Mối liên hệ giữa các yếu tố liên quan
và sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC
Kết quả nghiên cứu cho thấy ĐTNC có trình
độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có sơ
cứu bỏng đúng cao gấp 3,4 lần so với ĐTNC
có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông,
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Trong nghiên cứu này, đa số ĐTNC có trình độ
học vấn từ THPT trở lên với tỷ lệ 67,9%. Hơn
nữa, kết quả nghiên cứu cho thấy, nạn nhân
bỏng thường hay gặp nhất là độ tuổi dưới 5 tuổi
(71,7%) so với các độ tuổi khác. Đặc biệt, ở
trẻ nhỏ bị bỏng, nếu áp dụng biện pháp sơ cứu
không đúng có thể dẫn đến hậu quả tăng nguy
cơ sốc và nhiễm trùng [7]. Khi có trình độ học
vấn, ĐTNC thường có kiến thức cơ bản, ngoài
ra có thể tìm hiểu thêm kiến thức ở các phương
tiện truyền thông nên khi tai nạn bỏng xảy
ra bất ngờ họ thường bình tĩnh và có đủ kiến
thức để biết nên sơ cứu thế nào cho chuẩn mực
[8]. Ngược lại, nếu thiếu kiến thức về sơ cứu
bỏng thì họ thường sơ cứu theo thói quen, kinh
nghiệm, hoặc truyền miệng ví dụ như khi bỏng
nước sôi thì bôi kem đánh răng, nước mắm
Nhiều người cho rằng điều này giúp làm dịu và
nhanh lành vết thương [9], [10]. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Pellatt và cộng sự
(2010), nghiên cứu chỉ ra rằng khi người sơ cứu
thiếu hiểu biết thì sơ cứu bỏng chưa đúng là hậu
quả thường gặp [11]. Bên cạnh đó, trong nghiên
cứu này, chúng tôi chưa tìm thấy sự liên quan
giữa giới tính và sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC
(p> 0,05). Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu
của Mirastschijski và cộng sự (2013) thì giới
tính có mối liên quan mang ý nghĩa thống kê
với sơ cứu bỏng đúng [10]. Khi sơ cứu cho nạn
nhân bỏng, nếu đối tượng nghiên cứu là nữ giới
thì sơ cứu bỏng thường chuẩn mực hơn nam
giới [8]. Ngoài ra, giữa nam và nữ có thể có thái
độ khác nhau trước tình huống bỏng của nạn
nhân. Do vậy, họ có thể có cách sơ cứu bỏng
khác nhau [7]. Vì cỡ mẫu của nghiên cứu này
chưa đủ lớn để công bố sự liên quan giữa giới
tính và sơ cứu bỏng đúng ở người nhà sơ cứu
cho nạn nhân bỏng nhưng hy vọng sẽ có nhiều
nghiên cứu khác trong tương lai công bố về vấn
đề này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng sơ cứu nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị tại bệnh viện sản nhi Nghệ An năm 2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 77
Bệnh viện Trung ương Huế
THỰC TRẠNG SƠ CỨU NẠN NHÂN BỎNG
TRƯỚC KHI ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN NĂM 2019
Phan Thị An Dung1, Nguyễn Quốc Đạt1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.61.11
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sơ cứu ban đầu nạn nhân bỏng và nhận xét một số yếu tố liên quan đến sơ
cứu ban đầu đúng nạn nhân bỏng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang có phân tích với cỡ mẫu là 106 người nhà sơ cứu cho nạn nhân bỏng, đến khám và điều trị tại khoa
Chấn thương chỉnh hình Bỏng, Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019.
Kết quả: Có 58.6% nạn nhân được sơ cứu bỏng đúng trong đó: Sơ cứu bỏng nhiệt đúng chiếm 43.4%,
sơ cứu bỏng acid đúng chiếm 5.7%, còn lại là sơ cứu bỏng base đúng và sơ cứu bỏng điện đúng lần lượt là
3.8% và 5.7%. Sơ cứu bỏng đúng có mối liên quan mang ý nghĩa thống kê với trình độ học vấn của ĐTNC
(p < 0.05). Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính và sơ cứu bỏng đúng.
Kết luận: Sơ cứu nạn nhân bỏng chưa đúng vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao và yếu tố liên quan là trình độ
học vấn của ĐTNC, chưa tìm thấy mối liên quan giữa sơ cứu bỏng đúng và giới tính. Tất cả mọi người đặc
biệt là nhân viên y tế cần quan tâm đến công tác sơ cứu bỏng ban đầu nhằm nâng cao chất lượng chăm
sóc và điều trị.
Từ khóa: Sơ cứu bỏng; Nạn nhân bỏng; Chấn thương chỉnh hình bỏng
ABSTRACT
FIRST AID FOR BURN VICTIMS BEFORE ADMITTING
AT NGHE AN PEDIATRIC AND OBSTETRIC HOSPITAL IN 2019
Phan Thi An Dung1, Nguyen Quoc Dat1
Objectives: To describe the reality of initial first-aid treatment for burns and to investigate some factors
related to the right way to administer first-aid for burn victims.
Materials & Methods: A cross-sectional descriptive method with a sample size of 106 caregivers who
did the first-aid treatment for burn victims before admitting at Burns Orthopedic Trauma Department, Nghe An
Pediatric Hospital in 2019.
Result: There are 58.6% of victims who was correct in first-aid treatment: First aid for heat burns accounted
for 43.4%, first-aid for acid burns accounted for 5.7%, the remaining was first-aid for base burns and electric
burns at 3.8% and 5.7%, respectively. The correct first-aid treatment for burns has a statistically significant
relationship with education level of research subjects (p < 0.05). No significant relationship was found between
gender and the correct first-aid treatment for burns.
Conclusion: The incidence of incorrect first-aid treatment for burn victims is still high and the related factor
is the education level of research subjects, We found no connection between the correct first-aid treatment for
burns and gender. Everyone, especially health workers should be concerned about the initial first-aid treament
1. Trường Đại học Y khoa
Vinh – Nghệ An
- Ngày nhận bài (Received): 12/4/2020; Ngày phản biện (Revised): 25/4/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 29/5/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Phan Thị An Dung
- Email: andung1987@gmail.com; ĐT: 0974262588
78 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bỏng là một tai nạn thường gặp nhất trong cộng
đồng, do rất nhiều nguyên nhân gây ra, ví dụ như:
Nhiệt độ, tia lửa điện, hóa chất, chất phóng xạ.....
[1]. Hàng năm, số người bị bỏng trên thế giới chiếm
tỷ lệ rất cao, ước tính có khoảng 300.000 người chết
và hơn 10 triệu người tàn tật do bỏng gây ra [2]. Tổn
thương bỏng không chỉ làm tổn thương trên bề mặt
da của cơ thể mà còn là nguyên nhân dẫn đến các
rối loạn chức năng của cơ thể. Mức độ nặng hay nhẹ
của bỏng cũng như sự nhanh chóng hồi phục của
bỏng không chỉ phụ thuộc vào việc điều trị, chăm
sóc tại bệnh viện mà nó còn phụ thuộc nhiều vào
sơ cứu ngay sau bỏng [3]. Sơ cứu bỏng ban đầu có
vị trí đặc biệt quan trọng đó là phòng chống sốc,
giảm độ sâu của bỏng, loại bỏ mô hoại tử làm sạch
vết bỏng, làm giảm các biến chứng nhiễm khuẩn,
tạo điều kiện thuận lợi cho tái tạo biểu mô lành sẹo
trong bỏng nông, thúc đẩy phát triển mô hạt chuẩn
bị nền cho việc ghép da ở bỏng sâu [4]. Công việc
sơ cứu bỏng ban đầu chủ yếu do nạn nhân, người
nhà, hoặc cán bộ y tế tuyến cơ sở thực hiện, công tác
tuyên truyền hướng dẫn sơ cứu bỏng làm chưa tốt.
Vì vậy, sơ cứu bỏng ban đầu chưa thật chuẩn mực
khi tai nạn bỏng xảy ra. Do áp dụng biện pháp sơ
cứu không đúng dẫn đến hậu quả tăng nguy cơ sốc,
nhiễm trùng ở nạn nhân bỏng [5]. Vì vậy, với mục
đích nâng cao chất lượng công tác sơ cứu bỏng ban
đầu cho nạn nhân, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng sơ cứu nạn nhân bỏng trước khi đến
khám và điều trị tại khoa Chấn thương chỉnh hình
Bỏng - Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019”.
Mục tiêu nghiên cứu: 1. Mô tả thực trạng sơ
cứu nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị
tại Khoa Chấn thương chỉnh hình Bỏng - Bệnh viện
Sản Nhi Nghệ An năm 2019.
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến sơ cứu
đúng nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị
tại Khoa Chấn thương chỉnh hình Bỏng - Bệnh viện
Sản Nhi Nghệ An năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Là người nhà tiến
hành sơ cứu cho nạn nhân bỏng trước khi đến khám và
điều trị tại khoa Chấn thương chỉnh hình Bỏng - Bệnh
viện Sản Nhi Nghệ An.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả cắt ngang có phân tích
Cỡ mẫu: Cỡ mẫu là 106 với phương pháp chọn
mẫu thuận tiện
Phương pháp phân tích số liệu: Các số liệu điều
tra được thu thập và xử lí bằng chương trình phần
mềm SPSS 20.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm về nạn nhân bỏng
Bảng 1: Thông tin về đặc điểm nạn nhân bỏng
Thông tin chung về bệnh nhân n %
Giới
Nam 73 68,9
Nữ 33 31,1
Tuổi
< 5 tuổi 76 71,7
5- 10 tuổi 15 14,1
11-15 tuổi 15 14,2
Tổng 106 100
Trong tổng số 106 nạn nhân bỏng, nam giới chiếm tỷ lệ (68.9%) cao hơn nữ giới (31,1%), chủ yếu là độ
tuổi dưới 5 tuổi (71,7%).
for burns for burn victims to improve the quality of care and treatment.
Keywords: First aid for burns; Victims of burns; Orthopedic injury burns
Thực trạng sơ cứu nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 79
Bệnh viện Trung ương Huế
3.2. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 2: Thông tin về đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Thông tin chung về ĐTNC n %
Giới
Nam 24 22,6
Nữ 82 77,4
Tuổi
≤ 15 tuổi 6 5,7
< 16- 60 tuổi 93 87,7
> 60 tuổi 7 6,6
Ông/Bà 8 7,5
Mối quan hệ với Bố/Mẹ 89 84,0
người bệnh Anh/Chị 3 2,8
Khác 6 5,7
Trình độ giáo dục
Dưới THPT 34 32,1
Từ THPT trở lên 72 67,9
Tổng 106 100
Trong tổng số 106 ĐTNC, nữ giới chiếm tỷ lệ (77.4%) cao hơn nam giới (22.6%), chủ yếu là từ độ tuổi
16 đến 60 tuổi (87.6%). Mối quan hệ là bố hoặc mẹ chiếm tỷ lệ cao (84.0%). Trình độ học vấn từ THPT trở
lên chiếm đa số (67.9%).
Bảng 3: Thông tin về thực trạng sơ cứu bỏng ban đầu đúng, chưa đúng
Phương pháp sơ cứu sau bỏng
Sơ cứu bỏng đúng
Sơ cứu bỏng
chưa đúng
Tổng
n % n % n %
Sơ cứu bỏng nhiệt 46 43,4 35 33,0 81 76,4
Sơ cứu bỏng base 4 3,8 2 1,9 6 5,7
Sơ cứu bỏng acid 6 5,7 2 1,9 8 7,5
Sơ cứu bỏng điện 6 5,7 5 4,7 11 10,4
Tổng 62 58,6 44 41,4 106 100
Trong tổng số 106 trường hợp nạn nhân bỏng, tỷ lệ nạn nhân được sơ cứu bỏng đúng chiếm 58,6% và
chưa đúng chiếm 41,5%. Trong số đó, sơ cứu bỏng nhiệt đúng chiếm 43,4%, sơ cứu bỏng acid đúng chiếm
5.7%, còn lại là sơ cứu bỏng base đúng và sơ cứu bỏng điện đúng lần lượt là 3,8% và 5,7%.
3.3. Mối liên hệ giữa các yếu tố liên quan và sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC
Bảng 4: Liên quan giữa sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC với trình độ học vấn
Sơ cứu bỏng
Trình độ học vấn
Tổng
Từ THPT trở lên Dưới THPT
Sơ cứu bỏng đúng 49 13 62
Sơ cứu bỏng chưa đúng 23 21 44
Tổng 72 34 106
p p=0,006
OR 3,4
Sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC có mối liên quan mang ý nghĩa thống kê với trình độ học vấn của ĐTNC
(p < 0.05)
80 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
Bảng 5: Liên quan giữa sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC với giới tính
Sơ cứu bỏng
Giới tính
Tổng
Nam Nữ
Sơ cứu bỏng đúng 16 46 62
Sơ cứu bỏng chưa đúng 8 36 44
Tổng 24 82 106
p p=0,481
OR 1,55
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính và sơ cứu bỏng đúng.
IV. BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu 106 người nhà sơ cứu
cho nạn nhân bỏng trước khi đến khám và
điều trị tại khoa Chấn thương chỉnh hình
Bỏng - Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An thu
được kết quả như sau:
4.1. Một số thông tin chung về nạn nhân
Tỷ lệ bỏng ở nạn nhân là nam giới chiếm tỷ
lệ (68,9%) cao hơn nữ giới, đặc biệt tỷ lệ này
cao ở độ tuổi dưới 5 tuổi (71,7%). Kết quả này
phù hợp với kết quả của Vũ Mạnh Độ và cộng
sự, số trẻ bị bỏng dưới 5 tuổi là 68,3% [3]. Do
lứa tuổi này hiếu động, muốn tìm hiểu mọi vật
xung quanh, trẻ chưa ý thức được mức độ nguy
hiểm của tác nhân gây bỏng và sự bất cẩn của
người lớn. Đối tượng có độ tuổi từ 6 - 15 tuổi
có tỉ lệ thấp hơn cả, nguyên nhân do ở độ tuổi
này đã nhận thức được mức độ nguy hiểm của
các tác nhân gây bỏng và thời gian ở trường học
nhiều nên ít tiếp xúc với tác nhân gây bỏng [5].
4.2. Một số thông tin chung về đối tượng
nghiên cứu
Tỷ lệ nữ giới chiếm tỷ lệ (77,4%) cao hơn
nam giới. Mối quan hệ là bố hoặc mẹ chiếm đa
số (84,0%). Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Hoàng Viết Thái (2015), người
gần gũi trẻ và dành nhiều thời gian chăm sóc
trẻ thường là bố mẹ và chủ yếu là người mẹ [2].
Trình độ học vấn từ THPT trở lên chiếm 67,9%.
Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của
Vũ Mạnh Độ và cộng sự trình độ học vấn của
ĐTNC chiếm 54,7% [3].
4.3. Thông tin về sơ cứu bỏng ban đầu
đúng, chưa đúng
Trong tổng số 106 trường hợp nạn nhân
bỏng, tỷ lệ nạn nhân được sơ cứu bỏng đúng
chiếm 58,6% và chưa đúng chiếm 41,5%. Kết
quả này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của
Abdullah và cộng sự (2016) với tỷ lệ sơ cứu
đúng là 30,9% [5]. Trong nghiên cứu này phần
lớn số đối tượng nghiên cứu là nữ giới (77,4%),
có trình độ học vấn từ THPT trở lên (67,9%), đối
tượng là nữ giới thường có kinh nghiệm trong
chăm sóc con cái kèm theo có kiến thức sơ cứu
bỏng ban đầu được trang bị đầy đủ nên tỷ lệ sơ
cứu bỏng đúng cao hơn các nghiên cứu khác là
phù hợp. Bên cạnh đó, vẫn còn một tỷ lệ lớn sơ
cứu chưa đúng chiếm 41,5%. Kết quả này cho
thấy hiểu biết và quan niệm về bỏng của người
dân chưa thật đầy đủ và khoa học. Do đó, cách
xử trí ban đầu còn mang tính tự phát, tự cứu
theo kinh nghiệm truyền miệng trong dân gian
làm tỷ lệ sơ cứu chưa đúng còn cao [6].
4.4. Mối liên hệ giữa các yếu tố liên quan
và sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC
Kết quả nghiên cứu cho thấy ĐTNC có trình
độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có sơ
cứu bỏng đúng cao gấp 3,4 lần so với ĐTNC
có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông,
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Trong nghiên cứu này, đa số ĐTNC có trình độ
học vấn từ THPT trở lên với tỷ lệ 67,9%. Hơn
nữa, kết quả nghiên cứu cho thấy, nạn nhân
bỏng thường hay gặp nhất là độ tuổi dưới 5 tuổi
Thực trạng sơ cứu nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 81
Bệnh viện Trung ương Huế
(71,7%) so với các độ tuổi khác. Đặc biệt, ở
trẻ nhỏ bị bỏng, nếu áp dụng biện pháp sơ cứu
không đúng có thể dẫn đến hậu quả tăng nguy
cơ sốc và nhiễm trùng [7]. Khi có trình độ học
vấn, ĐTNC thường có kiến thức cơ bản, ngoài
ra có thể tìm hiểu thêm kiến thức ở các phương
tiện truyền thông nên khi tai nạn bỏng xảy
ra bất ngờ họ thường bình tĩnh và có đủ kiến
thức để biết nên sơ cứu thế nào cho chuẩn mực
[8]. Ngược lại, nếu thiếu kiến thức về sơ cứu
bỏng thì họ thường sơ cứu theo thói quen, kinh
nghiệm, hoặc truyền miệng ví dụ như khi bỏng
nước sôi thì bôi kem đánh răng, nước mắm
Nhiều người cho rằng điều này giúp làm dịu và
nhanh lành vết thương [9], [10]. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Pellatt và cộng sự
(2010), nghiên cứu chỉ ra rằng khi người sơ cứu
thiếu hiểu biết thì sơ cứu bỏng chưa đúng là hậu
quả thường gặp [11]. Bên cạnh đó, trong nghiên
cứu này, chúng tôi chưa tìm thấy sự liên quan
giữa giới tính và sơ cứu bỏng đúng của ĐTNC
(p> 0,05). Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu
của Mirastschijski và cộng sự (2013) thì giới
tính có mối liên quan mang ý nghĩa thống kê
với sơ cứu bỏng đúng [10]. Khi sơ cứu cho nạn
nhân bỏng, nếu đối tượng nghiên cứu là nữ giới
thì sơ cứu bỏng thường chuẩn mực hơn nam
giới [8]. Ngoài ra, giữa nam và nữ có thể có thái
độ khác nhau trước tình huống bỏng của nạn
nhân. Do vậy, họ có thể có cách sơ cứu bỏng
khác nhau [7]. Vì cỡ mẫu của nghiên cứu này
chưa đủ lớn để công bố sự liên quan giữa giới
tính và sơ cứu bỏng đúng ở người nhà sơ cứu
cho nạn nhân bỏng nhưng hy vọng sẽ có nhiều
nghiên cứu khác trong tương lai công bố về vấn
đề này.
KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi có các
khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế như sau:
Các cơ sở y tế tuyến dưới đặc biệt là trạm y tế
cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
cho cộng đồng về mức độ nguy hại của bỏng gây
ra để có biện pháp phòng tránh, trong quá trình
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ các vật nóng, ổ điện,
hóa chất phải để xa tầm với của trẻ. Công tác
sơ cứu bỏng ban đầu vừa mang tính cộng đồng
vừa mang tính chuyên môn. Để phòng tránh tai
nạn bỏng, hạn chế hậu quả xấu do bỏng gây ra
và sơ cứu bỏng ban đầu thực sự hiệu quả phải
có sự kết hợp giữa các cấp, ngành, chính quyền,
địa phương, các cơ quan thông tin đại chúng,
nhà trường, mỗi người dân và không thể thiếu
sự quan tâm chỉ đạo về chuyên môn của các cơ
sở y tế ở các tuyến.
V. KẾT LUẬN
Trong tổng số 106 trường hợp nạn nhân bỏng,
tỷ lệ nạn nhân được sơ cứu bỏng đúng chiếm
58,6% và chưa đúng chiếm 41,5%. Trong số đó,
sơ cứu bỏng nhiệt đúng chiếm 43,4%, sơ cứu
bỏng acid đúng chiếm 5,7%, còn lại là sơ cứu
bỏng base đúng và sơ cứu bỏng điện đúng lần
lượt là 3,8% và 5,7%. Có mối liên quan mang
ý nghĩa thống kê giữa sơ cứu bỏng đúng với
trình độ học vấn của ĐTNC (p < 0.05). Chưa
tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
giới tính và sơ cứu bỏng đúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thế Trung (2003). Những kiến thức
chuyên ngành bỏng. Nhà xuất bản Y học.
2. Hoàng Viết Thái (2015). Thực trạng sơ cứu
ban đầu người bệnh bỏng trước khi đến
khám và điều trị tại Khoa Chấn thương -
Bệnh viện A tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí Y
Dược, 7(2), 2 - 6.
3. Vũ Mạnh Độ và cộng sự (2007). Nhận xét
chăm sóc sơ cứu bỏng ban đầu người bệnh
bỏng đến khám và điều trị tại Khoa Chấn
Thương - Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Nam
Định. Tạp chí Y Dược, 5(2), 4 - 12.
4. Sơ cấp cứu điều trị bỏng (2006). Viện Bỏng
Quốc Gia. Nhà xuất bản Y học.
5. Abdullah E. K, Feras A, Abdulaziz K. A et
al (2016). Current knowledge of burn injury
82 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
first aid practices and applied traditional
remedies: A nationwide survey. Burns
Trauma, 19 (1), 34 - 37.
6. Othman N, Kendrick D (2010).
Epidemiology of burn injuries in the East
Mediterranean Region: a systematic review.
BMC Public Health, 10(8), 200 - 204.
7. Wong P, Choy V. Y, Yau T. T et al (2007).
Elderly burn prevention: A novel
epidemiological approach. Burns, 33(8),
995 - 1000.
8. Brusselaers N, Monstrey S, Vogelaers D
et al (2010). Severe burn injury in Europe:
A systematic review of the incidence,
etiology, morbidity, and mortality. Critical
Care, 14(5), 188 - 201.
9. Alshehri M (2004). The pattern of paediatric
burn injuries in Southwestern, Saudi Arabia.
West Afr J Med, 23(4), 294 - 299.
10. Mirastschijski U, Sander J. T, Weyand B et
al (2013). Rehabilitation of burn patients:
An underestimated socio-economic burden.
Burns, 39(2), 262 - 268.
11. Pellatt R. A, Williams A, Wright H et al
(2010). The cost of a major paediatric burn.
Burns, 36(8), 1208 - 1214.
Thực trạng sơ cứu nạn nhân bỏng trước khi đến khám và điều trị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_so_cuu_nan_nhan_bong_truoc_khi_den_kham_va_dieu_t.pdf