụng án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự Thực tế quá trình thực hiện pháp luật đã chứng minh, án lệ ra đời không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà lập pháp mà xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn pháp lý cũng như những điều kiện cụ thể khác như năng lực của Thẩm phán, yêu cầu của một nền pháp luật ổn định, đòi hỏi cần công khai, minh bạch hóa các phán quyết của Tòa án mỗi nền tư pháp của từng quốc gia. Đặc biệt, vấn đề án lệ còn nhiều quan điểm chưa nhất quán trong hoàn thiện quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật hiện nay. Thông thường, án lệ chỉ xuất hiện khi có một sự kiện pháp lý mới nảy sinh mà chưa có những quy phạm pháp luật thực định điều chỉnh hoặc đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh nhưng chưa có sự rõ ràng đối với trường hợp cụ thể. Thực tế nhiều năm qua Nhà nước ta cũng đã có nhiều đổi mới trong việc ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự vẫn chưa theo kịp với sự phát triển của xã hội. Trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng có rất nhiều từ ngữ, khái niệm trừu tượng, không thể điều chỉnh hết các quan hệ pháp luật trong từng trường hợp cụ thể ví dụ như thuật ngữ “buộc phải biết”, “trở ngại khách quan”, “thời điểm phát sinh quyền yêu cầu”hoặc có những vấn đề mà pháp luật chưa dự liệu được hết nên chưa có quy định điều chỉnh. Ví dụ như về vấn đề di sản thờ cúng, do pháp luật dân sự không quy định về các loại di sản thờ cúng (di sản thờ cúng lập lần đầu tiên, di sản thờ cúng đã được truyền qua nhiều đời) cũng như không quy định về quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng... Vì thế, khi có tranh chấp, chưa có cơ sở để đưa ra phán quyết hoặc cơ sở để đưa ra phán quyết không rõ ràng. Hoặc trong quan hệ hợp đồng, khi các bên đã có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng, khi xảy ra tranh chấp thì bên có quyền được đòi bên vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và bên vi phạm 1 Tiến sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp 2 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 41 thì có nghĩa vụ trả tiền phạt cho bên có quyền3. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015) chỉ đưa ra căn cứ được áp dụng chế tài phạt hợp đồng là có sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Thực tế có trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng, nhưng không thỏa thuận về mức phạt và không có quy định của pháp luật liên quan điều chỉnh mức phạt. Nếu xảy ra tranh chấp đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết thì Thẩm phán căn cứ vào đâu để xác định mức phạt?... Vì không có một căn cứ thống nhất để giải quyết trong những trường hợp như thể này nên một sự bất hợp lý có thể xảy ra là nhiều vụ việc dân sự tuy cùng tính chất giống nhau nhưng lại được xử khác nhau ở các Tòa án, mỗi địa phương xử một cách .Xuất phát từ những “lỗ hổng pháp lý” trong quản lý các quan hệ pháp luật dân sự như vậy, nhiều quy định pháp luật dân sự và tố tụng dân sự cần phải điều chỉnh, phù hợp với thực tế khách quan của đời sống và hài hòa hơn với thông lệ quốc tế. Một trong những biện pháp mà nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn khi phát sinh “lỗ hổng pháp lý”, đó là sử dụng án lệ để giải quyết các mâu thuẫn, các quan hệ dân sự. Vì vậy, để chuẩn hoá việc xét xử các vụ án dân sự trong tất cả các lĩnh vực ví dụ như hôn nhân gia đình, nhà nước cần phát triển án lệ như một đòi hỏi tự thân trong hoạt động xét xử. Từ những hạn chế nêu trên của pháp luật, Đảng đã nhận thức được ý nghĩa và giá trị của việc áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử nói chung và trong giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng và chỉ ra quan điểm phải phát triển án lệ trong hoạt động tố tụng Tòa án4. Tiếp theo đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” chỉ rõ:“Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Hiến pháp năm 2013 ra đời, tại khoản 3 Điều 4 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xứ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 ghi nhận: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”5. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: “Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ”6. Để triển khai thi hành quy định tại điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và để đưa án lệ đi vào cuộc sống, ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC (NQ 03/2015/NQ- HĐTP TANDTC) về “Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ ”. NQ 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC ra đời đã đã tạo tiền đề chắc chắn cho việc lựa chọ và ban hành, tập hợp hóa và hệ thống các bản án, quyết định của Tòa án được công nhận là án lệ. NQ 03/2015/NQ-HĐTP xác định cụ thể các tiêu chí đối với những bản án, quyết định có thể được lựa chọn, công nhận là án lệ; quy trình phát hiện, tuyển chọn án lệ; việc công bố các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật dự kiến sẽ hình thành án lệ trong tương lai trên các diễn đàn khoa học và phương tiện truyền thông để các đại biểu các cơ quan dân cử, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư v.v...) và nhân dân tham gia ý kiến; 3 Xem Điều 418 BLDS năm 2015. 4 Được ghi nhận tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 định hướng đến năm 2020”. 5 Điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 6 Khoản 5 Điều 27 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 42 đồng thời, phải tiến hành việc thẩm định, thông qua và công bố án lệ; nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử; việc thay thế, hủy bỏ án lệ. Vấn đề đặt ra trong thời điểm bây giờ và trong thời gian tới là phải xây dựng được hệ thống án lệ trong tất cả các lĩnh vực nói chung và án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng để các chủ thể liên quan, trước hết là để cơ quan Tòa án áp dụng. Đáp ứng yêu cầu này và để Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP đi vào thực tế, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 210/QĐ- TANDTC ngày 24 tháng 3 năm 2016 về thành lập Hội đồng tư vấn án lệ; Chỉ thị số 04/2016/CT- CA ngày 30 tháng 5 năm 2016 về việc tăng cường công tác phát triển và công bố án lệ, áp dụng án lệ trong xét xử; Chỉ thị số 146/2017/CT_TANDTC ngày 11/7/2017 về viện dẫn và áp dụng án lệ trong xét xử. Với hai Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 và Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án TANDTC, Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017, 16 bản án lệ đã được công bố. Trên cơ sở án lệ đã được ghi nhận trong hoạt động xét xử của Tòa án, BLDS năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017) và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bộ luật duy nhất quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ việc trong lĩnh vực dân sự (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016, thay thế Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã quy định cụ thể nguyên tắc này thành luật. Theo đó, Tòa án được áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự khi chưa có điều luật quy định, không có tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản phù hợp để giải quyết vụ việc dân sự7. Như vậy, với quy định của pháp luật hiện hành, án lệ là một trong những cơ sở pháp lý (hiện tại chưa có văn bản pháp luật nào ghi nhận án lệ là một nguồn luật) để Thẩm phán đưa ra các lập luận, giải pháp trong các bản án, quyết định khi giải quyết vụ, việc dân sự. Việc áp dụng án lệ ở Việt Nam không chỉ giúp cho Toà án kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mà còn giúp cho Việt Nam hòa nhập dần vào hệ thống tài phán quốc tế, tạo niềm tin cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước về tính minh bạch, công khai của hệ thống Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Do đó sử dụng án lệ không chỉ tạo ra khả năng của một hệ thống pháp luật bền vững, thúc đẩy khả năng tiếp cận công lý của người dân mà còn phù hợp với yêu cầu của hội nhập quốc tế, giao lưu kinh tế quốc tế. 2. Nội dung pháp luật về án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam hiện nay Trong mười án lệ được công bố có 8 án lệ được hình thành trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ án dân sự. Các án lệ đó là: Án lệ số 02/2016/AL về tranh chấp đòi lại tài sản; Án lệ số 03/2016/AL về Ly hôn, Án lệ số 04/2016/AL về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Án lệ số 05/2016/AL về tranh chấp di sản thừa kế; Án lệ số 06/2016/AL về tranh chấp thừa kế; Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991; Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm; Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại; Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc Sở hữu của bên thế chấp; Án lệ số 12/2017/AL về xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa; Án lệ số 13/2017/AL về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ; Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng; Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử 7 Xem Điều 6 BLDS năm 2015 và Điều 45 BLTTDS năm 2015 Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 43 dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng 8. Án lệ trong việc giải quyết vụ việc dân sự chịu sự điều chỉnh bởi những quy định pháp luật hiện hành về án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án đã được tác giả đề cập ở các văn bản nêu trên. Những quy định pháp luật hiện hành về án lệ có thể khái quát ở những nội dung sau: Thứ nhất, cách hiểu về án lệ và tiêu chí lựa chọn án lệ: Án lệ theo quy định của pháp luật Việt Nam là “là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”9. Án lệ được lực chọn phải đáp ứng được các tiêu chí sau: (i) Chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; (ii) Có tính chuẩn mực; (iii) Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau10. Thứ hai, quy trình lựa chọn và công bố án lệ Khác với hầu hết các nước, án lệ tại Việt Nam được ra đời sau một quy trình lựa chọn được thực hiện bởi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao11. Quy trình hình thành án lệ ở Việt Nam gồm các bước như sau: (i) Rà soát, phát hiện các bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành lệ; (ii) Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ; (iii) Xây dựng dự thảo án lệ; (iv) Thành lập hội đồng tư vấn án lệ; (v) Họp Hội đồng tư vấn án lệ; (vi) Thông qua án lệ; (vii) Công bố án lệ. Ở mỗi bước pháp luật quy định cụ thể chủ thể có thẩm quyền tham gia và quyết định. Kết quả cuối cùng của quá trình từ tuyển chọn các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật là một bản án lệ được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua trên cơ sở kết quả biểu quyết theo số đông. Thứ ba, nguyên tắc áp dụng án lệ Sau khi án lệ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố12 thì khi xét xử, “Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau.;”13 Như vậy, việc nghiên cứu áp dụng án lệ là nghĩa vụ bắt buộc của Thẩm phán khi giải quyết các vụ việc tương tự trong tương lai. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Thẩm phán phải áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc tại tòa án. Thẩm phán được quyền không áp dụng án lệ khi “có sự thay đổi của Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ mà án lệ không còn phù hợp”14. Và khi không áp dụng thì Thẩm phán phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án về việc không áp dụng án lệ. Thứ tư, hủy bỏ, thay thế án lệ Không chỉ quy định về quy trình lựa chọn, công bố án lệ, pháp luật còn quy định về hủy bỏ, 8 Xem Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố án lệ; Quyết định 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố án lệ; Quyết định số 299/QĐ-CQ ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố án lệ. 9 Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 10 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 11 Xem Điều 3,4,5,6,7 Nghị quyết sô 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 12 Xem khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 13 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 14 Xem khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 44 thay thế án lệ. Án lệ bị hủy bỏ trong trường hợp do sự thay đổi của Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ mà án lệ không còn phù hợp. Do chuyển biến tình hình mà án lệ không còn phù hợp nhưng chưa có quy định mới của pháp luật thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối có trách nhiệm huỷ bỏ án lệ. Việc hủy bỏ, thay thế án lệ cũng theo một quy trình từ việc kiến nghị hủy bỏ án lệ của người có thẩm quyền, Vụ pháp chế và quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, hủy bỏ án lệ15. Dựa trên những quy định của pháp luật về án lệ, có thể thấy án lệ trong việc giải quyết vụ việc dân sự vừa mang những đặc điểm chung của án lệ trong hoạt động xét xử vừa có những khác biệt như sau: Án lệ trong giải quyết vụ, việc dân sự được hình thành trên cơ sở xét xử vụ án dân sự và giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Án lệ phải là những phán quyết hoặc lập luận đưa ra phán quyết được thể hiện trong bản án, quyết định dân sự do Tòa án ban hành đã có hiệu lực pháp luật (bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, Phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Hội đồng Tòa án nhân dân tối cao). Án lệ trong lĩnh vực hành chính, hình sự được hình thành từ quyết định hoặc bản án giải quyết vụ việc hành chính, vụ án hình sự theo quy định của pháp luật hành chính và hình sự. Những lập luận, phán quyết của Tòa án trong các án lệ được áp dụng để giải quyết vụ việc dân sự phải là những lập luận, phán quyết về việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu trong lĩnh vực dân sự như thừa kế, hợp đồng, đất đai, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, (gọi chung là quan hệ dân sự theo nghĩa hẹp), kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình và lao động16. Trong khi đó, án lệ trong việc giải quyết các vụ việc hành chính là những lập luận, phán quyết về việc giải quyết yêu cầu của chủ thể có quyền liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính do cá nhân, cơ quan Nhà nước áp dụng cho một chủ thể nhất định. Án lệ được áp dụng để giải quyết các vụ án hình sự là những lập luận, phán quyết về việc áp dụng pháp luật hình sự để xác định có hay không có tội phạm, hình phạt như thế nào đối với chủ thể phạm tội và việc áp dụng pháp luật tục tố tụng hình sự trong việc giải quyết vụ án hình sự đó. Án lệ trong việc giải quyết vụ việc dân sự là các lập luận, phán quyết của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Điều này có nghĩa là phạm vi án lệ trong việc giải quyết vụ việc dân sự không chỉ là án lề về lập luận, phán quyết liên quan đến xác định quyền, nghĩa vụ các bên trong quan hệ pháp luật dân sự mà còn là án lệ về lập luận, phán quyết trong việc áp dụng pháp luật tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự. 3. Hạn chế trong quy định pháp luật về áp dụng án lệ giải quyết vụ, việc dân sự ở Việt Nam hiện nay Sự ra đời của các văn bản pháp luật về án lệ góp phần không nhỏ trong việc tăng cường công tác phát triển, áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử tại Tòa án. Tuy nhiên các quy định pháp luật điều chỉnh án lệ nói chung và án lệ trong việc giải quyết vụ việc dân sự nêu trên vẫn chưa đầy đủ và hoàn thiện, biểu hiện ở những vấn đề sau: Thứ nhất, chưa có một hệ thống lý luận đầy đủ về án lệ trong hoạt động tố tụng của Tòa án nói chung cũng như án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng (khái niệm, đặc điểm, phân loại). Các văn bản pháp luật nêu trên chỉ mới ghi nhận nguyên tắc áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu pháp luật ngoại trừ quy định tại Điều 1 nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP TANDTC. Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP TANDTC quy định: án lệ “là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử ”. Theo tác giả, với những gì Điều 1 NQ 03/2015/NQ_HĐTP TANDTC 15 Xem Điều 9 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, ngày 28/10/2015 về Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. 16 Xem Điều 26,27,28,29,30,31,32,33 BLTTDS năm 2015. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 45 quy định thì đây chỉ là cách tiếp cận về quá trình tuyển chọn một bản án được xác định làm án lệ và xác định giá trị của án lệ chứ chưa xác định đúng bản chất của án lệ là những phán quyết của Tòa án về một vụ việc cụ thể, có giá trị tạo lập quy tắc hoặc căn cứ pháp lý cho việc giải quyết các vụ việc tương tự trong tương lai (các vụ việc giống nhau thì cần phải được xét xử như nhau). Thứ hai, những quy định này còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng thậm chí còn mâu thuẫn dẫn đến khó khăn cho người thực hiện. Sự thiếu tính cụ thể, rõ ràng trong quy định luật được thể hiện ở khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP. Theo khoản 2 Điều 8 thì “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án”. Như vậy, theo hướng dẫn này của NQ 03/2015/NQ- HĐTP, để áp dụng án lệ phải xác định được hai vấn đề: (1) Xác định được các tình tiết khách quan, sự kiện pháp lý của vụ việc dân sự trong bản án, quyết định được công nhận là án lệ; (2) Xác định được vụ việc dân sự được áp dụng phải là vụ việc tương tự với vụ việc trong bản án lệ (tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau). Tuy nhiên NQ 03/2015/NQ-HĐTP không nói rõ tình tiết ở vấn đề (1) này là tình tiết cơ bản hay tất cả các tình tiết và ở vấn đề (2) cũng không nói cụ thể sự tương tự này là tương tự tuyệt đối hay tương đối giống nhau hoàn toàn hay giống nhau một phần (một phần thì phải giống nhau về tình tiết, sự kiện gì?). Ngoài ra, khoản 3 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP cũng là một dẫn chứng cho việc thiếu tính cụ thể, rõ ràng của quy định pháp luật. Khoản 3 Điều 9 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP chỉ rõ: “Trường hợp Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ và có phân tích, lập luận nêu rõ lý do trong bản án, quyết định thì ngay sau khi tuyên án phải gửi kiến nghị thay thế án lệ về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) kèm theo bản án, quyết định đó”. Xuất phát từ thực tiễn tố tụng dân sự thì án lệ được sử dụng trong giải quyết vụ việc dân sự dựa trên cơ sở được đương sự đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận hoặc Hội đồng xét xử áp dụng, viện dẫn để lập luận cho quan điểm pháp lý của mình. Đối chiếu với quy định này thì trường hợp nào trong hai trường hợp trên hay cả hai trường hợp Hội đồng xét xử phải “gửi kiến nghị thay thế án lệ về Tòa án nhân dân tối cao”? Những văn bản pháp luật về án lệ không chỉ thiếu tính rõ ràng mà còn có sự mâu thuẫn trong các quy định luật. Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP chỉ rõ án lệ được lựa chọn phải “chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau ”(có nghĩa là trường hợp đã có quy phạm pháp luật nhưng quy phạm không đầy đủ, chi tiết, cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khi áp dụng). Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 lại quy định Tòa án được áp dụng án lệ để giải quyết các vụ,việc dân sự khi chưa có điều luật áp dụng. Từ nội dung của quy định luật, có thể thấy sự mâu thuẫn đó là: Bộ luật Tố tụng dân sự cho phép viện dẫn án lệ khi không có điều luật áp dụng. Còn tinh thần của NQ 03/2015/NQ-HĐTP lại chỉ xác định án lệ được áp dụng trong khi đã có Điều luật nhưng điều luật còn có cách hiểu khác nhau. Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố mười án lệ (trong đó có tám án lệ được áp dụng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự17. Và trong số tám án lệ được công bố thì chỉ có án lệ về các lập luận liên quan đến xác định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ pháp luật dân sự. Án lệ về các lập luận liên quan đến áp dụng pháp luật tố tụng giải quyết vụ việc dân sự chưa được công bố. Như vậy, so với hàng trăm quyết định Giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong những năm qua thì số lượng án lệ được công bố như vậy là chưa phong phú về phạm vi nội dung án lệ và 17 Xem Quyết định số 220/QĐ-CA của chánh án TANDTC ngày 06 tháng 4 năm 2016 về công bố án lệ, Quyết định số 698/QĐ-CA của Chánh án TANDTC ngày 17 tháng 10 năm 2016 về việc công bố án lệ. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 46 còn ít về số lượng. Ngoài ra chất lượng án lệ cũng là một vấn đề cần phải hoàn thiện trong thời gian tới để việc áp dụng án lệ hiệu quả hơn. Và thực tế chưa có một báo cáo nào về việc án lệ được Tòa án áp dụng trong hoạt động tố tụng nói chung và khi giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng để đánh giá hoạt động áp dụng án lệ trong xét xử có những thuận lợi và khó khăn cụ thể như thế nào. Từ những hạn chế về quy định pháp luật nêu trên, Nhà nước cần nghiên cứu thấu đáo và có những điều chỉnh phù hợp để hoàn thiện nguyên tắc áp dụng án lệ ở Việt Nam./. Tài liệu tham khảo 1. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. 2. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP TANDTC (NQ03/2015/NQ-HĐTP TANDTC) về “Quy trình lựa chọn, bông bố và áp dụng án lệ”. 3. Quyết định số 210/QĐ-TANDTC ngày 24 tháng 3 năm 2016 về thành lập Hội đồng tư vấn án lệ; Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30 tháng 5 năm 2016 về việc tăng cường công tác phát triển và công bố án lệ, áp dụng án lệ trong xét xử; Chỉ thị số 146/2017/CT_TANDTC ngày 11/7/2017 về viện dẫn và áp dụng án lệ trong xét xử. 4. Án lệ số 02/2016/AL về tranh chấp đòi lại tài sản; Án lệ số 03/2016/AL về Ly hôn, Án lệ số 04/2016/AL về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Án lệ số 05/2016/AL về tranh chấp di sản thừa kế; Án lệ số 06/2016/AL về tranh chấp thừa kế; Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991; Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm; Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại. Ba là, Thoả thuận liên danh, về bản chất là một thoả thuận phân chia công việc của cùng một bên (không phải quyền và nghĩa vụ đối nhau như quan hệ hợp đồng – quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia) và thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đấu thầu. Trường hợp này không thuộc các hành vi bị cấm trong quan hệ đấu thầu. Từ tình huống trên, trong thực tiễn các giao dịch dân sự tồn tại không ít các vướng mắc khi hiểu và vận dụng quy định về phạm vi đại diện với sự xung đột giữa quy định của BLDS và các luật chuyên ngành mà nguyên nhân chủ yếu là do chưa có sự thống nhất giữa các văn bản luật có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, chưa có sự rõ ràng, mạch lạc trong nội dung các điều khoản dẫn đến các cách hiểu khác nhau. Việc hoàn thiện pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, toàn diện, có tính đến đặc thù của luật chuyên ngành được dẫn chiếu theo quy định của Bộ luật dân sự “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác...” là cơ sở căn bản tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp được thực hiện quyền tự do kinh doanh và đạt được mục đích mà các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự luôn hướng tới đó là đảm bảo tính hợp pháp của giao dịch và bảo đảm được lợi ích của các bên khi tham gia giao dịch. Đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, việc hiểu và vận dụng thống nhất quy định này góp khẳng định cách tiếp cận xây dựng Bộ luật dân sự thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền. Có được vai trò này là nhờ các quy định của BLDS đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát được tương đối đầy đủ các vấn đề của đời sống dân sự. Nhờ vậy, BLDS đã góp phần vào việc khắc phục được một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật./. Tài liệu tham khảo 1. Bộ luật dân sự năm 2015. 2. Bộ luật dân sự năm 2005. 3. Luật Doanh nghiệp năm 2014. 4. Luật Doanh nghiệp năm 2005. 5. Luật Đấu thầu năm 2013. PHẠM VI ĐẠI DIỆN (Tiếp theo trang 39)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquy_dinh_ve_ap_dung_an_le_trong_viec_giai_quyet_cac_vu_viec.pdf
Tài liệu liên quan