Thu thập dữ liệu điện tử phục vụ yêu
cầu điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều
tra phải tuân thủ nghiêm túc các nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra
Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm
bảo đảm mọi hoạt động của CQĐT tuân
thủ đúng quy định của pháp luật, sự thật
khách quan của vụ án được chứng minh
đầy đủ, toàn diện bởi hệ thống chứng cứ
với đầy đủ các thuộc tính luật định. Theo
quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015:
“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm
pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm
pháp luật luật đều phải được phát hiện, xử lý
kịp thời, nghiêm minh.” Điều đó có nghĩa
là mọi hoạt động thu thập đánh giá và
sử dụng chứng cứ, DLĐT cũng như mọi
quyết định tố tụng hình sự của CQĐT đều
phải chịu sự kiểm tra, giám sát (kiểm sát)
và gắn chặt với vai trò thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát. Đây chính là
cơ sở để bảo đảm quá trình thu thập tài
liệu, chứng cứ nói chung, chứng cứ điện tử
nói riêng của CQĐT được tiến hành thận
trọng, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu thập dữ liệu điện tử phục vụ yêu cầu điều tra chứng minh làm rõ vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
ĐỖ ĐÌNH HÒA
1. Dữ liệu điện tử và vai trò của dữ
liệu điện tử trong điều tra hình sự
Để bảo đảm tính đồng bộ tương thích
với việc pháp điển hóa nhiều tội phạm
mới về công nghệ thông tin, mạng viễn
thông trong Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm
2015), cũng như đáp ứng yêu cầu thu
thập tài liệu, chứng cứ điện tử trong điều
tra chứng minh làm rõ tội phạm theo
quy định của pháp luật hiện nay, Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 của
nước ta đã có những quan niệm mới về
chứng cứ và nguồn chứng cứ. Theo đó,
tại Điều 87 BLTTHS năm 2015 đã khẳng
định dữ liệu điện tử (DLĐT) là một nguồn
chứng cứ trong TTHS Việt Nam và tại
THU THẬP DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ PHỤC VỤ YÊU CẦU
ĐIỀU TRA CHỨNG MINH LÀM RÕ VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỖ ĐÌNH HÒA*
* Giáo sư, Tiến sĩ, Nguyên chuyên viên Học viện
Cảnh sát nhân dân
Dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự, do đó việc thu
thập dữ liệu điện tử là một biện pháp điều tra quan trọng, cần đáp ứng được các
yêu cầu cụ thể như: Thông tin, tài liệu thu được từ dữ liệu điện tử phải có đầy đủ
các thuộc tính luật định của chứng cứ; hoạt động thu thập dữ liệu điện tử phục vụ
yêu cầu điều tra chứng minh làm rõ vụ án phải được tiến hành nhanh chóng, kịp
thời, khách quan, toàn diện và đầy đủ theo quy định của pháp luật; hoạt động thu
thập dữ liệu điện tử phục vụ yêu cầu điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra
phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp chiến thuật điều tra trong từng
tình huống đặt ra; phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm quyền con
người của bị can, người bị tạm giữ và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Từ khóa: Dữ liệu điện tử, thu thập dữ liệu điện tử, biện pháp điều tra.
Ngày nhận bài: 24/9/2019; Biên tập xong: 12/10/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019
Electronic data is one source of evidence in criminal procedure; therefore,
collecting it is an important investigative measure which needs to meet specific
requirements: Information and documents collected from electromic data have
statutory attributes of evidence; collecting works are promptly, timely, objectively,
comprehensively and completely conducted according to laws as well as applying
flexibly and creatively of investigation tactics in each situation; that works must
be conducted basing on respecting and ensuring the accused’s human rights and
strictly complied with the provisions of law on the exercising prosecution rights
and supervising the investigation.
Keywords: Electronic data, collecting electronic data, investigation.
4THU THẬP DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ PHỤC VỤ YÊU CẦU ĐIỀU TRA...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
Điều 99 của Bộ luật này cũng đã xác định:
“Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số,
hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được
tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi
phương tiện điện tử. Dữ liệu điện tử được thu
thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính,
mạng viễn thông, trên đường truyền và các
nguồn điện tử khác”1.
Với tư cách là một nguồn chứng cứ
trong tố tụng hình sự (TTHS), DLĐT được
hiểu là những phản ánh vật chất (thông
tin, hình ảnh, màu sắc, âm thanh) tồn
tại dưới dạng kỹ thuật số, lưu giữ trong
các phương tiện điện tử hoặc trên mạng
máy tính, mạng viễn thông, phản ánh
khách quan, trung thực về những tình
tiết, diễn biến trong vụ án hình sự hoặc có
liên quan đến vụ án hình sự nào đó đã xảy
ra, được thu thập theo đúng trình tự tố
tụng, được dùng làm căn cứ để xác định
có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội và những tình
tiết khác có ý nghĩa trong giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật. Như
vậy, DLĐT có vai trò rất lớn trong điều tra
chứng minh làm rõ tội phạm. Cụ thể là:
- DLĐT có thể cung cấp các thông tin,
tài liệu với đầy đủ các thuộc tính của chứng
cứ chứng minh làm rõ tội phạm, nhất là các
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông.
Tính năng của các phương tiện điện
tử, mạng máy tính, mạng viễn thông
trong việc ghi nhận, lưu giữ những thông
tin, hình ảnh là phản ánh một cách
trung thực, khách quan những diễn biến,
1 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
thay đổi của các sự vật hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội, trong đó, không ít trường
hợp các thông tin hình ảnh của DLĐT là
những phản ánh khách quan về một vụ
phạm tội nào đó đã xảy ra trên thực tế.
Nếu các thông tin này được các cơ quan
có thẩm quyền điều tra thu thập, khai
thác sử dụng theo đúng quy định của
pháp luật TTHS, nó sẽ trở thành chứng cứ
với đầy đủ các thuộc tính luật định (thuộc
tính khách quan, thuộc tính liên quan và
thuộc tính hợp pháp) để chứng minh làm
rõ tội phạm theo quy định của pháp luật.
Ví dụ, thông qua việc phát hiện thu
giữ và khai thác sử dụng thông tin, hình
ảnh được ghi nhận, lưu giữ trung
thực trên điện thoại di động thông minh
(smartphone) hay trên hệ thống Camera
quan sát giao thông, Camera quản lý hành
trình của các phương tiện giao thông,
Cơ quan điều tra (CQĐT) có thể xác định
chính xác về: Tốc độ; phần đường, phía
đi; chiều hướng vận động của mỗi bên
phương tiện; cũng như khả năng phát
hiện và xử lý tình huống của người điều
khiển phương tiện trong một vụ tai nạn
giao thông đặc biệt nghiêm trọng, từ đó
phân tích, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn,
lỗi và trách nhiệm hình sự của các bên có
liên quan. Đặc biệt, trong điều tra các tội
phạm thuộc lĩnh vực công nghệ thông
tin, mạng viễn thông được quy định từ
Điều 285 đến Điều 294 BLHS năm 2015,
việc thực hiện các biện pháp bắt, khám
xét để kịp thời phát hiện thu giữ các
thông tin, hình ảnh, âm thanh, chữ viết,
chữ số được ghi nhận, lưu giữ trên
mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
trên các phương tiện điện tử cá nhân của
5Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
ĐỖ ĐÌNH HÒA
đối tượng phạm tội... là hết sức cần thiết.
Những thông tin, tài liệu thu được từ dữ
liệu điện tử đó cũng là những chứng cứ
đặc trưng khó có điều kiện thay thế trong
điều tra đối với loại tội phạm nói trên.
- DLĐT có quan hệ chặt chẽ với các nguồn
chứng cứ khác trong quá trình phát hiện, thu
thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ để chứng
minh tội phạm theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật TTHS2,
DLĐT là một trong bảy nguồn chứng cứ.
Các thông tin, tài liệu, hình ảnh từ DLĐT
luôn có mối quan hệ mật thiết với những
thông tin tài liệu khác của CQĐT được thu
từ các nguồn: Vật chứng; lời khai; kết luận
giám định, định giá tài sản; biên bản trong
các hoạt động TTHS Cần phải lưu ý mối
quan hệ này để nghiên cứu, phân tích,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ, nhằm làm rõ
các thuộc tính của chứng cứ cũng như giá
trị chứng minh, ngưỡng chứng minh của
từng chứng cứ, từng nhóm chứng cứ và
của cả hệ thống chứng cứ ở từng thời điểm
nhất định của quá trình điều tra. Đặc biệt,
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay, khoa học kỹ thuật công nghệ điện tử
phát triển như vũ bão, việc phát hiện thu
thập, khai thác sử dụng DLĐT trên các
phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng
viễn thông để điều tra chứng minh làm rõ
tội phạm đã trở thành phương thức điều
tra đặc thù, mang tính phổ biến của CQĐT
các cấp trong ngành Công an.
- DLĐT giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc thực hiện các biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt theo quy định của pháp luật.
2 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Theo quy định mới của BLTTHS năm
2015 về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
đối với các tội phạm xâm phạm an ninh
quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm
về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền
hoặc tội phạm có tổ chức đặc biệt nghiêm
trọng3, ngay sau khi khởi tố điều tra,
Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh có quyền ra
quyết định (có sự phê chuẩn của VKSND
cùng cấp) về việc áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt, như: Ghi âm, ghi hình
bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí
mật dữ liệu điện tử4
Như vậy, CQĐT có thẩm quyền trong
các trường hợp nói trên, một mặt phải
thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật về thẩm quyền áp dụng, đối
tượng bị áp dụng, thời hạn, nội dung áp
dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt; mặt khác, phải nắm chắc yêu cầu
nhiệm vụ điều tra, điều kiện, hoàn cảnh
ở từng tình huống điều tra để linh hoạt,
sáng tạo trong việc phối hợp lực lượng
lắp đặt, khai thác sử dụng có hiệu quả
tính năng, tác dụng của các phương tiện,
thiết bị kỹ thuật điện tử nghiệp vụ được
trang bị. Điều này nhằm bí mật thu thập
các thông tin, tài liệu về hoạt động của đối
tượng gây án để chứng minh làm rõ tội
phạm người thực hiện hành vi phạm tội
theo đúng quy định của pháp luật.
2. Thu thập dữ liệu điện tử và những
yêu cầu đặt ra trong thu thập dữ liệu
điện tử phục vụ yêu cầu điều tra chứng
minh làm rõ vụ án hình sự
3 Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
4 Điều 223 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
6THU THẬP DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ PHỤC VỤ YÊU CẦU ĐIỀU TRA...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
CQĐT có nhiệm vụ trực tiếp tiến hành
các biện pháp điều tra thu thập tài liệu,
chứng cứ (trong đó có các chứng cứ điện
tử được thu từ DLĐT) để chứng minh
làm rõ vụ án theo quy định của pháp luật.
Hoạt động thu thập chứng cứ của CQĐT
được tiến hành ngay từ khi tiếp nhận, xử
lý tố giác, tin báo về tội phạm và được
kết thúc sau khi có bản kết luận điều tra.
Trong khoảng thời gian đó, CQĐT được
áp dụng các biện pháp theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự như: Tiếp nhận
xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; khởi tố
vụ án, khởi tố bị can; áp dụng thay đổi
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; khám
nghiệm hiện trường, lấy lời khai người
làm chứng, người bị hại; hỏi cung bị can;
đối chất, nhận dạng; khám xét kê biên tài
sản... để thu thập tài liệu chứng cứ chứng
minh làm rõ vụ án theo quy định tại Điều
85 BLTTHS năm 2015.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc
thu thập DLĐT của CQĐT là một phương
thức của hoạt động điều tra theo quy định
của TTHS. Quá trình đó thường diễn ra vô
cùng khó khăn, phức tạp và không thuần
tuý chỉ là việc tiến hành tuần tự các biện
pháp điều tra theo trình tự của tố tụng, mà
còn đòi hỏi CQĐT phải biết linh hoạt, sáng
tạo khai thác, sử dụng tổng hợp các “kênh”,
“nguồn” thông tin, các biện pháp, phương
tiện nghiệp vụ có liên quan để hỗ trợ cho
việc tiến hành các biện pháp điều tra thu
thập DLĐT theo quy định của TTHS.
Từ cách tiếp cận vấn đề như đã nêu
cho thấy: Thu thập dữ liệu điện tử phục
vụ yêu cầu điều tra chứng minh vụ án
hình sự của CQĐT có thể được hiểu: “Là
những hoạt động do Cơ quan điều tra tiến
hành trên cơ sở các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự, có sự phối hợp hỗ trợ của
các lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp
vụ có liên quan trong việc phát hiện, thu giữ,
bảo quản... các thông tin, tài liệu trong dữ liệu
điện tử phục vụ tốt yêu cầu kiểm tra, đánh giá
xác định giá trị chứng minh, cũng như thời
điểm, cách thức sử dụng các thông tin, tài liệu
đó trong chứng minh làm rõ vụ án theo quy
định của pháp luật”.
Xuất phát từ nhận thức lý luận và thực
tiễn điều tra hình sự ở nước ta cho thấy,
để phát huy vai trò của chứng cứ điện tử
trong điều tra vụ án hình sự, quá trình
phát hiện thu thập DLĐT của CQĐT cần
đáp ứng được các yêu cầu cụ thể sau đây:
- Thông tin, tài liệu thu được từ dữ liệu
điện tử phục vụ yêu cầu điều tra chứng minh
làm rõ vụ án phải có đầy đủ các thuộc tính
luật định của chứng cứ
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc của
TTHS, cũng giống các thông tin, tài liệu
được thu từ các nguồn chứng cứ khác, tài
liệu từ DLĐT dùng để chứng minh làm rõ
vụ án theo quy định của pháp luật phải có
đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ được
quy định rõ tại Điều 86 BLTTHS năm 2015:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự do Bộ luật này quy định, được
dùng làm căn cứ để xác định có hay không
có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi
phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý
nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vụ án.”
Như vậy, một thông tin, tài liệu của
DLĐT được coi là chứng cứ khi và chỉ khi
7Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
ĐỖ ĐÌNH HÒA
nó có đủ ba thuộc tính5, đó là: (1) Thuộc tính
khách quan của chứng cứ. Những thông tin,
tài liệu từ DLĐT được sử dụng làm chứng
cứ phải là “những gì có thật”, tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức chủ quan của con
người, phản ánh trung thực về những tình
tiết, diễn biến của vụ án đã xảy ra. Mọi suy
diễn chủ quan, thiếu thận trọng, không có
các căn cứ khoa học đều có thể mang đến
những sai lầm trong điều tra, giải quyết
vụ án; (2) Thuộc tính liên quan của chứng
cứ. Điều này có nghĩa là những thông tin,
tài liệu từ DLĐT dùng làm chứng cứ phải
có cơ sở để khẳng định chắc chắn về mối
liên quan với những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự đã xảy ra (theo
quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015).
Nói cách khác, những thông tin tài liệu đó
phải có ý nghĩa chứng minh, giải quyết vụ
án theo quy định của pháp luật; (3) Thuộc
tính hợp pháp của chứng cứ. Những thông
tin, tài liệu từ DLĐT dùng làm chứng cứ
phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử
dụng theo đúng quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Mọi tài liệu phản ánh về tính
có thật của vụ án, nhưng không được thu
thập theo đúng trình tự thủ tục tố tụng thì
đều không có giá trị trong chứng minh làm
rõ vụ án và giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
- Hoạt động thu thập dữ liệu điện tử phục
vụ yêu cầu điều tra chứng minh làm rõ vụ án
phải được tiến hành nhanh chóng, kịp thời,
khách quan, toàn diện và đầy đủ theo quy định
của pháp luật
Bên cạnh việc phải tiến hành nhanh
chóng kịp thời theo yêu cầu điều tra, với
5 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
tư cách là một nguồn chứng cứ trong
TTHS, việc thu thập DLĐT của CQĐT còn
phải được phối hợp chặt chẽ với các biện
pháp điều tra thu thập tài liệu chứng cứ từ
các nguồn khác nhau nhằm bảo đảm tính
khách quan toàn diện và đầy đủ của quá
trình chứng minh làm rõ vụ án. Điều đó
đòi hỏi quá trình phát hiện thu thập chứng
cứ nói chung và DLĐT nói riêng phải bảo
đảm khách quan, thận trọng; phân tích,
đánh giá toàn diện về những diễn biến,
tình tiết, thông tin tài liệu, dấu vết... có liên
quan đến vụ án; phải coi trọng cả chứng
cứ chứng minh có tội và chứng cứ chứng
minh vô tội; phải thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Các tài liệu,
chứng cứ thu được từ DLĐT phải được
kiểm tra, so sánh, đối chiếu, đánh giá qua
các tài liệu thu được bằng các biện pháp
khác nhau ở các nguồn khác nhau để mở
rộng điều tra, củng cố chứng cứ, bảo đảm
tính khách quan, chính xác của các thông
tin, tài liệu trong DLĐT, cũng như giá trị
chứng minh nhiều lần của nó trong quá
trình điều tra giải quyết vụ án.
- Hoạt động thu thập dữ liệu điện tử phục
vụ yêu cầu điều tra vụ án hình sự của Cơ quan
điều tra phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các
phương pháp chiến thuật điều tra trong từng
tình huống đặt ra
Do tính chất, đặc điểm hoạt động của
tội phạm, cũng như yêu cầu bảo đảm bí
mật, nhanh chóng phát hiện đấu tranh có
hiệu quả với tội phạm, hoạt động thu thập
DLĐT của CQĐT thường được tiến hành
trong một số tình huống phổ biến như: Tìm
kiếm, phát hiện, thu giữ các DLĐT trên các
phương tiện điện tử, mạng viễn thông,
8THU THẬP DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ PHỤC VỤ YÊU CẦU ĐIỀU TRA...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
mạng máy tính có chứa đựng các thông tin,
hình ảnh liên quan đến vụ án hình sự đã
xảy ra để chứng minh tội phạm. Trong các
trường hợp này, ngoài việc phải nắm chắc,
vận dụng sáng tạo các quy định của pháp
luật trong khám nghiệm hiện trường, bắt,
khám xét thu giữ các phương tiện thiết bị
kỹ thuật điện tử..., cán bộ điều tra còn phải
có am hiểu nhất định về đặc tính kỹ thuật
của từng loại phương tiện điện tử trong
việc ghi nhận, lưu giữ thông tin, hình ảnh
để xác định đúng hướng điều tra, các biện
pháp kỹ thuật cần áp dụng nhằm phát
hiện thu giữ kịp thời các DLĐT phục vụ
yêu cầu điều tra. Hay trong các trường hợp
sử dụng phương tiện nghiệp vụ, thiết bị
kỹ thuật điện tử đặc biệt để chủ động thu
thập thông tin, tài liệu về đối tượng phạm
tội trong các vụ án đang diễn ra (sử dụng
để tiến hành các hoạt động trinh sát kỹ
thuật hoặc để thực hiện các biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt)..., CQĐT một mặt phải
thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
điều tra, nội dung, biện pháp điều tra đối
với những trường hợp nêu trên; mặt khác,
chủ động đưa ra các nội dung yêu cầu thu
thập DLĐT, phối hợp với lực lượng có
liên quan để lựa chọn hợp lý phương tiện
kỹ thuật, nơi lắp đặt và phương pháp sử
dụng... nhằm bảo đảm bí mật hình thức
biện pháp điều tra, kịp thời phát hiện, thu
giữ và sử dụng tốt nhất các thông tin tài
liệu từ DLĐT trong từng tình huống điều
tra (DLĐT thu được từ các hoạt động trinh
sát kỹ thuật phải được chuyển hóa trước
khi sử dụng theo quy định).
- Hoạt động thu thập dữ liệu điện tử
trong điều tra vụ án hình sự phải chủ động
phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, phương
tiện, biện pháp nghiệp vụ có liên quan, nhất là
hoạt động trinh sát của ngành Công an
Do tính chất hoạt động của tội phạm
và những vấn đề phải chứng minh trong
quá trình điều tra làm rõ vụ án mà vấn
đề phối hợp lực lượng, khai thác sử dụng
các phương pháp chiến thuật, phương
tiện nghiệp vụ của ngành Công an, nhất
là biện pháp trinh sát để hỗ trợ cho các
hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng
DLĐT đã trở thành yêu cầu khách quan,
đặc tính vốn có của quá trình điều tra
nói chung và thu thập DLĐT nói riêng.
Ví dụ như trong công tác phối hợp với
Cảnh sát giao thông, Cảnh sát quản lý
hành chính trong việc trích xuất thông
tin, tài liệu, hình ảnh trên các Camera
quan sát giao thông, trên hệ thống tàng
thư DLĐT về chứng minh, căn cước, hộ
khẩu; về phương tiện giao thông, về giấy
phép lái xe, người điều khiển phương
tiện giao thông; phối hợp với lực lượng
Kỹ thuật hình sự, Cơ quan giám định
trong việc phân tích đánh giá dấu vết,
trưng cầu giám định các thông tin hình
ảnh DLĐT và nhất là phối hợp với các lực
lượng trinh sát để đưa ra các yêu cầu bí
mật thu thập DLĐT, thông tin tài liệu về
đối tượng phạm tội phục vụ yêu cầu điều
tra trong từng tình huống đặt ra. Mặc dù
trong nhiều trường hợp các tài liệu trinh
sát kỹ thuật như: ghi âm, ghi hình bí mật
không có giá trị chứng minh vụ án theo
quy định của pháp luật (trừ các vụ án
được áp dụng biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt), song trên thực tế nó lại luôn có
tác dụng to lớn trong việc đi sâu làm rõ
vai trò, vị trí, hành vi phạm tội của từng
đối tượng trong vụ án; củng cố niềm tin,
9Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
ĐỖ ĐÌNH HÒA
tạo thuận lợi cho cán bộ điều tra tổ chức
tiến hành có hiệu quả các biện pháp thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng
minh tội phạm theo trình tự tố tụng.
- Hoạt động thu thập dữ liệu điện tử phục
vụ yêu cầu điều tra chứng minh làm rõ vụ án
của Cơ quan điều tra phải được tiến hành trên
cơ sở tôn trọng và bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự
Việc chứng minh làm rõ sự thật khách
quan của vụ án luôn gắn liền với việc
quyền của người bị buộc tội được tôn
trọng và được bảo đảm bằng các nguyên
tắc luật định. Theo đó, những người bị
buộc tội (bị tình nghi phạm tội), như: Bị
can, bị cáo, người bị tạm giữ, tam giam là
những người đang bị Nhà nước thực hiện
các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn cần
thiết. Quyền con người của những người
bị tình nghi phạm tội nêu trên, bao gồm hệ
thống các quyền như: Quyền bình đẳng
trước pháp luật; quyền được bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài
sản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
chỗ ở, bí mật về thư tín, điện thoại, điện
tín và đặc biệt là quyền bào chữa (tự bào
chữa hoặc thuê người khác bào chữa) cần
được tôn trọng và bảo vệ. Do đó, việc thu
thập các chứng cứ, DLĐT cần đảm bảo
nguyên tắc tôn trọng quyền con người và
phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ
chặt chẽ các quy định của pháp luật.
- Thu thập dữ liệu điện tử phục vụ yêu
cầu điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều
tra phải tuân thủ nghiêm túc các nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra
Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm
bảo đảm mọi hoạt động của CQĐT tuân
thủ đúng quy định của pháp luật, sự thật
khách quan của vụ án được chứng minh
đầy đủ, toàn diện bởi hệ thống chứng cứ
với đầy đủ các thuộc tính luật định. Theo
quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015:
“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm
pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm
pháp luật luật đều phải được phát hiện, xử lý
kịp thời, nghiêm minh...” Điều đó có nghĩa
là mọi hoạt động thu thập đánh giá và
sử dụng chứng cứ, DLĐT cũng như mọi
quyết định tố tụng hình sự của CQĐT đều
phải chịu sự kiểm tra, giám sát (kiểm sát)
và gắn chặt với vai trò thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát. Đây chính là
cơ sở để bảo đảm quá trình thu thập tài
liệu, chứng cứ nói chung, chứng cứ điện tử
nói riêng của CQĐT được tiến hành thận
trọng, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tóm lại, thu thập DLĐT và các yêu
cầu trong thu thập, đánh giá, sử dụng
chứng cứ, DLĐT của CQĐT là những
vấn đề khách quan được đặt ra từ chính
nội dung những vấn đề phải chứng minh
trong điều tra vụ án hình sự. Điều đó đòi
hỏi quá trình thu thập, đánh giá, sử dụng
các thông tin, tài liệu từ DLĐT phải được
đặt trong mối quan hệ tổng thể, biện
chứng với các thông tin tài liệu được thu
từ các nguồn tố tụng khác để bảo đảm
tính khách quan, toàn diện và đầy đủ
của cả hệ thống chứng cứ, đảm bảo giá
trị chứng minh của chứng cứ trong giải
quyết vụ án hình sự./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_thap_du_lieu_dien_tu_phuc_vu_yeu_cau_dieu_tra_chung_minh.pdf