Tư tưởng liêm chính tư pháp trong bộ quốc triều khám tụng điều lệ triều Lê

giá trị của Quốc triều khám tụng Điều lệ QTKT Điều lệ vẫn còn không ít hạn chế như chưa phân định rõ hành pháp với tư pháp (xã trưởng vừa quản lý hành chính vừa xử các vụ kiện tụng ở xã), cho phép tra khảo trong quá trình lấy lời khai, thiết kế cách thức tố tụng theo loại việc, không theo giai đoạn, câu chữ dài dòng, thiếu khoa học. Tuy nhiên, giá trị lớn nhất mà QTKT Điều lệ để lại chính là tinh thần của Bộ luật. Các nhà “lập pháp” thời Hậu Lê đã thiết kế một bộ luật tố tụng theo tinh thần: đưa ra một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó, không được vượt quá, và phải luôn thể hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong tố tụng. Chứ không phải theo tinh thần ngược lại, là tạo ra một hệ quy tắc để bảo vệ hoạt động tố tụng của Nhà nước. Tinh thần này đã làm cho QTKT Điều lệ có những điểm vượt thời đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức xây dựng quy định trong Bộ luật. Nội dung nổi bật nhất là Bộ luật đã tập trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm này luôn được đặt trong tương quan với quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của con người nói chung. Các lệ phần lớn thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự, dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực của Bộ luật. Sự độc đáo và tài tình này của các “nhà lập” pháp triều Hậu Lê đã làm cho QTKT Điều lệ thực sự mang tinh thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức của một đạo luật tố tụng như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông khi ban hành Bộ luật: “liên quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch và giảm bớt. nhằm dùng chính sự để công bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến dân có chỗ nương nhờ”

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng liêm chính tư pháp trong bộ quốc triều khám tụng điều lệ triều Lê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÛ TÛÚÃNG LIÏM CHÑNH TÛ PHAÁP TRONG BÖÅ QUÖËC TRIÏÌU KHAÁM TUÅNG ÀIÏÌU LÏå TRIÏÌU LÏ PHạm THị Duyên THảo* Liêm chính tư pháp là một phạm trù cónội dung đa dạng, nhưng có thể hiểumột cách cốt lõi nhất, đó là đòi hỏi của xã hội về một nền tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, xả thân cho việc bảo vệ lẽ phải và công lý. Ở góc độ cụ thể, liêm chính tư pháp thể hiện qua các khía cạnh cơ bản như ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, danh dự và lương tâm nghề nghiệp tư pháp; vấn đề đấu tranh chống tham nhũng, bảo đảm sự trong sạch của tư pháp. Những đảm bảo cần thiết cho liêm chính tư pháp là: sự độc lập của tư pháp; năng lực tiếp cận công lý cho người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan tư pháp1. Ở Việt Nam, trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Chiến lược cải cách tư pháp đã được Đảng, Nhà nước chủ trương, trong đó mục tiêu chính là “xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”2. Các đảm bảo cho mục tiêu này là: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp”3. Tức là, chúng ta đang tiệm cận đến liêm chính tư pháp, xem đó là phương thức hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật, việc nghiên cứu những di sản pháp luật tố tụng hình sự trong lịch sử pháp luật dân tộc là hoạt động cần thiết, ý nghĩa. Quốc triều khám tụng Điều lệ (QTKT Điều lệ) là một trong những thành quả lập pháp độc đáo của triều Lê. Nét độc đáo đã từng được các nhà nghiên cứu đánh giá là ở sự hiện diện của chính nó, một bộ luật tố tụng riêng biệt, trong bối cảnh Đại Việt và cả phương Đông phong kiến bấy giờ. Tuy nhiên, sự độc đáo của Bộ luật có lẽ không chỉ dừng ở sự phân biệt hai lĩnh vực pháp luật nội dung và hình thức, mà còn ở những tư tưởng pháp lý hiện đại, tư tưởng về liêm chính tư pháp - phạm trù vốn chỉ được đảm bảo trong phạm vi của một chế độ pháp quyền. QTKT Điều lệ được thiết kế thành 31 Lệ. Đầu tiên là Lệ về khám tụng, quy định 19 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT * TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 1 Đào Trí Úc, Những vấn đề chủ yếu về liêm chính tư pháp trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo “Liêm chính tư pháp: Các tiêu chuẩn quốc tế và Việt Nam”, do Viện Chính sách công và Pháp luật và Tổ chức hướng tới minh bạch tổ chức tại Hà Nội, ngày 10/10/2014, tr. 6-11. 2 Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/ TW ngày 2/6/2005, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 3 Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/ TW ngày 2/6/2005, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. các thủ tục tố tụng mang tính chất chung. Các Lệ sau quy định thủ tục tố tụng cụ thể đối với từng loại việc, như: Lệ về người kiện, khiếu nại quan án, Lệ về kỳ hạn xét xử, Lệ về phí tổn, Lệ kiện tụng nhân mạng, Lệ kiện tụng ruộng đất, trộm cướp Dù mới là bước đầu, nhưng Bộ luật đã thể hiện được những tư tưởng căn bản của liêm chính tư pháp. 1. Quốc triều khám tụng Điều lệ đề cao ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của các cán bộ tư pháp: tôn trọng và bảo vệ quyền con người Minh bạch, công bằng, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân được xem là mục tiêu, ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của những người làm công tác tư pháp thời Hậu Lê. Cụ thể: - QTKT Điều lệ quy định các vấn đề về tố tụng theo tinh thần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người Tinh thần chung, Bộ luật chứa đựng các quy định tố tụng theo hướng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Các trường hợp liên quan đến sự ức hiếp dân chúng của chủ thể có thẩm quyền đều bị nghiêm trị, như tại Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Lệ kiện tụng cai mục hà lạm, Lệ về tuần thú đò giang lạm sách, Lệ thân sức cai lại QTKT Điều lệ bảo vệ, khen thưởng những người làm chứng, tố cáo tội phạm, người quả cảm: “Người tróc bắt được, hoặc tố cáo đúng sự thực, tùy sự việc, nặng thì được thưởng quan chức, nhẹ thì được thưởng tiền bạc hoặc miễn việc quan. Nếu chẳng may bị giết chết thì cho trình báo quan sở tại chuyển đệ lên để xét tặng tiền chôn cất và giấy khen. Nếu che giấu, bưng bít thì quan lấy tội biếm bãi mà luận, dân lấy tội trộm cướp mà trị tội”4. Đồng thời, trừng trị nghiêm những kẻ che giấu, dung túng tội phạm, đặc biệt là kẻ vu cáo, hại người. “Những kẻ làm nghề trộm cướp... thì các quan đại thần văn võ đều không được nuôi chứa. Trái như vậy quan lấy tội biếm bãi mà luận, dân lấy tội trộm cướp mà trị tội”5; “Mọi việc làm tờ cáo trạng, tố trạng điêu toa để sinh ra kiện tụng hoặc lấy những việc không quan thiết gì đến mình và cóp nhặt những việc vụn vặt đem tố cáo để người khác phải lụy vào án phần nhiều bị phạt trượng... Quan ngự sử phát giác ra bắt được cũng cho xét tội luận hành, làm đủ tờ khải đệ đặt để răn thói gian ngoan, giữ yên dân nghiệp”6. Về vấn đề hòa giải, QTKT Điều lệ có quy định khá linh hoạt, với mục tiêu bảo vệ hợp lý nhất quyền, lợi ích hợp pháp của con người. Với những tội ít nghiêm trọng, như cố ý gây thương tích ở mức độ nhẹ, Bộ luật khuyến khích giải quyết bằng con đường hòa giải: “Nếu thương tích nhẹ thì răn bảo”7. Tuy nhiên, đối với những việc nghiêm trọng, tính chất phức tạp như tội về gian dâm, nhân mạng thì không cho phép hòa giải. “Kẻ gian dâm có chứng tích xác thực cứ xét luận mà trị tội, không được cho tư hòa”8; “Việc kiện tụng nhân mạng là can về hình luật. Theo phép là không được tư hòa, khám quan cũng không được cho hòa”9. Đối với án giết người, được xem là việc kiện tụng thuộc về hình luật, Bộ luật không cho hoà giải, để nhằm hạn chế các vi phạm pháp luật khác liên quan. Đây cũng là một nguyên tắc mang tính giáo dục cao, thể hiện 4 QTKT Điều lệ, Người dịch Trần Kim Anh, người hiệu đính Nguyễn Văn Lãng, in trong sách Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV-XVIII, Supported Toyota Foundation - Japan, Lệ kiện tụng trộm cướp, tr. 308. 5 Lệ kiện tụng trộm cướp, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 308. 6 Lệ cấm nhũng nhiễu điêu toa, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 327. 7 Lệ kiện tụng đánh nhau, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 319. 8 Lệ kiện tụng về gian dâm, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 322. 9 Lệ kiện tụng nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 306. 20 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT tinh thần vì công lý của pháp luật. Người vi phạm không chỉ phải chịu trách nhiệm trước người bị hại mà là trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân: “...lấy cớ đem gây oan giá hoạ để nhằm lấy tiền tài. Cũng có việc trót giết người rồi ngầm đưa cho bên khổ chủ tiền của, khổ chủ nhận được tiền tài ruộng nương của người ấy, thiện tiện tư hoà không phát cáo. Cũng có việc sau khi phát cáo, mà hai bên thuận tình, khám quan bèn cho tư hoà, luận qua quýt cho xong, để đến nỗi kẻ điêu toa nhờ đó mà hống hét, kẻ giàu có cầu của mà giết người đều được lọt lưới pháp luật. Từ nay về sau, nếu đem người gây vạ và giết người việc rõ ràng có thực trạng, đã đầu cáo tại quan ty, mà bên khổ chủ và bên hung phạm tự hoà, thì cả hai bên chiếu y luật mà luận...”10. Các quy định trên đều nhằm bảo vệ công lý, tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật, bảo vệ người bị hại, ngăn chặn sự trục lợi từ cả phía người dân lẫn quan chức, ngăn chặn sự coi thường, thách thức pháp luật - QTKT Điều lệ yêu cầu cán bộ tư pháp đảm bảo các nguyên tắc tố tụng, nhưng vẫn có quy định ngoại lệ nhằm bảo vệ cao nhất quyền con người Trong QTKT Điều lệ, đảm bảo trình tự, thời hạn, thời hiệu tố tụng là những nguyên tắc căn bản, được quy định cụ thể ở mỗi lệ, mỗi loại vụ việc. Thời hạn giải quyết được quy định rõ ràng sẽ làm cho cả người dân và chính quyền đều phải có trách nhiệm và sự chủ động trong hành vi cũng như công việc của mình. Nó cũng là một loại cam kết của chính quyền trước nhân dân về thực hiện nghĩa vụ bảo vệ công lý. Tôn trọng quy trình, thời hiệu tố tụng là biện pháp quan trọng để đảm bảo quyền con người, nhằm làm cho các vụ việc không bị đình trệ, quyền lợi của những chủ thể liên quan được đảm bảo. Bộ luật quy định rõ thời hạn xử kiện, nhằm ngăn chặn vi phạm từ phía quan lại, nhưng nếu việc chậm trễ đến từ phía đương sự vì các lý do chính đáng, thì có thể châm chước, vụ việc vẫn được giải quyết: “Gián hoặc có vụ kiện đã quá hạn, mà tình lý chưa xét, đều cho xin đủ giả kỳ (thời gian nghỉ). Giả kỳ chỉ cho một lần không được kêu xin làm chậm trễ để khỏi ngừng trệ việc ngục”11; hay “việc nhân mạng đã qua lâu ngày... gián hoặc bị kẻ khác mưu giết chôn giấu thây xác và vội làm việc chôn lấp để mất dấu vết mà rõ ràng có chứng cứ, có người thấy biết, thì cho khổ chủ trong 1, 2 tháng phân trình với tổng xã làm bằng cứ và cho kêu tại quan ngự sử...”12. Hoặc, đôi khi, thời hạn được hoãn lại vì những lý do rất nhân văn, thể hiện tư tưởng “trọng nông” của dân tộc: “những vụ kiện tụng về ruộng đất vào kỳ tháng 6, hoãn khám để tiện cho việc nhà nông”13. Với việc bắt người phục vụ hoạt động tố tụng, về nguyên tắc, QTKT Điều lệ quy định: “Sai làm việc tróc bắt, trừ việc trưng thu thuế hàng quý, nã bắt gian phi và áp điệu người quyền quý, ngoài ra nhất thiết nên theo công vụ”14. Nhưng với trường hợp người mang nợ đến hạn phải trả nợ, vì những lý do đặc biệt, như nhà có tang, thì QTKT Điều lệ quy định: “Nếu nhà có tang chưa chôn cất, mà đến hạn phải trả nợ, thì chủ nợ cũng nên vì việc đó mà thương xót không được tróc bắt hoặc lấy ngày hẹn ra sách hỏi để đến nỗi làm tổn thương việc hiếu, phải để cho chôn cất xong mới truy hỏi”15. 21 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 10 Lệ kiện tụng nhân mạng, QTKT Điều lệ, tr. 306. 11 Lệ về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 298 12 Lệ về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 307. 13 Lệ người kiện tụng xin hoãn khám, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 290. 14 Lệ về tróc bắt, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 288. 15 Lệ kiện tụng vay nợ, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 288. 22 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Vấn đề khởi kiện cùng thẩm quyền khám tụng, QTKT Điều lệ quy định theo từng lĩnh vực. Nguyên tắc chung là gửi đơn kiện và xét xử theo đúng việc, đúng thẩm quyền, không được kiện, nhận khiếu kiện, xét xử vượt cấp, nhằm đảm bảo trật tự tố tụng, hạn chế sự lạm quyền: “Tất cả các việc kiện tụng tranh chấp của dân đều chiếu lệ khiếu nại ở quan huyện sở tại, quan phủ, quan ngự sử tam ty, các nha môn chịu trách nhiệm khám tụng rồi đến quan chánh đường. Các việc kiện tụng chưa kinh qua lần khám nào mà đã khiếu nại vượt cấp, khiếu nại lần cuối thì các nha môn đều không được nhận khám”16. Tuy vậy, QTKT Điều lệ cũng cho phép một số trường hợp ngoại lệ, nhằm đảm quyền con người, hạn chế những oan ức, thiệt thòi cho dân: “Mọi trường hợp bị người quyền quý ức hiếp thiệt hại nặng, cùng các trường hợp oan ức, không biết khám lệ ở nha môn nào, không có đường nào có thể kêu cầu. Cùng các trường hợp đã qua công luận, phúc đính nhưng chưa giãi tỏ được lý, cho khua chuông gióng mõ để kêu lên”17. Bộ luật còn quy định thêm đối với các cán bộ tư pháp: “không được ngăn trở để khám tụng việc đã đưa lên, trái như vậy chiếu ý theo lệ đại tụng, tiểu tụng mà phạt”18. Về quy trình tố tụng, QTKT Điều lệ quy định: “khi xét hỏi, theo đúng kỳ hạn luận xử, không được chậm trễ”, tức là, khi đến thời điểm xét xử, quan phán xử không được chậm trễ và những người bị gọi bắt buộc phải đến. Tuy vậy, Bộ luật vẫn có quy định cho những trường hợp ngoại lệ, có thể cho hoãn khám như: có công việc phải đi xa, gia đình có việc trọng sự như phục tang cha mẹ, bị bệnh, hoặc đến muộn vì những lý do chính đáng khác... thì quan nha môn phải cho hoãn khám, “không được vội lấy tội trốn mà luận”19. Hoặc ngay cả với trường hợp trốn tụng thật, thì chủ thể có thẩm quyền “mới nên y hạn luận là trốn, luận tội phải đem sự tình phải trái mà tham xét, không chỉ được lấy tội trốn làm luận... không được nhân tội trốn mà đổi thay trái phải”20. - QTKT Điều lệ đề cao trách nhiệm bảo vệ quyền con người của cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng Bộ luật đề cao ý thức trách nhiệm, danh dự, lương tâm nghề nghiệp của cán bộ tư pháp. Các quy định được thiết kế theo tinh thần chủ thể có thẩm quyền phải thể hiện trách nhiệm của họ trong mọi quá trình giải quyết vụ việc, nhằm bảo vệ nhân dân, bảo vệ quyền con người. Bảo vệ quyền con người được xác định là mục tiêu cao nhất, đặt ra không chỉ đối với người bị hại, mà cả đối với nhóm người yếu thế trong tố tụng như bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ. Trong các giai đoạn tố tụng của từng việc kiện, QTKT Điều lệ đều thể hiện tinh thần bảo vệ con người thông qua việc quy định rõ trách nhiệm tương ứng của các cán bộ tư pháp. Cụ thể: Ngay từ bước nhận đơn, chủ thể có thẩm quyền đã phải có trách nhiệm hướng dẫn người kiện làm đơn kiện. Đơn kiện phải đảm bảo về nội dung, hình thức, phải có căn cứ, chứng cứ khởi kiện (kiện ruộng đất phải có văn khế, cưới xin phải có sính lễ treo hỏi... 21). Đối với những việc có người tố cáo bừa hoặc việc nhỏ nhặt như lấy trộm vặt, to tiếng làm náo động mà sự việc không đến nỗi thiệt hại quá thì khám quan không được nhận khám, mà tùy việc, cho gọi tới dạy dỗ, 16 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 275. 17 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 278. 18 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 278. 19 Lệ về trống tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 290. 20 Lệ về trốn tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 291. 21 Lệ về khởi kiện, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 279. răn đe. Còn đối với án giết người, quy định trong đơn chỉ được ghi kẻ chủ mưu tối đa 02 người, kẻ hành hung tối đa 04 người, không được tố cáo quá nhiều người, cũng không được để đơn trắng, không có tên người bị tố cáo. Nếu ghi quá số lượng thì xã tổng phải yêu cầu cắt đi cho đúng với quy định, còn “nếu bên khổ chủ tỏ ra ương ngạnh không chịu cắt, thì xã tổng lập tức cùng chung ép dẫn bên khổ chủ lược biên thương tích theo phép, đợi quan huyện đến biên nghiệm thành án xong mới lệnh nộp đơn xin khám theo phép, không được thoái thác hoặc cố ý để lâu không biên”22. Quy định khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi được thiết kế chi tiết, với mục đích đảm bảo tính khách quan của vụ án, để người bị hại sớm được đưa đi an táng, thân nhân người bị hại cảm thấy đỡ đau đớn, đồng thời phát huy cao nhất trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền: việc khám nghiệm phải được tiến hành ngay, “không được cố ý chậm trễ”23; chứng cứ, hiện trường phải được bảo vệ nghiêm ngặt: “...Nếu không có tình trạng ngoan ngạnh ngăn chặn mà quan huyện thêu dệt giãi lời cố ý kéo dài, nhằm để lâu ngày rữa nát xoá mất dấu tích, cũng phạt nặng”24. Sau khi khám nghiệm có văn án thì: “Án ở xã nộp tại bản tổng, án ở tổng nộp tại quan huyện. Quan huyện đem án đệ trình quan phủ và quan trấn để phòng sự điên đảo, thêm bớt”25. Khám nghiệm hiện trường, bảo vệ chứng cứ là công việc của nhà chức trách. Sự thực khách quan sẽ được làm sáng tỏ, hoặc bị làm thay đổi, biến dạng ở công đoạn này. Do đó, các nhà lập pháp thời Hậu Lê đã rất sâu sắc khi lường định cụ thể các vấn đề có thể xảy ra trong quá trình này để đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác, hạn chế vi phạm từ chủ thể công quyền: “Hễ xã hoặc thôn trưởng, cùng hào mục đánh giết, mà bản xã dụng tình không biên nghiệm, cho phép bản tổng căn cứ vào bên khổ chủ dẫn nghiệm lập biên bản. Nếu cả xã lẫn tổng đều dụng tình không đến, cho phép quan huyện cứ dẫn nghiệm, lập biên bản rồi lập tức trình lên quan phủ nhằm chủ yếu kết thành văn án khám nghiệm để biện rõ thực hư không được suy huỷ kéo dài qua tuần. Trái lệ ấy, cho bên khổ chủ kêu tại thừa ty, trấn ty. Nếu thừa ty, trấn ty lại cũng không làm việc áp nghiệm và tra xét, nơi nào dụng tình theo tội nặng mà luận ngay, không được coi nhẹ mà lượng thứ. Quan huyện mượn cớ xã tổng không tới biên khám, mà làm tờ kính giải với quan thừa ty và quan ngự sử, kéo dài tuần ngày nhằm mục đích để cho cái thây rữa nát, không xét được dấu vết thì lập tức luận phát và nhanh chóng đưa khám nghiệm, áp lệnh đôi bên ký vào văn án”26. Đối với việc tróc bắt, QTKT Điều lệ quy định “nhất thiết phải theo công vụ”. Người có thẩm quyền tróc bắt (sai nhân) phải trình bằng chứng với quan huyện và tạm trú ở huyện. Quan huyện phải có văn bản (thẻ) gửi cho xã trưởng để chuyển báo cho người bị bắt. Nếu trái quy định trên, cả sai nhân và quan huyện đều phải chịu trách nhiệm, cho phép “dân xã làm đơn khiếu nại tố cáo khám quan, tra xét rõ sự, cảnh cáo trừng phạt”27. Khi tiến hành tróc bắt các đối tượng trộm cướp thì phải có căn cứ, dựa trên lời khai cộng với việc thẩm xét cẩn thận mới được tiến hành tróc bắt, không được kéo dài ngày để tội phạm có thể bỏ trốn và cũng 23 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 22 Lệ kiện tụng nhân mạng, QTKT Điều lệ Sđd, tr. 298. 23 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 297. 24 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 298. 25 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 300. 26 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 300. 27 Lệ tróc bắt, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 288-289. không được phép bắt bớ bừa bãi, dựa trên sự tố cáo, suy đoán thiếu căn cứ theo kiểu “trông bóng thấy mặt”28 để tránh bắt oan người vô tội. Trong quá trình xét xử, trách nhiệm của khám quan là phải dựa vào pháp luật để “luận đoán trái phải”. Không được luận đoán dông dài, mơ hồ. “Các nha môn làm việc khám xét khi luận đoán các việc kiện tụng, đều nên viện dẫn luật lệnh cùng cách thức chính văn. Luật không có chính điều nên xét xử phải so sánh điều phụ... Nên phân biệt luận đoán mà làm, không được nhất loạt xử nặng”29. 2. Quốc triều khám tụng Điều lệ chứa đựng tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, bảo đảm sự trong sạch của tư pháp Tư tưởng liêm chính tư pháp trong QTKT Điều lệ thể hiện rõ nét ở các quy định mang tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, bảo đảm sự trong sạch của tư pháp, quyền lợi của những người vô tội: “Các nhà quyền quý thế gia ức hiếp người khác cho khám quan số tiền của ức hiếp, giam thu... thì lấy tội biếm bãi mà luận”30. QTKT Điều lệ ngăn chặn tham nhũng ngay từ quá trình bắt người liên quan đến vụ kiện: “Trấn quan nơi sai bắt, nếu có dính dáng đến việc yêu sách, cho người kiện kêu tại khám quan, cũng lấy tội phạt mà luận”31. Với chi phí ở các vụ kiện tụng, QTKT Điều lệ quy định đều thu ở “bên trái trả cho bên phải và người bị khiếu nại”. Quy định độc đáo này của pháp luật thời Hậu Lê không những làm giảm chi cho ngân sách nhà nước, mà còn có tác dụng ngăn ngừa, giáo dục. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà bên bị không được bảo vệ quyền lợi. Ví dụ, liên quan đến tróc bắt, xét xử phúc thẩm thì: “quan khám luận lần trước không được tróc tiền phí tổn của người nại”. Về chi phí ăn ở của cán bộ tư pháp: “Tiền nghiệm lễ của quan huyện và cung đốn ăn uống đều thu ở các tên hành hung và thủ mưu, nếu đích danh tên thủ mưu đã trốn trước thì cho bán ngay ruộng đất”32. Tuy nhiên, quyền lợi và tài sản của những người vi phạm này vẫn được bảo vệ trong khuôn khổ nhất định “không được lạm tróc và không được liên tróc đến thân thuộc họ hàng thôn xã nhà hắn”33. Khi khám nghiệm, nếu: “Quan huyện không tuân, chuẩn theo lệ, yêu sách tiền gạo cung đốn cho việc khám nghiệm quá nhiều và tổng xã còn giữ tệ tập cũ, nhiễu tróc tiền khám nghiệm, tiền cơm tạm thì cho phép bên bị yêu sách kêu tại quan thừa ty, tra thực theo tội nặng mà luận. Tài sản của kẻ thủ mưu, hành hung chỉ cho phép xã tổng ghi số liệu nộp tại quan huyện, đề phòng sự chuyên chứa mua bán”34. Tiền bồi thường giết người không được truy thu một cách bừa bãi “Các thân nhân như vợ, con, anh, em... thừa lúc nguy nan mà cướp bóc nhà người thủ mưu, hành hung để lấy thóc gạo, cá mú rau quả ở vườn. Những người cường hào không được vô cớ tự đến nhà dân mà hống hách hoạch tróc... Nếu quan chịu trách nhiệm khám lần ấy mà thế lực không thể chống lại được thì cho phép đệ 24 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 28 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 308. 29 Lệ khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 279. 30 Lệ kiện tụng sự ức hiếp, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 313. 31 Lệ tróc bắt, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 289. 32 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 300. 33 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 300. 34 Lệ kiện tụng về nhân mạng,, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 301. đơn trình bày tại thừa ty và quan ngự sử, sai nã bắt xét trị, không được sợ hãi tránh né, trái như vậy theo tội nặng mà luận”35. Trong quá trình xét xử, các khám quan phải đảm bảo sự liêm khiết, nếu vụ lợi sẽ bị xử lý nghiêm: “Nếu tụng lý đáng phạt lại cố thiên lệch do có sự thiên lệch về tiền tài, tình nghĩa, điên đảo thị phi, nhằm mục đích tham nhũng, tệ hại thì xét theo luật “cố ý thêm bớt tội” cho người mà luận hành”36. Đối với án nhân mạng: các mức thu, thời điểm thu lệ phí đều được quy định cụ thể, các vi phạm từ việc lạm thu tiền khám nghiệm cũng được dự liệu nhằm tránh nhũng loạn từ phía công quyền: “Tiền khám nghiệm, cung đốn phải theo lệ cũ... không được lạm tróc và không được liên tróc đến thân thuộc, họ hàng thôn xã nhà hắn”37 và “Ngày khám nghiệm không được hạch sách bên hung thủ lấy đồ lễ tiền lót, phải đợi khám nghiệm xong bên nào trái mới được chiếu lệ thu tiền, khám quan nếu thấy có tình tệ trên, phải tra xét kỹ càng...”38. Bên cạnh đó, QTKT Điều lệ quy định việc soát tụng (kiểm tra lại việc xét xử) hằng năm theo nguyên tắc cấp trên soát tụng cấp dưới: “cứ cuối năm, quan phủ soát quan huyện, quan thừa ty soát quan phủ... quan hiến soát trấn ty, thừa ty; ngự sử soát đề lĩnh, phủ doãn và hiến ty...”; “Quan chịu trách nhiệm kiểm soát nhất nhất phải thẩm tra... Ngoài ra xem trải qua kỳ tra soát, nhất thiết các việc không đúng lệ cùng các tiền soát lệ, đều phải xem xét. Nếu nha môn nào không chịu tuân, căn cứ vào sự việc được phát giác, không đợi phải khiếu tố, tra rõ sự thực, lấy trọng tội mà luận”39. 3. Quốc triều khám tụng Điều lệ đã có những đảm bảo cho liêm chính tư pháp - QTKT Điều lệ bước đầu có cơ chế bảo đảm sự độc lập của các chủ thể tham gia tố tụng Việc phân cấp, phân lĩnh vực xét xử đã góp phần tạo nên sự độc lập nhất định của cán bộ tư pháp. Dù không thật sự tách biệt như quy định của pháp luật tố tụng hiện đại, nhưng các vụ việc, lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của từng cấp, từng cơ quan được Bộ luật liệt kê, phân định cụ thể. Các công việc từ nhận đơn kiện, thụ lý, điều tra, đến xét xử, nếu không đúng các quy định về thẩm quyền theo cấp hoặc lĩnh vực, đều bị xem là vi phạm pháp luật và cán bộ tư pháp phải chịu trách nhiệm pháp lý. Đặc biệt, Bộ luật đã hướng tới bảo vệ sự độc lập trong xét xử của quan án, đề cao sự công tâm của cán bộ điều tra, nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực hay tư lợi cá nhân: “Quan khám xét không được phúc vấn, phải được lệnh quan, không được nhận riêng sự gửi gắm, nhờ vả”, “Không được nhận riêng đơn kêu tố, rồi một mình làm việc tróc nã, bắt, không cùng chung khám xét”; “Cần để ý dụng tâm việc tra hỏi, cần hợp ở lý lẽ để cho công vụ được rõ ràng, chính xác”40. Coi trọng quyết định, lập luận của người xét xử trong quá trình tố tụng cũng chính là tiền đề cho sự độc lập của tư pháp, bản án phải có “luận đoán về sự trái phải để các bên đều hiểu biết, không được lược chia trái phải, úp mở trong luận án, để bịt đường phúc kêu của người kiện, trái thế lấy tội biếm phạt mà luận”41. Yêu cầu về các “luận 25 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 35 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 301. 36 Lệ khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 280. 37 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 300. 38 Lệ kiện tụng về nhân mạng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 305. 39 Lệ về soát tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 296-297. 40 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr..278. 41 QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 303. đoán sai trái để các bên đều biết”42 trong bản án chính là yêu cầu về phần lý lẽ - phần thể hiện sự lập luận, phân tích, giải thích pháp luật cần thiết của thẩm phán xét xử trong bản án. Đây là minh chứng cho sự độc lập trong xét xử của thẩm phán, cũng chính là cam kết trách nhiệm của thẩm phán với các phán quyết của mình. - QTKT Điều lệ đã bước đầu có cơ chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan tư pháp Ở góc độ căn bản nhất, cơ chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho người dân trong QTKT Điều lệ thể hiện qua những quy định hướng đến một “thời hạn hợp lý” khi giải quyết vụ việc tố tụng, nhằm tăng cường trách nhiệm của cán bộ tư pháp, bảo vệ quyền, lợi ích của người dân. Thời hạn hợp lý này được Bộ luật đề cập ở nhiều khía cạnh, công đoạn tố tụng. Trước hết, là quy định cơ quan công quyền phải công khai lịch tiếp dân và xử lý công việc: “Các nha môn hàng tháng, các ngày làm việc đều niêm yết tờ hiển thị vào các ngày đầu tháng để người kiện tụng biết, phàm có việc khiếu tố vì lý do giao nhận, cho vào ngày ấy trình nộp lên”43; “Các nha môn trong ngoài làm việc khám, vào tháng nào, ngày nào coi việc thì nên theo tháng đó yết thị để hiểu dụ và hiểu sức cho người trong vụ kiện theo đúng ngày mà đến hầu kiện”44. Liên quan đến việc bắt giam người, Bộ luật ấn định thời hạn chung cũng như cụ thể khi đi từng xứ cho sai nha: “Quan huyện sai bắt trong hạn, nhật trình là nửa ngày, xa hơn thì 01 ngày, quan tam ty sai bắt trong hạt, tùy xa gần mà tính từ nửa đến 07 ngày, với các xứ xa gần khác nhau, thời hạn có thể từ 20 ngày đến 01 tháng”45. Đối với án nhân mạng, thời hạn khám nghiệm hiện trường cũng được quy định rõ đối với chủ thể có thẩm quyền, nhằm đảm bảo cao nhất tính khách quan của vụ án: “xã tổng phải lập tức cùng đến nơi khám nghiệm... không để quá 2, 3 ngày. Không được cố ý chậm trễ”46. Đặc biệt, thời hạn xử kiện được quy định cụ thể cho từng loại việc, quan án phải đảm bảo xử đúng hạn, vi phạm thời hạn sẽ bị xử lý: “Hạn xử kiện ruộng đất, trộm cướp là 03 tháng, án mạng 04 tháng; hộ tịch, hôn thú, đánh chửi nhau không phải tạp tụng đều lấy 02 tháng, kể từ ngày bị cáo bị bắt đến trình bày rõ sự việc. Kể từ ngày ấy, nếu khám quan không xét đoán để chậm trễ, để quá kỳ hạn 01 tháng lấy tội biếm mà luận, 03 tháng trở lên lấy tội bãi chức mà luận”47. Bản án sau khi được tuyên, phải được niêm yết công khai: “Luận bàn xong, phải treo niêm yết về luận tích để cho hai bên sao chép, không được bàn ngầm. Nếu quan khám xét dụng tình viết dôi năm tháng tới 2, 3 tháng về việc đã luận đoán... thì cho bên muốn phúc thẩm kêu để phản luận”48. QTKT Điều lệ còn có các quy định mang tính hỗ trợ, nhằm đảm bảo cao nhất thời hạn giải quyết việc khiếu kiện, như quy định về việc tra án tích, phục vụ xét xử phúc thẩm: “Nha môn tra án tích lần trước, nhiều khi không tuân hạn ngày của các vụ khiếu tụng. Từ nay về sau... án nào ngày tháng 26 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 42 QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 303. 43 Lệ về trốn tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr.. 290. 44 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 278. 45 Lệ nhật trình sai bắt của các khám quan, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 283. 46 QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 297. 47 Lệ về khám tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 275. 48 QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 303-304. nào, điều tra, nộp, đưa về ngày tháng nào... lấy 04 tháng làm một kỳ hạn, phủ huyện nộp tại ngự sử đài... nếu có chậm đưa lên, mỗi án phạt 05 quan tiền quý, 05 án trở lên lấy tội biếm (giáng chức) mà luận”49. Theo đó, là trách nhiệm đảm bảo thời hạn nộp văn án điều tra của các cơ quan địa phương: “Các đơn phúc khiếu, đơn khiếu nại có văn án điều tra của quan lần trước. Các nha môn thuộc xứ Thái Nguyên hạn 05 ngày phải nộp, thuộc xứ Thanh Hoa hạn 10 ngày phải nộp...”50. Quy định về soát tụng (kiểm tra lại việc xét xử) cũng được xem như một đảm bảo chung cho thời hạn của cả quy trình tố tụng: “Việc soát tụng... hễ nha môn nào 01 năm nhận khám bao nhiêu án răn đe, phát lạc, bao nhiêu án đưa bác... khai tình tiết lý do, kỳ hạn tra khám luận xét. Các luận tích đều ghi và sổ soát, đến kỳ hạn đệ trình. Quan chịu trách nhiệm kiểm soát nhất nhất phải thẩm tra”51. 4. giá trị của Quốc triều khám tụng Điều lệ QTKT Điều lệ vẫn còn không ít hạn chế như chưa phân định rõ hành pháp với tư pháp (xã trưởng vừa quản lý hành chính vừa xử các vụ kiện tụng ở xã), cho phép tra khảo trong quá trình lấy lời khai, thiết kế cách thức tố tụng theo loại việc, không theo giai đoạn, câu chữ dài dòng, thiếu khoa học... Tuy nhiên, giá trị lớn nhất mà QTKT Điều lệ để lại chính là tinh thần của Bộ luật. Các nhà “lập pháp” thời Hậu Lê đã thiết kế một bộ luật tố tụng theo tinh thần: đưa ra một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó, không được vượt quá, và phải luôn thể hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong tố tụng. Chứ không phải theo tinh thần ngược lại, là tạo ra một hệ quy tắc để bảo vệ hoạt động tố tụng của Nhà nước. Tinh thần này đã làm cho QTKT Điều lệ có những điểm vượt thời đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức xây dựng quy định trong Bộ luật. Nội dung nổi bật nhất là Bộ luật đã tập trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm này luôn được đặt trong tương quan với quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của con người nói chung. Các lệ phần lớn thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự, dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực của Bộ luật. Sự độc đáo và tài tình này của các “nhà lập” pháp triều Hậu Lê đã làm cho QTKT Điều lệ thực sự mang tinh thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức của một đạo luật tố tụng như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông khi ban hành Bộ luật: “liên quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch và giảm bớt... nhằm dùng chính sự để công bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến dân có chỗ nương nhờ”52. Dù chưa thực sự trùng khớp với các chuẩn mực quốc tế về liêm chính tư pháp, nhưng QTKT Điều lệ đã thực sự chứa đựng những tư tưởng cốt lõi nhất của phạm trù này. Tinh thần “liêm chính tư pháp của QTKT Điều lệ” không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử tố tụng dân tộc, mà còn mang các giá trị hiện đại, xứng đáng được kế thừa trong quá trình hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp đáp ứng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay n 27 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 14(318) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 49 Lệ về người kiện tụng khiếu nại khám quan, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 283. 50 Lệ về người kiện tụng khiếu nại khám quan, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 286. 51 Lệ soát tụng, QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 296. 52 QTKT Điều lệ, Sđd, tr. 269.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_tuong_liem_chinh_tu_phap_trong_bo_quoc_trieu_kham_tung_di.pdf
Tài liệu liên quan