Thứ tư, thỏa thuận tiền tố tụng như
trên không làm mất quyền khởi kiện ra Tòa
án vì đó chỉ là thỏa thuận tiền tố tụng để đạt
được sự thống nhất về nội dung tranh chấp.
Do đó, nếu các bên triển khai theo thỏa
thuận mà nội dung tranh chấp không được
giải quyết thì lúc đó các bên vẫn được khởi
kiện tranh chấp ra Tòa án. Nói cách khác,
các thỏa thuận như trên giúp giải quyết được
tranh chấp ngoài Tòa án còn nếu tranh chấp
vẫn không được giải quyết theo thủ tục tiền
tố tụng mà các bên thỏa thuận thì các bên
vẫn được quyền khởi kiện ra Tòa án. Ở đây,
nếu không đạt được thỏa thuận ngoài tòa án
theo thủ tục thỏa thuận, việc khởi kiện ra
Tòa án chỉ bị chậm lại và, như Tòa án Pháp
đã khẳng định, khoảng thời gian đó không
được tính vào thời hiệu.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tòa án trả lại đơn khởi kiện khi có thỏa thuận thủ tục thương lượng, hòa giải bắt buộc tiền tố tụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Văn Đại*
* PGS. TS. Trưởng Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Thành viên Hội đồng Tư vấn án lệ TAND tối cao.
Tóm tắt:
Thỏa thuận về thủ tục thương lượng, hòa giải bắt buộc trước
khi khởi kiện ra Tòa án khá phổ biến. Bài viết nghiên cứu
thực trạng văn bản, thực tiễn Việt Nam đồng thời khai thác
kinh nghiệm nước ngoài để hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên
quan đến giá trị hiệu lực của thỏa thuận trên..
Abstract:
Agreement in term of the compulsory negotiation,
conciliation procedures before the case is brought to the
court is a common practice. This article serves the purpose
of showing the actual status of documents, studies, practices
in Vietnam as well as provides the reviews of the foreign
experiences to improve the local laws related to the validity
of the above-mentioned agreement
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Thương lượng, hòa giải bắt buộc,
tiền tố tụng, giá trị pháp lý
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/01/2018
Biên tập: 16/01/2018
Duyệt bài: 24/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Agreement of negotiation,
conciliation, before bringing the case to the
court, validity
Article History:
Received: 03 Jan. 2018
Edited: 16 Jan. 2018
Approved: 24 Jan. 2018
TÒA ÁN TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN KHI CÓ THỎA THUẬN
THỦ TỤC THƯƠNG LƯỢNG, HÒA GIẢI BẮT BUỘC TIỀN TỐ TỤNG
Dẫn nhập
Khi có tranh chấp, các chủ thể được
yêu cầu cơ quan tài phán là Tòa án hay
Trọng tài giải quyết và quyền này đã được
ghi trong văn bản pháp luật Việt Nam.
Chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 14 Bộ luật
Dân sự năm 2015 (BLDS), “trường hợp
quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh
chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện
theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng
tài”. Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 (Bộ luật TTDS) cũng theo hướng
vừa nêu với nội dung “cơ quan, tổ chức, cá
nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi
kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc
dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc của người khác”.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
75Số 3+4 (355+356) T02/2018
Thừa nhận quyền yêu cầu cơ quan
tài phán giải quyết tranh chấp và thực hiện
quyền đó là hai vấn đề khác nhau. Từ lâu
đời, ngạn ngữ Việt Nam đã có câu “vô phúc
đáo tụng đình” và câu đó cho thấy, người
dân không phải lúc nào cũng muốn giải
quyết tranh chấp tại cơ quan tài phán. Thực
tế, các bên tranh chấp thường tìm cách giải
quyết bất đồng giữa họ bằng phương thức
khác. Từ đó, hình thành khá phổ biến hình
thức thỏa thuận, theo đó, các bên thống nhất
cần thương lượng, hòa giải trước và chỉ khi
nào thỏa thuận này bất thành, các bên mới
yêu cầu cơ quan tài phán giải quyết. Để hiểu
rõ hơn, có thể nghiên cứu một thỏa thuận
được Tòa án Việt Nam giải quyết năm 2017.
Đó là nội dung trong Điều lệ một công ty,
theo đó: “Khi phát sinh tranh chấp hay khiếu
nại có liên quan đến hoạt động của Công ty
hay tới quyền của cổ đông phát sinh từ Điều
lệ, hay từ bất cứ quyền hoặc nghĩa vụ do
Luật Doanh nghiệp hay luật khác giữa: một
cổ đông hay các cổ đông với công ty thì
các bên liên quan sẽ cố gắng giải quyết tranh
chấp đó thông qua thương lượng và hòa giải.
Chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ chủ trì việc
giải quyết tranh chấp trong vòng 60 ngày
kể từ ngày tranh chấp phát sinh. Nếu không
có quyết định hòa giải nào đạt được trong
vòng 60 ngày kể từ khi bắt đầu quá trình
hòa giải thì các bên có thể đưa tranh chấp
đó ra Trọng tài kinh tế hoặc Tòa án kinh tế.
Như vậy, để khởi kiện tranh chấp yêu cầu
Tòa án giải quyết thì các bên đương sự phải
có sự thương lượng hòa giải, nếu không đạt
được sự thỏa thuận thì sau đó mới khởi kiện
ra Tòa án”1. Trong bài viết này, chúng tôi
chỉ nghiên cứu loại thỏa thuận đó trong mối
1 Xem Đỗ Văn Đại, Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức,H., 2017,
Bản án số 39-40.
2 Trương Nhật Quang, Pháp luật doanh nghiệp - Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Dân trí 2016, tr.208 và 208.
3 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty - Vốn, quản lý và tranh chấp, Nxb. Tri thức 2009, tr.95
4 Văn bản hiện hành không coi điều lệ là quy định của pháp luật. Chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 140 BLDS năm 2015,
“thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của
quan hệ với tài phán nhà nước và cụ thể là
trong mối quan hệ với pháp luật TTDS.
I. Quy định của pháp luật Việt Nam về thủ
tục thương lượng, hòa giải và thực tiễn
1. Bản chất thỏa thuận của điều lệ
Khoản 9 Điều 22 Luật Doanh nghiệp
năm 2005 quy định, nội dung Điều lệ công ty
có “thể thức thông qua quyết định của công
ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ”
(quy định này được duy trì tại khoản 1 Điều
25 Luật doanh nghiệp năm 2014) nhưng nội
dung việc giải quyết như thế nào còn phụ
thuộc vào sự thống nhất của những chủ thể
liên quan.
Về bản chất, “điều lệ công ty là tài liệu
nội bộ cơ bản điều chỉnh việc thành lập, tổ
chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải
thể công ty” và “tự do thỏa thuận là nguyên
tắc cơ bản áp dụng với điều lệ”2. Thực chất,
“bản này (điều lệ công ty) do các cổ đông
sáng lập công ty lập ra” và “tập tục ở các
nước phát triển coi nó là một bản hợp đồng
giữa công ty với các cổ đông và giữa các cổ
đông với nhau”3. Trong phần liên quan đến
pháp luật nước ngoài, chúng ta cũng sẽ thấy
Tòa án khai thác các quy định về thỏa thuận
đối với nội dung trong điều lệ công ty. Như
vậy, chúng ta có thể khẳng định luật có quy
định về điều lệ công ty nhưng nội dung của
điều lệ do thỏa thuận của các chủ thể liên
quan quyết định. Đó là một loại thỏa thuận
của các chủ thể liên quan về công ty.
Ở vụ việc nêu trong phần Dẫn nhập,
nội dung trên không do pháp luật quy định
mà do những người xây dựng Điều lệ thống
nhất tạo ra4. Nội dung thỏa thuận đó cho thấy
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
76 Số 3+4 (355+356) T02/2018
việc khởi kiện ra Tòa án là có điều kiện: chỉ
khởi kiện ra Tòa án khi thủ tục tiền tố tụng
bắt buộc theo thỏa thuận không thành công,
nên chừng nào thủ tục tiền tố tụng theo thỏa
thuận chưa được triển khai thì chưa đủ điều
kiện để khởi kiện ra Tòa án.
2. Thiếu quy định về thỏa thuận thương
lượng, hòa giải tiền tố tụng
Điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định: “Thẩm phán trả
lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau
đây: Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo
quy định của pháp luật”. Quy định này xác
định về điều kiện khởi kiện, nhưng đó “là
trường hợp pháp luật có quy định về các
điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện
đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một
trong các điều kiện đó”.
Thực tế, có trường hợp pháp luật quy
định điều kiện để khởi kiện ra Tòa án như
trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất
(cần có thủ tục hòa giải tiền tố tụng trước
khi khởi kiện ra Tòa án)5. Tuy nhiên, trường
hợp chúng ta nghiên cứu “là trường hợp các
bên có thỏa thuận”. Nghị quyết số 04/2017/
NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối cao
hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 192 Bộ luật TTDS số 92/2015/
QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp
đơn khởi kiện lại vụ án giải thích căn cứ trả
lại đơn khởi kiện như sau: “Chưa có đủ điều
kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là
trường hợp pháp luật TTDS, pháp luật khác
pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”. Chúng ta thấy “điều lệ của pháp nhân” và “quy định của pháp luật” là
hai vấn đề khác nhau, không được đồng nhất; quy định của pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành, còn điều lệ chỉ là
thỏa thuận của những người tham gia.
5 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật TTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi
kiện lại vụ án có nêu “đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa
có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật TTDS năm 2015. Đối với tranh chấp khác
liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án”.
có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện
đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều
kiện đó”. Như vậy, mặc dù Nghị quyết này
quy định về trường hợp chưa đủ điều kiện để
khởi kiện ra Tòa án, nhưng đó là điều kiện
trong “trường hợp pháp luật có quy định”
mà không phải là quy định về điều kiện theo
thỏa thuận của các bên (thỏa thuận tiến hành
thương lượng, hòa giải bắt buộc trước khi
khởi kiện ra Tòa án).
Quy định về trả lại đơn tại Điều 192
Bộ luật TTDS năm 2015 thực chất là kế thừa
Điều 168 Bộ luật TTDS năm 2004 (sửa đổi
năm 2011). Trước đây, khi hướng dẫn điều
luật này, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP
ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải
quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ
luật TTDS giải thích “chưa có đủ điều kiện
khởi kiện là trường hợp các đương sự có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về
các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định
về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng
đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một
trong các điều kiện đó”. Ở đây, Nghị quyết
số 05/2012/NQ-HĐTP có đề cập đến trường
hợp “có thỏa thuận về các điều kiện để khởi
kiện” nhưng ví dụ đưa ra trong Nghị quyết
số 05/2012/NQ-HĐTP chỉ liên quan đến
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
77Số 3+4 (355+356) T02/2018
thỏa thuận trọng tài theo đó, “Công ty A và
Công ty B ký kết hợp đồng mua bán hàng
hóa, trong đó thỏa thuận việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng bằng Trọng tài. Khi
phát sinh tranh chấp hợp đồng, Công ty A
khởi kiện Công ty B tại Tòa án trước khi yêu
cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Tòa án
xét thấy thỏa thuận trọng tài giữa các bên
là hợp pháp theo đúng quy định của Luật
Trọng tài thương mại thì Tòa án căn cứ vào
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168 của
Bộ luật TTDS năm 2004 để trả lại đơn khởi
kiện và hướng dẫn họ tiến hành thủ tục giải
quyết tranh chấp tại Trọng tài”. Nội dung
này đã được Điều 6 Luật Trọng tài thương
mại năm 2010 quy định, theo đó: “Trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả
thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà
án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường
hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả
thuận trọng tài không thể thực hiện được”6.
3. Thực tiễn ghi nhận thỏa thuận thương
lượng, hòa giải tiền tố tụng
Liên quan đến ví dụ ở phần dẫn nhập,
ngày 18/9/2015, ông Trọng có đơn khởi kiện
ra TAND yêu cầu hủy kết quả Đại hội đồng
cổ đông và buộc công ty mua lại cổ phần
của 17 cổ đông. Tại Biên bản phiên tòa ngày
29/7/2016, ông Trọng “xác nhận giữa ông
Trọng và Công ty chưa lần nào tiến hành
hòa giải nội bộ trước khi khởi kiện”. Vì
vậy, trong Quyết định số 02/2016/KDTM-
ST ngày 29/7/2016, TAND tỉnh Nghệ An đã
“trả lại đơn kiện và đình chỉ giải quyết vụ
án kinh doanh thương mại sơ thẩm”. Ngày
04/8/2012, ông Trọng kháng cáo yêu cầu
hủy quyết định đình chỉ trên để yêu cầu tiếp
tục giải quyết vụ án.
6 Thực ra, việc Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP coi đây là “trường hợp các đương sự có thoả thuận về các điều kiện để
khởi kiện” là không thuyết phục vì không có điều kiện nào cả; Trọng tài có thẩm quyền thì Tòa án không có thẩm quyền.
Có lẽ vì lý do vừa nêu mà khi hướng dẫn Bộ luật TTDS năm 2015, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã không nhắc lại nội dung này nữa.
7 Quyết định số 134/2017/QĐ-PT ngày 18/5/2017 của TAND cấp cao tại Hà Nội.
Như vậy, thỏa thuận tiền tố tụng về
thương lượng, hòa giải đã tồn tại giữa các
bên tranh chấp nhưng một bên đã không
tuân thủ thỏa thuận đó bằng cách khởi kiện
tranh chấp trực tiếp ra TAND. Khi không
được chấp nhận giải quyết (tức trả lại đơn
khởi kiện), đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại
việc Tòa án từ chối giải quyết để được tiếp
tục giải quyết tại Tòa án đối với tranh chấp.
Nói cách khác, một bên đương sự không
tuân thủ thỏa thuận tiền tố tụng bắt buộc mà
các bên đã thỏa thuận để khởi kiện trực tiếp
ra Tòa án bất chấp thỏa thuận đã tồn tại giữa
các bên.
Trước thực trạng trên, cơ quan tiến
hành tố tụng đã giải quyết khá thống nhất.
Trước tiên, Tòa án cấp sơ thẩm trả lại đơn
khởi kiện. Tại phiên phúc thẩm, Viện kiểm
sát cũng theo hướng của Tòa sơ thẩm vì
“có quan điểm không chấp nhận kháng cáo
của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án số 02/2016/
KDTM-ST ngày 29/7/2016 của TAND tỉnh
Nghệ An”. Về phía mình, Tòa phúc thẩm
TAND cấp cao tại Hà Nội cũng theo hướng
vừa nêu với nhận xét “tài liệu có trong hồ sơ,
lời trình bày của ông Trọng và đại diện công
ty tại phiên tòa sơ thẩm đều xác nhận, chưa
lần nào ông Trọng và Công ty tiến hành hòa
giải nội bộ trước khi khởi kiện, chính ông
Trọng còn đề nghị Tòa án tạo điều kiện để
hai bên thương lượng hòa giải trước khi giải
quyết. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác
định ông Trọng khởi kiện khi còn thiếu điều
kiện hòa giải tranh chấp nội bộ theo Điều lệ
Công ty là có căn cứ theo quy định tại Điều
168 Bộ luật TTDS năm 2005; Điều 192 Bộ
luật TTDS năm 2015”7.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
78 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Tóm lại, Điều 192 Bộ luật TTDS năm
2015 quy định về trả lại đơn khởi kiện do
“chưa có đủ điều kiện khởi kiện”, trong vụ
việc nêu trên, Tòa án viện dẫn Điều 192 Bộ
luật TTDS năm 2015 để trả lại đơn kiện do
“còn thiếu điều kiện” theo thỏa thuận, trong
khi đó, nội dung điều luật lại giới hạn về
điều kiện theo quy định của pháp luật. Nói
cách khác, Tòa án đã bổ sung điều kiện theo
thỏa thuận bên cạnh “điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật” để trả lại đơn
khởi kiện và đây là nội dung chưa được quan
tâm nhiều ở Việt Nam.
II. Kinh nghiệm của nước ngoài
1. Nghiên cứu pháp luật Pháp cho
thấy, loại thỏa thuận thương lượng, hòa giải
bắt buộc trước khi khởi kiện ra Tòa án rất
phổ biến. Trên thực tiễn có rất nhiều thỏa
thuận được Tòa án nước ngoài xử lý.
Vụ việc được giám đốc thẩm năm 20038:
Trong một hợp đồng chuyển nhượng vốn
trong công ty, các bên thỏa thuận rằng “đối với
tất cả bất đồng phát sinh giữa các bên liên quan
đến giải thích hay thực hiện hợp đồng, những
người ký dưới đây cam kết trước khi khởi
kiện ra Tòa án là trao tranh chấp cho những
người hòa giải do mỗi bên chỉ định trừ khi chỉ
định người hòa giải duy nhất, người hòa giải
cố gắng tìm giải pháp trong thời hạn 2 tháng
kể từ khi chỉ định”. Tuy nhiên, khi có tranh
chấp, một bên khởi kiện trực tiếp ra Tòa án mà
không tuân thủ thỏa thuận hòa giải bắt buộc
tiền tố tụng nêu trên.
Vụ việc được giám đốc thẩm năm
20119: Điều 22 Điều lệ của một công ty
8 Cass. ch. mixte, 14 févr. 2003, n° 00-19.423, Bull. civ. ch. mixte, 2003, n° 1; D. 2003. 1386, note P. Ancel et M. Cottin.
9 Cass. com., 15 juin 2010, n° 09-16.323, D, Mme L. c/Sté Médi Six: JurisData n° 2010-009530; JCP E 2010, 1878, obs.
J.-P. Legros; RTD civ. 2010, 780, obs. B. Fages.
10 Chẳng hạn, trong một quyết định năm 2000, Tòa án tối cao Pháp đã từng xét rằng “sau khi xác định hợp đồng có thỏa
thuận thương lượng theo đó các bên cam kết trao tranh chấp cho hai người hòa giải trước bất kỳ khởi kiện nào, Tòa phúc
thẩm đã đúng luật khi xét rằng đơn khởi kiện của Công ty Polyclinique không tuân thủ thủ tục được quy định trong điều
khoản này bị trả lại” (Civ. 2e, 6 juill. 2000, Contrats, conc. consom. 2001, n° 2, note L. Leveneur; RTD civ. 2001. 359,
note Jacques Mestre và Bertrand Fages).
trong lĩnh vực y tế quy định một thủ tục
thương lượng bắt buộc trước khi có thể khởi
kiện ra Tòa án. Khi tranh chấp phát sinh từ
việc bà Longuebray rút khỏi công ty, Công
ty đã khởi kiện bà Longuebray ra Tòa án mà
không tuân thủ thỏa thuận thương lượng bắt
buộc tiền tố tụng.
2. Hai vụ việc được liệt kê ở trên có
vấn đề pháp lý rất giống hoàn cảnh ở Việt
Nam mà chúng ta khai thác để nghiên cứu
trong phần Dẫn nhập. Ở đây, hướng xử lý
của Tòa án Pháp cũng rất giống hướng xử lý
của Tòa án nước ta (thực ra, trong một số vụ
việc trước đó, Tòa án tối cao Pháp cũng đã
từng theo hướng này)10.
Trong vụ việc thứ nhất, Tòa án địa
phương đã trả lại đơn khởi kiện và việc từ
chối này bị khiếu nại giám đốc thẩm. Khi
giám đốc thẩm, Tòa hỗn hợp Tòa án tối
cao Pháp (thường phán xét đối với những
vấn đề mà giữa các Tòa có quan điểm chưa
thống nhất và, trong vụ việc này, đây là
phiên họp của 4 Tòa chuyên trách Tòa án
tối cao Pháp) đã chấp nhận hướng của Tòa
án địa phương với một nhận xét trở thành án
lệ, theo đó, “theo Điều 122 và 124 Bộ luật
TTDS, những trường hợp trả lại đơn không
được liệt kê một cách giới hạn; hợp pháp,
điều khoản trong hợp đồng quy định một
thủ tục thương lượng bắt buộc và trước khi
khởi kiện ra Tòa án mà việc áp dụng cho
đến khi kết thúc không tính vào thời hiệu là
một trường hợp trả lại đơn thẩm phán phải
áp dụng khi các bên yêu cầu. Sau khi xác
định hợp đồng chuyển nhượng có quy định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
79Số 3+4 (355+356) T02/2018
thủ tục thương lượng tiền tố tụng tòa án đối
với tranh chấp liên quan đến thực hiện hợp
đồng, Tòa phúc thẩm đã hoàn toàn chính
xác khi quyết định từ chối đơn yêu cầu của
người chuyển nhượng trên cơ sở hợp đồng
trước khi thủ tục thương lượng được triển
khai”. Với nội dung vừa nêu, “tôn trọng ý
chí khẳng định của các bên, giải pháp bắt
đầu bằng việc khẳng định nguyên tắc có
hiệu lực của điều khoản thỏa thuận thủ tục
tiền tố tụng bắt buộc”11. Ở đây, “vụ việc liên
quan đến chuyển nhượng cổ phần nhưng
cách thức thể hiện rất chung của quyết định
giám đốc thẩm cho phép hiểu rằng giải pháp
có giá trị đối với bất kỳ hợp đồng nào, dù
bản chất hợp đồng liên quan là gì”12.
Trong vụ việc thứ hai, bên bị khởi kiện
ra Tòa án trước khi thủ tục tiền tố tụng bắt
buộc theo thỏa thuận được triển khai đã yêu
cầu Tòa án trả lại đơn khởi kiện nhưng yêu
cầu này không được Tòa án địa phương chấp
nhận. Khi giải quyết khiếu nại giám đốc
thẩm, Tòa thương mại Tòa án tối cao Pháp
đã hủy án địa phương với nhận xét: “Điều lệ
Công ty quy định một thủ tục thương lượng
bắt buộc, trước khi khởi kiện ra Tòa án và
việc không tuân thủ đã được bà Longuebray
khiếu nại dẫn tới việc trả lại đơn khởi kiện
nên Tòa phúc thẩm đã vi phạm Điều 1134
BLDS và các Điều 122 và 123 Bộ luật
TTDS”. Với phán quyết này, “giải pháp có
giá trị không chỉ khi điều khoản về thủ tục
tiền tố tụng bắt buộc được đưa vào trong
một hợp đồng theo nghĩa hẹp mà còn có cả
giá trị khi điều khoản đó được đưa vào một
giao dịch mà phạm vi tập thể cao hơn”13.
11 Jacques Mestre và Bertrand Fages, Conciliation au plus haut niveau en faveur... des clauses de conciliation, RTD civ.
2003. 294.
12 Gwennhaël François, L'inefficacité des clauses de conciliation précontentieuse insérées dans le contrat de travail, JCP.E
2013, 1127.
13 Bertrand Fages, Effets d'une clause de conciliation insérée dans un acte collectif, RTD civ. 2010. 780.
14 Jacques Mestre và Bertrand Fages, Conciliation au plus haut niveau en faveur...(Bđd).
15 Jean-François Barbièri, Force du préalable statutaire de conciliation, Rev. sociétés 2011. 235.
3. Để đưa ra hướng xử lý đối với hai
vụ việc nêu trên, Tòa án tối cao Pháp đã viện
dẫn các quy định của Bộ luật TTDS Pháp.
Ngoài ra, Tòa án viện dẫn thêm một điều
luật nữa trong BLDS Pháp về hợp đồng.
Trước tiên là Điều 122 Bộ luật TTDS
với nội dung: “trả lại đơn khởi kiện” mà
“không xem xét nội dung” do “không có
quyền khởi kiện như không có tư cách khởi
kiện, không có lợi ích, hết thời hiệu, thời
hạn, vụ việc đã được xét xử”. Sau đó là Điều
123 Bộ luật TTDS với nội dung “việc trả
lại đơn khởi kiện có thể được đưa ra ở bất
kỳ thời điểm nào” và cuối cùng là Điều 124
Bộ luật TTDS với nội dung “những trường
hợp trả lại đơn cần được chấp nhận và người
viện dẫn không phải chứng minh có thiệt hại
và ngay cả khi việc trả lại đơn không được
hình thành từ một quy định cụ thể”. Các điều
luật này đề cập tới những trường hợp trả lại
đơn và điều luật theo hướng liệt kê những
trường hợp trả lại đơn. Tòa án tối cao Pháp
đã không phủ nhận trường hợp được liệt kê
nhưng khẳng định trong phần xét thấy rằng
“những trường hợp trả lại đơn không được
liệt kê một cách giới hạn”. Điều này cho
phép Tòa án bổ sung thêm trường hợp khác,
trong đó có trường hợp mà bài viết đề cập
đến: thỏa thuận thương lượng, hòa giải tiền
tố tụng bắt buộc trước khi khởi kiện ra Tòa
án. Với án lệ này, “danh sách trường hợp
trả lại đơn tại Điều 122 Bộ luật TTDS chỉ
mang tính gợi ý và không bị giới hạn”14 và
“trường hợp từ chối đơn khởi kiện có nguồn
gốc thỏa thuận và không phải chỉ có nguồn
gốc từ pháp luật được ghi nhận”15.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
80 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Trong vụ việc thứ hai, Tòa án đã bổ
sung thêm một căn cứ nữa là Điều 1134
BLDS Pháp (sau khi sửa đổi năm 2016 là
Điều 1103) với nội dung: “hợp đồng được
xác lập hợp pháp là luật của những ai làm ra
nó”. Ở đây, “phân tích tổng thể ý chí của các
bên đã được ưu tiên”16, “giải pháp trao cho
điều khoản về thương lượng đầy đủ hiệu lực
pháp luật”17 và “chế tài bằng cách trả lại đơn
góp phần quan trọng vào việc bảo vệ hiệu
lực ràng buộc của hợp đồng. Đây không là
một tuyên bố đơn giản ý định của các bên,
điều khoản đó sẽ cản trở việc khởi kiện
ra Tòa án chừng nào mong muốn xích lại
gần nhau chưa được triển khai”18. Thực ra,
hướng kết hợp cả quy định về tính ràng buộc
của thỏa thuận với quy định về TTDS đã
được thừa nhận trong các quyết định trước
đây. Chẳng hạn, trước một thỏa thuận tiền tố
tụng bắt buộc như trên, Tòa án tối cao Pháp
năm 2003 đã “căn cứ Điều 1134 BLDS và
các Điều 122 và 124 Bộ luậtTTDS” để xét
rằng “điều khoản trong hợp đồng quy định
một thủ tục thương lượng bắt buộc và trước
khi khởi kiện ra Tòa án mà việc áp dụng cho
đến khi kết thúc không tính vào thời hiệu là
một trường hợp trả lại đơn thẩm phán phải
áp dụng khi các bên yêu cầu”19.
III. Lời kết
Trên cơ sở những phân tích ở trên,
chúng ta nên coi đây là một trường hợp trả
lại đơn khởi kiện vì các lý do sau:
Thứ nhất, chúng ta đang khuyến khích
các bên giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
16 Jean-François Barbièri, Bđd.
17 Jacques Mestre và Bertrand Fages, La clause de conciliation a-t-elle pour effet de rendre irrecevable l'action en justice?,
RTD civ. 2001. 359.
18 Nicolas Gerbay, La clause de conciliation préalable: entre tensions contractuelles et processuelles, Procédures n° 7,
Juillet 2015, étude 7.
19 Cass. com., 17 juin 2003, n° 99-16.001, Godonier c/GIE La Cité des Antiquaires: Bull. civ. 2003, IV, n° 101, p. 112;
JurisData n° 2003-019479; D. 2003, inf. rap. p. 1945.
20 Trần Anh Tuấn (Chủ biên), Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, Nxb. Tư pháp 2017, tr.881.
và việc ghi nhận như trên là cần thiết. Một
trong những chủ trương trong Nghị quyết số
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 là “khuyến
khích việc giải quyết một số tranh chấp
thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài;
Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận
việc giải quyết đó”. Bên cạnh đó, khi sửa
đổi Bộ luật TTDS năm 2015, Quốc hội đã
bổ sung xem một thủ tục riêng biệt là “Công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”
được quy định từ Điều 416. Ngoài ra, “đây
là một vấn đề mới được đưa vào trong Bộ
luật TTDS năm 2015 nhằm nâng cao hiệu
quả công tác hòa giải ngoài Tòa án, giảm bớt
việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”20.
Năm 2017, Chính phủ cũng đã ban
hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày
24/02/2017 về Hòa giải thành thương mại
với chính sách rất rõ là: “khuyến khích các
bên tranh chấp sử dụng hòa giải thương
mại để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
thương mại và các tranh chấp khác mà pháp
luật quy định được giải quyết bằng hòa giải
thương mại” (khoản 1 Điều 5).
Thứ hai, ngành Tòa án đang quá tải
trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự và
việc buộc các bên phải tuân thủ thủ tục thương
lượng hay hòa giải trước khi đưa tranh chấp
ra cơ quan tài phán như các bên đã thỏa thuận
sẽ giúp giảm lượng vụ, việc Tòa án phải giải
quyết. Vì vậy, việc ghi nhận thêm trường hợp
trả lại đơn khởi kiện như đang phân tích sẽ
tạo thêm cơ sở để giảm thiểu số lượng vụ án
mà Tòa án cần phải giải quyết.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
81Số 3+4 (355+356) T02/2018
Thứ ba, theo khoản 2 Điều 3 BLDS
2015, “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận”. Đây là một trong “các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự” cho phép
các bên thỏa thuận. Bên cạnh đó, đoạn 2
của điều khoản này khẳng định “Mọi cam
kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực
thực hiện đối với các bên và phải được chủ
thể khác tôn trọng”. Ở đây, thỏa thuận đang
được nghiên cứu “không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu
lực thực hiện đối với các bên” nên các bên
phải tuân thủ (tức không được khởi kiện ra
Tòa án khi chưa triển khai thủ tục tiền tố
tụng trước đó như đã thỏa thuận). Thỏa thuận
đang được nghiên cứu “không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”
không chỉ “có hiệu lực thực hiện đối với các
bên” như vừa nêu mà “phải được chủ thể
khác tôn trọng” trong khi đó Tòa án chính là
“chủ thể khác” nên phải tôn trọng bằng cách
trả lại đơn khi một trong các bên đã không
tuân thủ thỏa thuận tiền tố tụng bắt buộc.
Nói cách khác, như hai chuyên gia về dân
sự ở nước ngoài đã khẳng định, “với việc
áp dụng trả lại đơn khởi kiện, điều khoản về
thương thượng được hưởng một cơ chế bảo
vệ rất tốt”21.
Thứ tư, thỏa thuận tiền tố tụng như
trên không làm mất quyền khởi kiện ra Tòa
án vì đó chỉ là thỏa thuận tiền tố tụng để đạt
được sự thống nhất về nội dung tranh chấp.
Do đó, nếu các bên triển khai theo thỏa
thuận mà nội dung tranh chấp không được
giải quyết thì lúc đó các bên vẫn được khởi
kiện tranh chấp ra Tòa án. Nói cách khác,
các thỏa thuận như trên giúp giải quyết được
21 Jacques Mestre và Bertrand Fages, Conciliation au plus haut niveau en faveur(Bđd).
tranh chấp ngoài Tòa án còn nếu tranh chấp
vẫn không được giải quyết theo thủ tục tiền
tố tụng mà các bên thỏa thuận thì các bên
vẫn được quyền khởi kiện ra Tòa án. Ở đây,
nếu không đạt được thỏa thuận ngoài tòa án
theo thủ tục thỏa thuận, việc khởi kiện ra
Tòa án chỉ bị chậm lại và, như Tòa án Pháp
đã khẳng định, khoảng thời gian đó không
được tính vào thời hiệu.
Về cách thức ghi nhận trường hợp trả
lại đơn như trên: Phương án tối ưu nhất là đưa
giải pháp trên vào văn bản quy phạm pháp
luật. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS mới được sửa
đổi năm 2015 và chưa có kế hoạch sửa đổi
nên rất khó đưa giải pháp trên vào Bộ luật
TTDS. Vì vậy, giải pháp khả thi nhất hiện
nay là TAND tối cao ban hành Nghị quyết
hướng dẫn áp dụng Bộ luật TTDS, trong đó
ghi nhận một cách chính thức trường hợp trả
lại đơn khởi kiện do chưa đủ điều kiện theo
thỏa thuận của các bên về thủ tục thương
lượng, hòa giải bắt buộc tiền tố tụng. Thực
tế, chúng ta đang có xu hướng đan xen các
loại nguồn khác nhau trong đó có ban hành
Án lệ và chúng ta cũng đã có án lệ về tố
tụng dân sự. Vì vậy, một phương án nữa có
thể đưa ra là chúng ta phát triển hướng giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội nêu trên thành một Án lệ như Tòa án
Pháp đã làm (coi danh sách trả lại đơn kiện
tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 chỉ
mang tính liệt kê và có thể bổ sung trường
hợp khác như trường hợp các bên thỏa thuận
thủ tục thương lượng, hòa giải bắt buộc
trước khi khởi kiện ra Tòa án). Đây là cách
làm mới không thiếu yếu tố thuyết phục■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
82 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toa_an_tra_lai_don_khoi_kien_khi_co_thoa_thuan_thu_tuc_thuon.pdf