Việc nên áp dụng chính sách điều
chỉnh tỷ giá từng bước như cách làm hiện
nay của NHNN. Với một sự thay đổi tỷ giá
nhẹ nhàng và từ từ sẽ không làm xáo trộn
giá cả các sản phẩm then chốt, không phát
sinh đầu cơ, vì lợi nhuận đầu cơ không
đáng kể do phải mất chi phí mua vào bán.
Ngoài ra Nhà nước còn sử dụng các công
cụ bổ sung cho tỷ giá, bù lỗ, cấp tín dụng
ưu đãi làm hàng xuất khẩu cho nộp thuế trả
chậm v.v là rất thích hợp vì đa dạng hóa
biện pháp cho tăng xuất khẩu và nền kinh
tế, xã hội vẫn ổn định.Tuy nhiên, để đạt
được hiệu quả mong muốn cho việc điều
chỉnh tỷ giá trong thời gian tới thì cần phải
thực hiện đồng bộ các biện pháp như: tự do
hóa mạnh mẽ hoạt động ngoại thương,
giảm mạnh và tiến đến xóa bỏ độc quyền
của các DNNN; cải tiến hoạt động tiếp thị
và tìm kiếm khách hàng; giảm các tiêu cực
phí trong hoạt động XNK và hải quan,
giảm tỷ lệ thuế nhập theo lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế và nhờ đó đưa dần luồng
ngoại thương bất hợp pháp thành luồng
hợp pháp, chính là những biện pháp cơ
bản và lâu dài cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động việc điều chỉnh tỷ giá đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016
48
Tác động việc điều chỉnh tỷ giá đến năng lực cạnh tranh
xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
Impact of exchange rate adjusments to the export competitiveness of Viet Nam
during the integration
TS. Nguyễn Hoàng Giang
Trường Đại học Lao động Xã hội (cơ sở 2)
Ph.D. Nguyen Hoang Giang
University of Labour Social Affairs 2
Tóm tắt
Với hàng loạt các sự kiện liên quan đến tỷ giá trên thị trường tài chính quốc tế diễn ra vào những tháng
cuối năm 2015 và đầu năm 2016 như: việc phá giá mạnh của đồng Nhân Dân tệ (Trung Quốc), Cục Dữ
trữ liên bang Mỹ đã bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất đồng Đô Mỹ NHNN Việt Nam đã thực hiện nhiều
nước đi kỹ thuật trong ván cờ tỷ giá và điều này cũng đã tạo nên những ảnh hưởng nhất định đến năng
lực cạnh xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Bài viết sau đây sẽ giúp chúng ta nhìn lại chính
sách điều hành tỷ giá của VN trong thời gian qua và phân tích tác động của việc điều chỉnh tỷ giá đến
xuất khẩu của VN, đồng thời đưa ra nhận định về những quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề trên
một cách khách quan và tích cực nhất.
Từ khóa: hội nhập, tỷ giá, xuất khẩu
Abstract
With a series of events related to the exchange rate on the international financial markets took place in
the last months of 2015 and early 2016, such as the strong devaluation of the yuan (Chinese), Joint
Reserve Bureau US states have begun bullish US dollar interest rates ... State Bank of Vietnam has
made many technical moves in the game, and this rate has created a certain influence on the export
competence of Vietnam in the integration phase. The following article will help us to look back on the
operating of policies of the exchange rate in the recent past and analyze the impact of the adjustment of
the exchange rate on exports of VN, while presenting the least on other viewpoints around the issues in
an objective and positive as possible.
Keywords: integration, exchange rate, export
1. Mối quan hệ giữa tỷ giá và
xuất nhập khẩu
Cơ chế tác động của tỷ giá đối với
XNK có thể diễn ra như sau:
Khi phá giá đơn vị tiền tệ trong nước
xuống, thì một số lượng đơn vị tiền tệ
trong nước sẽ đổi được ít hơn đơn vị tiền tệ
nước ngoài hơn, so với trước đây. Hay nói
ngược lại, với một đơn vị tiền tệ nước
ngoài sẽ đổi được nhiều hơn đơn vị tiền tệ
trong nước.
Ví dụ tỷ giá giữa VN đồng so với
49
USD hạ xuống, trong trường hợp đó, muốn
thu được cũng một số ngoại tệ như trước
đây, người bán hàng (nhà xuất khẩu) nước
ngoài - khi bán hàng vào nước có đồng tiền
hạ giá - buộc phải bán với giá cao hơn.
Việc nhà xuất khẩu nước ngoài phải nâng
giá bán hàng lên là cần thiết, vì họ phải bù
đắp mọi chi phí sản xuất hàng xuất khẩu -
nếu họ cứ bán giá như trước đây thì họ sẽ
lỗ lớn - tuy vậy việc nâng giá hàng nước
ngoài, sẽ dẫn đến tình trạng hạn chế khối
lượng nhập khẩu hàng hóa vào nước có
đồng tiền hạ giá, vì hai lý do:
* Do khả năng cạnh tranh hàng hóa
XNK của nước đó tăng lên.
* Có thể có sự chuyển hướng tiêu thụ
hàng hóa trong nước để thay thế hàng nhập
quá đắt đỏ.
Trong khi đó việc phá giá đơn vị tiền tệ
trong nước xuống, lại có xu hướng kích thích
tăng khối lượng xuất khẩu hàng hóa từ nước
có đồng tiền hạ giá sang các nước khác.
Cũng theo cơ chế đó, khi nâng giá
đồng tiền trong nước lên so với các ngoại
tệ khác thì tác động sẽ ngược lại: xuất khẩu
hàng hóa ra nước ngoài bị hạn chế, khả
năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu bị
giảm sút, đồng thời giá cả hàng hóa nước
ngoài nhập khẩu vào nước đó sẽ trở nên rẻ
hơn, so với giá trong nước và từ đó khối
lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ có xu hướng
tăng lên.
Hình 1: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và kim ngạch XNK
- Trục tung biểu thị tỷ giá hối đoái
ngoại tệ/ nội tệ, các điểm càng xa điểm gốc
thì nội tệ càng giảm giá.
- Trục hoành biểu thị kim ngạch XNK,
đường EE biểu thị cho xuất khẩu, EE cắt
trục tung ở điểm A là điểm giới hạn, nếu tỷ
giá ngoại tệ/nội tệ thấp hơn điểm đó thì
xuất khẩu sẽ lỗ (tương ứng với nội tệ có giá
quá cao thì lĩnh vực xuất khẩu sẽ lỗ) lúc đó
tỷ giá hối đoái xuất khẩu > tỷ giá hối đoái.
- Đường EE bị giới hạn bởi Ma, trên
trục kim ngạch XNK, có nghĩa là cho dù
nội tệ có giảm giá nhiều đến mấy đi nữa,
thì kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt được tối đa
Giới hạn của tiềm năng xuất khẩu
E(Export)
E
I(Import)
I
R0
A
M0 Ma
Tỷ giá
ngoại
tệ/nội tệ
B
Kim ngạch
XNK
P
50
Ma thôi, điểm Ma gọi là kim ngạch xuất
khẩu tiềm tàng.
- Đường I I là đường nhập khẩu, I I cắt
trục tung ở điểm B, tỷ giá hối đoái ngoại
tệ/nội tệ cao hơn điểm B thì không nhập
khẩu được, vì ở điểm đó nước đối tác sẽ bị
lỗ, lúc đó tỷ giá hối đoái > tỷ giá hối đoái
nhập khẩu. Khoảng cách AB là khoảng
cách biến thiên của tỷ giá hối đoái, luôn
thỏa công thức:
Đường EE cắt I I ở điểm P có tung độ
là Ro (tương ứng với hối suất Ro), thì kim
ngạch xuất khẩu bằng kim ngạch nhập
khẩu và cán cân thương mại cân bằng, Ro
gọi là hối suất cân bằng.
Tóm lại, ta có thể thấy nội tệ có trị giá
càng cao thì xuất khẩu càng bị hạn chế,
nhập khẩu càng được khuyến khích và
ngược lại.
2. Hiện trạng cơ chế điều hành tỷ giá
ở Việt Nam
Việt Nam sau thời gian dài áp dụng chế
độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá linh hoạt
có sự quản lý của Nhà nước thì việc tỷ giá
danh nghĩa được duy trì ổn định trong thời
gian khá dài đóng vai trò quan trọng trong
việc củng cố sức mạnh đối nội của đồng nội
tệ, kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy
mạnh thu hút vốn nội tệ vào Ngân hàng,
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhưng
nếu xem xét về mặt tỷ giá thực thì VND
đang bị định giá cao hơn so với USD, bởi
chênh lệch lạm phát giữa 2 nước và đặc
biệt là do tỷ giá danh nghĩa giữa VND và
USD duy trì ổn định trong khi đồng USD
đang có xu hướng mạnh lên so với các
ngoại tệ mạnh khác như EUR, Bảng Anh
Để thấy rõ hơn ta xem biểu sau:
Hình 2: Tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực VND giai đoạn 2012 - 3/2015
Nguồn: Tính toán theo nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê (năm gốc tháng 1/2012)
Tỷ giá hối đoái xuất khẩu < tỷ giá hối đoái < tỷ giá hối đoái
nhập khẩu
51
Đây là điều bất lợi cho việc đẩy mạnh
xuất khẩu làm giảm sức cạnh tranh của
hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, hạn
chế cải thiện thâm hụt cán cân thương mại.
Vì vậy trong năm 2016 cách thức điều
hành tỷ giá sẽ linh hoạt hơn và thậm chí là
thay đổi từng ngày. Theo cách thức này thì
Ngân hàng Nhà nước vẫn công bố tỷ giá
hàng ngày, tuy nhiên tỷ giá hàng ngày sẽ
được điều chỉnh lên xuống. Việc điều
chỉnh này dựa trên cơ sở tham chiếu vào
diễn biến của đồng USD và một số đồng
tiền ngoại tệ khác, cũng như đảm bảo mục
tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô nhằm hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. NHNN
sử dụng công cụ kỳ hạn như một biện pháp
kỹ thuật để định hướng vùng mục tiêu tỷ
giá cho thị trường.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất của Việt Nam từ 01/01 đến
15/02/2016 và so sánh với cùng kỳ năm 2015
Tên mặt hàng hóa chủ yếu
Kim ngạch
xuất khẩu từ
01/01 đến
15/02/2016
(Triệu USD)
So với cùng kỳ năm 2015
Kim ngạch
+/-
(Triệu
USD)
Kim ngạch
+/-
(%)
TỔNG TRỊ GIÁ 17.033 -3.746 -18,0
Trong đó: Doanh nghiệp FDI 11.674 -2.308 -16,5
Điện thoại các loại và linh kiện 3.030 -714 -19,1
Hàng dệt, may 2.600 -445 -14,6
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện 1.633 -313 -16,1
Giày dép các loại 1.454 -168 -10,4
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng
khác 897 -106 -10,6
Gỗ và sản phẩm gỗ 742 -178 -19,3
Phương tiện vận tải và phụ tùng 674 -111 -14,1
Hàng thủy sản 668 -101 -13,1
Cà phê 372 -79 -17,6
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù 343 -45 -11,6
Nguồn: Tổng cục Hải quan
52
Nửa đầu tháng 02 năm 2016, kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam giảm so với
cùng kỳ năm 2015 chủ yếu do giảm kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng: hàng dệt
may giảm 445 triệu USD, điện thoại các
loại & linh kiện giảm 714 triệu USD, giày
dép các loại giảm 168 triệu USD, máy vi
tính sản phẩm điện tử & linh kiện giảm 313
triệu USD, máy móc thiết bị dụng cụ &
phụ tùng giảm 106 triệu USD, hàng thủy
sản giảm 101 triệu USD, phương tiện vận
tải & phụ tùng giảm 111 triệu USD.
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất của Việt Nam từ
01/01/2015 – 15/02/2016 và so sánh với cùng kỳ năm 2015
Tên mặt hàng hóa chủ yếu
Kim ngạch
nhập khẩu
từ 01/01 đến
15/02/2016
So với cùng kỳ năm 2015
Kim ngạch
+/- (Triệu
USD)
Kim
ngạch +/-
(%)
TỔNG TRỊ GIÁ 16.348 -4.305 -20,8
Trong đó: Doanh nghiệp FDI 9.703 -2.585 -21,0
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện 2.799 -131 -4,5
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
khác 2.660 -1.118 -29,6
Điện thoại các loại và linh kiện 1.097 -280 -20,3
Vải các loại 965 -148 -13,3
Sắt thép các loại 730 -198 -21,3
Chất dẻo nguyên liệu 538 -120 -18,3
Kim loại thường khác 448 18 4,1
Nguyên phụ liệu dệt may da giày 436 -109 -20,0
Sản phẩm từ chất dẻo 424 -28 -6,2
Xăng dầu các loại 400 -244 -37,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Giá trị hàng hoá nhập khẩu của Việt
Nam tính đến hết ngày 15/2/2016 đạt gần
16,35 tỷ USD, giảm 20,8% (tương ứng
giảm 4,3 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2015
cụ thể với từng mặt hàng chủ yếu như bảng
thống kê trên.
53
3. Các quan điểm khác nhau về
điều chỉnh tỷ giá
Trước tiến trình hội nhập đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, trong thời gian gần
đây, đã xuất hiện các cuộc tranh luận giữa
các quan điểm khác nhau về tỷ giá. Tựu
chung lại, có 2 quan điểm nổi bật:
- Không phá giá cũng không lên giá
đồng nội tệ
- Nên phá giá “vừa tầm” đồng nội tệ
để khuyến khích xuất khẩu
Trường phái chống lại phá giá - với
các quan điểm sau:
(1) Điều chỉnh tăng tỷ giá có thể cải
thiện xuất khẩu nhưng mức độ không lớn,
trong khi còn phải cân nhắc tác động tới
nhập khẩu, nhất là khi nhập khẩu đang tăng
trở lại; điều chỉnh tăng tỷ giá sẽ khiến chi
phí sản xuất tính bằng VND tăng lên do
sản xuất trong nước đang phụ thuộc nhiều
vào hàng nguyên vật liệu nước nước ngoài
nhập khẩu;
(2) Phá giá làm tăng gánh nặng nợ
nước ngoài của Việt Nam.
(3) Cần thấy rằng để tăng khả năng
cạnh tranh hàng xuất khẩu hiện nay yếu tố
chính không phải là tỷ giá, mà cần phải
nâng cao chất lượng, mẫu mã, giá trị sử
dụng, độ thỏa mãn người tiêu dùng;
(4) Diễn biến thế giới thời gian qua, các
nước chủ yếu thực hiện chính sách tiền tệ
nới lỏng, chủ yếu thông qua giảm lãi suất
hay mở rộng các gói nới lỏng định lượng,
thông qua đó hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế. Ở Việt Nam, NHNN thời
gian qua cũng đã và đang điều hành theo
hướng đưa tiền ra khá nhiều, chủ yếu qua
kênh mua ngoại tệ, giảm mặt bằng lãi suất;
(5) Đồng USD có tăng mạnh so với
một số đồng tiền chủ chốt như euro, bảng
Anh, đô la Canada. Tuy nhiên, tỷ trọng
thương mại Việt Nam với các nước có
đồng tiền mất giá mạnh khá nhỏ và ngược
lại (ít ảnh hưởng đến xuất khẩu).
Chỉ số USD Index từ tháng 10/2014 – 3/2015
$DXY – US Dollar Index – Daily OHLC Chart
Hình 3: Xu hướng lên giá của đồng USD
Nguồn: Bloomberg 2015
54
(6) VND mất giá qua các năm, ngay cả
khi USD liên tục giảm giá. Do đó, không
nên quá lo ngại về việc VND lên giá tương
đối với các đồng tiền sẽ ảnh hưởng đến
cạnh tranh xuất khẩu;
Quan điểm thứ hai cho rằng việc lên
giá của đồng nội tệ đã cản trở việc hình
thành một chính sách tỷ giá khuyến khích
xuất khẩu.Quan điểm này đưa ra những lập
luận rất vững chắc cổ vũ cho việc phá giá
đồng nội tệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế
thế giới sắp tới. Những người theo quan
điểm này đã minh chứng:
Thứ nhất, tác động của việc VND lên
giá so với nhiều bản tệ trên thế giới diễn ra
trên diện rộng hơn nhiều, chứ không bó
hẹp trong phạm vi xuất khẩu (và một số ít
thị trường xuất khẩu) của Việt Nam như
nhiều người quan niệm như hiện nay.Chính
những lý do này luôn được dùng để trấn an
dư luận trong các đợt “sốt” tỷ giá lần trước
nhưng rồi rốt cuộc tỷ giá vẫn được điều
chỉnh.
Thứ hai, đành rằng để tăng khả năng
cạnh tranh hàng xuất khẩu hiện nay yếu tố
chính không phải là tỷ giá. Nhưng nếu tỷ
giá gây bất lợi cho xuất khẩu thì có nghĩa là
yếu tố tỷ giá sẽ triệt tiêu đi một phần hay
toàn bộ những cố gắng cải thiện tính cạnh
tranh của nhà xuất khẩu Việt Nam. Bởi thế,
để tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu
của Việt Nam thì nâng cao chất lượng, mẫu
mã... không thôi là chưa đủ, mà phải có sự
hỗ trợ của tỷ giá! Và cũng cùng một lý do
này mà nhiều nước chủ động để bản tệ của
họ yếu đi nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu.
Hình 4: Sự giảm giá một số đồng tiền so với đồng USD
Nguồn: báo Tuổi trẻ ngày 20/8/2015
Thứ ba, chính xác ra thì cần phải nói
rằng nhập siêu đang tăng trở lại chứ còn
nhập khẩu đang tăng trở lại là điều bình
thường, lành mạnh nếu nền kinh tế vẫn
tăng trưởng và xuất khẩu tăng với mức lớn
hơn nhập khẩu.
Nếu đã rơi vào tình trạng nhập siêu
như hiện nay thì việc không phá giá VND
để kìm hãm chi phí nhập khẩu (nếu quy ra
VND) sẽ không làm giảm khó khăn cho
nền kinh tế vì nhập siêu có nghĩa là phải đi
vay mượn nước ngoài để thanh toán cho số
hàng nhập khẩu vượt trội này.
Điều chỉnh tăng tỷ giá - đúng là sẽ
khiến chi phí sản xuất tính bằng VND tăng
lên - nhưng điều này không ảnh hưởng đến
55
giá bán và lợi nhuận của hàng xuất khẩu.
Giá xuất khẩu tính bằng USD, được cố
định trong hợp đồng xuất khẩu. Giá nguyên
vật liệu nhập khẩu cũng được tính bằng
USD và cũng đã cố định trong hợp đồng
nhập khẩu. Trong khi đó, những chi phí
sản xuất phát sinh trong nước như tiền
lương, điện nước, mặt bằng, thuế, phí,
nguyên phụ liệu mua trong nước... do tính
bằng VND nên khi điều chỉnh tăng tỷ giá
VND thì những chi phí này sẽ lại giảm đi
nếu tính theo USD.
Thứ tư, nếu đúng như NHNN nói là đã
đưa tiền ra khá nhiều, chủ yếu qua kênh
mua ngoại tệ, làm giảm mặt bằng lãi suất,
thì lẽ ra, theo lý thuyết, tỷ giá phải chịu áp
lực điều chỉnh tăng lên. Nhưng tỷ giá VND
lại tương đối ổn định. Điều này có nghĩa là
hoặc việc đưa tiền ra của NHNN là chưa
đủ lớn để hạ lãi suất (và cũng tức là giảm
giá VND), hoặc NHNN lại dùng những
công cụ nào đó (gồm cả công cụ hành
chính) để “trói” tỷ giá.
Thứ năm, đúng là VND mất giá qua
các năm, ngay cả trong giai đoạn mà USD
liên tục giảm giá. Nhưng mức độ mất giá
của VND là quá nhỏ so với, ví dụ, chênh
lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ, cũng
như mức độ mất giá của các bản tệ khác
hiện nay. Tỷ giá thực của VND đã lên so
với USD nói riêng và các bản tệ khác nói
chung, dẫn đến áp lực điều chỉnh tỷ giá
VND ngày càng dồn nén, và bởi vậy sẽ là
một rủi ro lớn nếu tỷ giá VND không được
điều chỉnh linh hoạt hơn.
Thứ sáu, phá giá đúng là sẽ làm tăng
gánh nặng nợ nước ngoài của Chính phủ và
doanh nghiệp, nhưng cần lưu ý rằng gánh
nặng này chỉ tăng lên nếu quy ra VND, chứ
nó sẽ không đổi nếu tính bằng USD, trước
và sau khi phá giá.
Từ phân tích trên, quan điểm trên đã
ủng hộ cho việc phá giá đủ tầm đồng nội tệ
và đưa ra những phân tích về lợi ích và
thiệt hại khi phá giá đồng nội tệ:
Lợi ích:
- Phá giá không gây ra lạm phát cao
như nhiều người lo ngại.
- Phá giá sẽ làm tăng nhanh xuất khẩu
và điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế theo hướng
hiệu quả và bền vững.
- Phá giá giúp đẩy mạnh cải tổ khu vực
doanh nghiệp, nhất là DNNN và cải thiện
tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng.
- Phá giá sẽ làm tăng dự trữ ngoại tệ
của NHNN.
- Và quan trọng nhất là phá giá cho
phép điều chỉnh thu nhập thành thị nông
thôn và điều chỉnh cơ cấu lao động trong
nền kinh tế.
Tóm lại, phá giá sẽ làm tăng sức cạnh
tranh của nền kinh tế, cho phép giảm hàng
rào bảo hộ mậu dịch và đầu tư, tiến tới chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiệt hại:
- Không chắc làm tăng khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu vì năng lực cạnh
tranh chịu tác động của nhiều yếu tố đan
xen nhau.
- Giá trị các mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam thường có nguyên liệu từ việc
nhập khẩu chứ không phải hoàn toàn do sản
xuất trong nước. Do đó tỷ giá tăng sẽ đẩy
giá đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất.
4. Kết luận
Trong trường hợp VN - trước tiến trình
hội nhập - có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu
và điều chỉnh cơ cấu kinh tế là những mục
tiêu bức thiết của chủ trương thay đổi tỷ
giá trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện
nay. Kế đó là việc thực hiện cơ chế hình
thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu có sự
tham gia điều tiết của NHNN để “Nâng
dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính
56
chuyển đổi của đồng tiền VN”. Từ yêu cầu
trên, chính sách tỷ giá sắp tới cần xét lại
vấn đề tỷ giá để khôi phục và tăng thêm
sức cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu
Việt Nam. Lợi thế cạnh tranh số một của
VN so với các nước Đông Nam Á là chi
phí lao động rẻ đang mất dần trong khi môi
trường đầu tư tại VN được cải thiện rất
chậm. Vì vậy, để tăng trưởng xuất khẩu
nhanh, tạo việc làm và tăng thu nhập dài
hạn, VN cần thực hiện một cơ chế tỷ giá
mới. Đó là cơ chế giao dịch có kỳ hạn.
Ngân hàng Nhà nước sẽ xác định một mốc
kỳ vọng 3 tháng với tỷ giá được giao dịch
ở mức đó.
Việc nên áp dụng chính sách điều
chỉnh tỷ giá từng bước như cách làm hiện
nay của NHNN. Với một sự thay đổi tỷ giá
nhẹ nhàng và từ từ sẽ không làm xáo trộn
giá cả các sản phẩm then chốt, không phát
sinh đầu cơ, vì lợi nhuận đầu cơ không
đáng kể do phải mất chi phí mua vào bán.
Ngoài ra Nhà nước còn sử dụng các công
cụ bổ sung cho tỷ giá, bù lỗ, cấp tín dụng
ưu đãi làm hàng xuất khẩu cho nộp thuế trả
chậm v.v là rất thích hợp vì đa dạng hóa
biện pháp cho tăng xuất khẩu và nền kinh
tế, xã hội vẫn ổn định.Tuy nhiên, để đạt
được hiệu quả mong muốn cho việc điều
chỉnh tỷ giá trong thời gian tới thì cần phải
thực hiện đồng bộ các biện pháp như: tự do
hóa mạnh mẽ hoạt động ngoại thương,
giảm mạnh và tiến đến xóa bỏ độc quyền
của các DNNN; cải tiến hoạt động tiếp thị
và tìm kiếm khách hàng; giảm các tiêu cực
phí trong hoạt động XNK và hải quan,
giảm tỷ lệ thuế nhập theo lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế và nhờ đó đưa dần luồng
ngoại thương bất hợp pháp thành luồng
hợp pháp, chính là những biện pháp cơ
bản và lâu dài cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thành Chung, “Mối quan hệ giữa
truyền dẫn tỷ giá và lạm phát - Phân tích
chuỗi thời gian phi tuyến ở Việt Nam”, Tạp
chí Công nghệ Ngân hàng, Số 114
(09/2015).
2. Nguyễn Hoàng Giang (2014), “Hoạt động
đầu tư và thị trường tài chính Châu Á trước
tác động của khủng hoảng từ EU”, Tạp chí
Khoa học Tài chính Kế toán (Bộ Tài Chính)
ISSN, Số 2 (6/2014).
3. Nguyễn Hoàng Giang (2004), “Tỷ giá VND
trước tiến trình hội nhập”, Tạp chí Phát
triển Kinh tế ISSN, Số 145 - Trường
ĐHKT-TP.HCM.
4. Nguyễn Hoàng Giang (2005), “Lựa chọn cơ
chế tỷ giá trong chính sách kinh tế vĩ mô ở
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, ĐHQG
TP.HCM.
5. Nguyễn Hoàng Giang (2015), “Kiểm soát
DN độc quyền, thành tựu nghiên cứu nổi
bật của giải Nobel kinh tế 2014”, Tạp chí
Khoa học ĐH Văn Hiến ISSN, Số 8
(08/2015).
6. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Báo cáo
thường niên: 2008, 2009, 2010, 2011, 2012,
2013, 2014.
7. Tổng cục Thống kê, Báo cáo “Tình hình
kinh tế - xã hội” năm 2012, 2013, 2014.
Ngày nhận bài: 09/10/2015 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_viec_dieu_chinh_ty_gia_den_nang_luc_canh_tranh_xuat.pdf