Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam

Kết luận Qua phân tích ở trên, có thể thấy các ứng dụng chính của tiền mã hoá trong nền kinh tế gồm có ứng dụng trong thanh toán, chuyển tiền, và ứng dụng đầu tư. Bản chất của tiền mã hoá và công nghệ chuỗi khối cho phép tiền mã hoá vận hành trên nó, cũng như thực tiễn ứng dụng tiền mã hoá trong các lĩnh vực ứng dụng trên đã cho thấy lợi thế vượt trội của tiền mã hoá và các giao dịch tiền mã hoá như tính an toàn, bảo mật thông tin khách hàng và giao dịch, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, chi phí thấp, không cần thông qua trung gian,. Song, chính một vài trong số những lợi thế này lại là tiền đề cho sự xuất hiện của các rủi ro, vấn nạn từ giao dịch tiền mã hoá như tài trợ khủng bố, rửa tiền, lừa đảo, đánh cắp thông tin ví tiền mã hoá Thực trạng này, cùng với với xu hướng gia tăng mức độ chấp nhận và sử dụng tiền mã hoá của các thành phần nền kinh tế trong tương lai, đòi hỏi cần phải có chính sách pháp lý rõ ràng đối với tiền mã hoá. Trên cơ sở phân tích 3 cách ứng xử pháp lý từ các nền kinh tế khác nhau trên toàn cầu, cách tiếp cận thứ 3 theo hướng “công nhận và điều chỉnh tiền mã hoá” được tác giả đề xuất cho Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, khung pháp lý cụ thể cho Việt Nam đối với tiền mã hoá chưa được khai thác triệt để. Vì vậy, đây có thể là hướng nghiên cứu tiếp theo cho các nghiên cứu sau, đặc biệt việc nghiên cứu và xây dựng cơ chế thử nghiệm (sandbox) cho Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tư nhân, doanh nghiệp có cơ hội phát triển các sản phẩm, dịch vụ dựa trên công nghệ chuỗi khối và tiền mã hoá tại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ chế, khung pháp lý ứng xử đối với tiền mã hoá tại Việt Nam

pdf13 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 221- Tháng 10. 2020 Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam Trần Thị Xuân Anh Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Ngô Thị Hằng Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 05/06/2020 Ngày nhận bản sửa: 10/06/2020 Ngày duyệt đăng: 22/06/2020 Ngày 19/5/2020, lần đầu tiên kể từ cuối tháng 2/2020, đồng Bitcoin được giao dịch ở mức giá kỷ lục 9.729 USD/Bitcoin và tiếp tục phá vỡ ngưỡng 10.000 USD /Bitcoin vào 01/6/2020. Theo Decambre (2020), giá trị Bitcoin có thể duy trì tốc độ tăng trưởng 32% trong năm 2020 và nguy cơ đầu cơ trên thị trường đồng Bitcoin và các đồng tiền mã hoá khác có thể tiếp tục duy trì mạnh trong năm 2020. Điều này cho thấy, phần lớn người sử dụng hiện mới chỉ xem xét tiền mã hoá như một công cụ đầu tư, thậm chí đầu cơ, thay vì tăng cường mức độ tiếp cận, sử dụng và tận dụng các lợi ích tiền mã hoá trong các lĩnh vực ứng dụng khác nhau. Vì vậy, việc hiểu biết rõ về các lĩnh vực ứng dụng của tiền mã hoá không chỉ giúp người sử dụng hiểu rõ về tiền mã hoá, góp phần vào việc ổn định thị trường tiền mã hoá cũng như phát triển The use of cryptocurrencies in the economy and policy recommendations for Vietnam Abstract: On May 19th, 2020, since February 2020, Bitcoin was, for the fist time, traded at the record price of $9.729, and quickly surpassed the peak of $10.000 on June 1st, 2020. According to DeCambre (2020), Bitcoin prices could be up to 32% in 2020 and the speculation on Bitcoin and many other altcoins will be held up high in the market. These facts show that most of the cryptocurrency users have treated cryptocurrencies as speculative instruments rather than approaching and eventually utilizing them with their birth functions or uses including means of payment, medium of exchange, and an invesment tool. Hence, understanding the various uses of cryptocurrencies will not only considerably help the cryptocurrency users enrich their knowledge of crytocurrency, encouraging them to proactively use cryptocurrency in less-risky activities as speculating so that the crypocurrency market could be more stabilized and attractive, but also provide policy markers a more optimistic view on cryptocurrencies which could drive them to design appropriate responses and policy towards cryptocurrencies. This paper, by focusing on analysing different uses of cryptocurrencies in an economy coupled with severe threats facing while using cryptocurrencies including terrorím financing, money laundering, fraud,, eventually produces some policy recommendations for Vietnam in the context of the promising outreach of cryptocurrencies in the future, of which the mainline is accepting and regulating cryptocurrencies. Keywords: crytocurrency, bitcoin, uses of crypocurrency, policy. Anh Thi Xuan Tran Email: anhttx@hvnh.edu.vn Hang Thi Ngo Email: ngohang@hvnh.deu.vn Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 thị trường tiền mã hoá với những chức năng căn bản ban đầu của tiền mã hoá, mà còn giúp các nhà chính sách có nhìn nhận khách quan và có những chính sách ứng xử, quản lý phù hợp với tiền mã hoá. Bài viết này thông qua việc tập trung phân tích các ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế, cũng như những nguy cơ nghiêm trọng trong quá trình ứng dụng tiền mã hoá và các cách tiếp cận ứng xử với tiền mã hóa của các quốc gia, từ đó đưa ra gợi ý chính sách cho Việt Nam trước xu thế phát triển tiền mã hoá trong tương lai theo hướng công nhận và có quản lý tiền mã hoá. Từ khoá: tiền mã hoá, bitcoin, ứng dụng tiền mã hoá, chính sách 1. Thị trường tiền mã hoá toàn cầu Tiền mã hoá được định nghĩa “là hình thức biểu thị điện tử của giá trị, không được phát hành bởi ngân hàng trung ương (NHTW), tổ chức tín dụng hay các định chế tiền điện tử, và trong một số trường hợp, có thể được sử dụng như một phương tiện thay thế tiền pháp định thông thường” (ECB, 2012; ECB, 2015; IMF, 2016; BIS, 2015). Ngoài ra, Cơ quan ngân hàng Châu Âu (the European Banking Authority- EBA), Lực lượng đặc nhiệm tài chính Quốc tế (the Financial Action Task Force- FATF) và Uỷ ban thanh toán và cơ sở hạ tầng thị trường (the Committee on Payments and Market Infrastructures- CPMI), đơn vị trực thuộc Ngân hàng thanh toán quốc tế (the Bank for International Settlements- BIS) cũng nhấn mạnh, tiền mã hoá không có giá trị pháp lý như tiền pháp định của mỗi quốc gia, không được quản lý tập trung và giá cả thường được xác định theo cơ chế thị trường (cung, cầu). Ngân hàng Thế giới (Wodl Bank- WB) xếp loại tiền mã hoá vào nhóm tiền kỹ thuật số (digital currencies) và định nghĩa “tiền mã hoá là biểu thị điện tử của giá trị, được ghi nhận theo đơn vị thanh toán của riêng nó trong các tài khoản giao dịch, khác với các dạng thức tiền mã hoá (e-money)- các cơ chế thanh toán số- thường đại diện cho và được ghi nhận, thanh toán theo đơn vị tiền tệ pháp định” (Houben & Snyers, 2018; FATF, 2014). Mặc dù có sự khác biệt nhất định trong cách định nghĩa của các cơ quan pháp lý và các nhà nghiên cứu, tiền mã hoá có thể hiểu khát quát là: (1) hình thức biểu thị điện tử của giá trị; (2) không do NHTW hay cơ quan quản lý nhà nước nào phát hành; (3) mang các chức năng nhất định của tiền tệ như phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán và phương tiện dự trữ giá trị nhưng không có giá trị pháp lý tại bất kì khu vực, quốc gia nào; (4) không được quản lý tập trung; (5) giá cả được xác định theo cung, cầu. Theo lịch sử phát triển, các loại tiền mã hoá được phân chia thành hai nhóm chính, gồm có: Bitcoin và Altcoins. Trong đó Bitcoin là tiền mã hoá đầu tiên được ra đời trên nền tảng công nghệ chuỗi khối (blockchain), và Altcoins là nhóm gồm các tiền mã hoá khác, ra đời sau Bitcoin (Hình 1). Trên thực tế, giá trị giao dịch của Bitcoin chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng giá trị giao dịch tiền mã hoá toàn cầu và có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Tính đến cuối tháng 4/2013, có 28 cơ sở bán lẻ trên toàn cầu chấp nhận giao dịch bằng Bitcoin, nhưng con số này đã tăng lên 17.322 và 19.135 cơ sở tính đến cuối tháng 7/2019 và tháng 4/2020 (theo trang Coinmap.org, truy cập 29/4/2020). TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 3Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Hình 1. Thông tin giao dịch Bitcoin và 10 tiền mã hoá có giá trị vốn hoá lớn nhất thị trường Ghi chú: GTGD- Giá trị giao dịch, n- ngày Nguồn: https://bravenewcoin.com/, dữ liệu cập nhật vào ngày 4/6/2020 Hình 2. Bản đồ Bitcoin trong thanh toán, giao dịch tại các cơ sở bán lẻ toàn cầu Ghi chú: Tính tới ngày 29/4/2020, 19.135 điểm bán lẻ thuộc các lĩnh vực khác nhau từ du lịch, đồ ăn, dịch vụ giải trí, siêu thị, thể thao, giao thông, ATM, chấp nhận giao dịch bằng Bitcoin. Nguồn: coinmap.org, truy cập ngày 29/4/2020 Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 Tuy nhiên nếu xem xét và so sánh trên cơ sở mức vốn hoá thị trường, tiền mã hoá vẫn ở mức rất thấp so với các đồng tiền pháp định, thị trường vàng, hay thị trường chứng khoán (TTCK). Hình 3 cho thấy tính đến cuối tháng 7/2019, giá trị vốn hoá của TTCK khoảng 67,5 nghìn tỷ USD, tiếp đến là thị trường tiền pháp định 34,1 nghìn tỷ USD, thị trường vàng là 7,5 nghìn tỷ USD, trong khi con số này đối với thị trường đồng Bitcoin chỉ ở mức 176 tỷ USD (Bitcoinira, 2019). Thực tế này một mặt cho thấy vị thế của tiền mã hoá trên thị trường tài chính toàn cầu, đồng thời cũng chỉ ra tiềm năng tăng trưởng của tiền mã hoá nếu được nhìn nhận và đánh giá đúng mức độ hữu dụng trong nền kinh tế. 2. Các ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế Tiền mã hoá ngày càng được chấp nhận và sử dụng rộng rãi bởi nhiều ngành nghề, thành phần khác nhau trong nền kinh tế trên nhiều quốc gia khác nhau, xong tựu chung lại, ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế tập trung trong ba lĩnh vực chủ yếu gồm có: Thanh toán, chuyển tiền, và đầu tư. Dịch vụ chuyển tiền Một trong những ứng dụng lớn nhất của các loại tiền mã hoá (đặc biệt là các loại tiền mã hoá Litecoin- LTC, Stellar Lumen- XLM và Bitcoin Cash- BCH) là khả năng thực hiện các giao dịch quy mô lớn trong thời gian ngắn và chi phí thấp dựa trên nền tảng công nghệ chuỗi khối của các đồng tiền mã hoá. Chẳng hạn, một giao dịch chuyển tiền bằng LTC trị giá 99 triệu USD đã được thực hiện trong vòng 2,5 phút và chỉ tiêu tốn của người gửi 0,4 USD phí giao dịch (Lielacher, 2018). Quy trình chuyển tiền, bao gồm cả thời gian và chi phí được đánh giá có ưu thế vượt trội so với chi phí dịch vụ chuyển tiền tại các định chế tài chính. Thanh toán Tiền mã hoá cũng được một số tổ chức, đơn Hình 3. Giá trị vốn hoá Bitcoin và thị trường tiền mã hoá Ghi chú: Số liệu được cập nhật vào tháng 7/2019, đơn vị: tỷ USD ($ B- billion) và nghìn tỷ USD ($ T- trillion); Jeff Bezos- sáng lập viên và CEO của Amazon; Cryptocurrencies- các loại tiền mã hoá; USD in circulation- Đồng đô la Mỹ trong lưu thông; Gold Market Cap- vốn hoá thị trường vàng; Physical money- chủ yếu là tiền giấy và tiền xu; Stock Markets-Các TTCK; All money- tiền pháp lý tồn tại dưới dạng tiền gửi ngân hàng, tiền giấy, tiền xu Nguồn: Bitcoinira (2019) TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 5Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng vị chấp nhận sử dụng trong việc thanh toán cho giao dịch hoặc trả thưởng nhân viên, thành viên tham gia. Chẳng hạn, nền tảng kết nối xã hội và nhật ký trực tuyến (blog) hàng đầu thế giới, trang Steemit (https:// steemit.com/) thưởng bằng tiền mã hoá cho các thành viên có bài đăng trên trang và những thành viên chịu trách nhiệm quản lý nội dung bài đăng trên trang nhằm khuyến khích các thành viên của trang web gia tăng chất lượng nội dung đăng tải trên trang (Lielacher, 2018). Thống kê của Statista (2020) cũng cho thấy số lượng tài khoản ví điện tử Blockchain trên thế giới tăng gần 5 lần, từ 8,95 triệu ví ở quý 3/2016 lên gần 44,7 triệu ví tính đến cuối quý 4/2019 (Hình 4). Một số công ty du lịch như CheapAir và Destinia cũng chấp nhận Bitcoin trong thanh toán tiền vé máy bay, dịch vụ thuê phương tiện đi lại, dịch vụ khách sạn (Lielacher, 2018). Việc thanh toán khi đi du lịch cũng trở nên dễ dàng hơn với những cá nhân, tổ chức có sở hữu tiền mã hoá khi thị trường các ATM Bitcoin ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới, nghĩa là người dùng có thể đổi tiền mã hoá sang tiền pháp định địa phương ở nhiều thành phố du lịch lớn trên thế giới. Thống kê của coinmap biểu thị trong Hình 1 ở trên cũng đã cho thấy mức độ ứng dụng và chấp nhận rộng rãi của các chủ thể tham gia nền kinh tế đối với Bitcoin nói riêng và tiền mã hoá nói chung trong lĩnh vực thanh toán. Huy động vốn và Đầu tư Huy động vốn thông qua các đợt phát hành tiền mã hoá (ICOs-Initial coin offerings) đang ngày càng trở nên phổ biến và có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ chuỗi khối, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và khó có khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ vốn truyền thống từ phía các định chế tài chính hay thông qua huy động vốn trên TTCK. Về mặt thuật ngữ, “tiền mã hoá” trong tên gọi Phương án phát hành tiền mã hoá- ICOs- hàm ý nói tới các token phát hành theo các dự án hoặc tổ chức phát hành cụ thể, chứ không phải các đồng tiền mã hoá được tạo lập với công nghệ chuỗi khối riêng biệt như Bitcoin, Eutherem Loại tài sản số như “token” và “tiền mã hoá” (“coin”) Hình 4. Số lượng tài khoản ví điện tử Blockchain trên thế giới Đơn vị: triệu ví Nguồn: Statista.com, truy cập ngày 29/4/2020 Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 thường bị sử dụng một cách nhầm lẫn, lẫn nhau về mặt thuật ngữ mặc dù về mặt tính chất, đặc điểm là khác nhau hoàn toàn1. Để huy động vốn thông qua các đợt phát hành tiền mã hoá, các tổ chức phát hành (doanh nghiệp khởi nghiệp blockchain) thường phải có hệ thống tiền tệ riêng (là các loại tiền mã hoá- tài sản kỹ thuật số tư nhân, thường được gọi “token” mã hoá). Các token này sẽ được định giá bởi tổ chức phát hành và được bán cho nhà đầu tư bằng tiền mã hoá. Sau đó nhà đầu tư có thể nắm giữ token hoặc bán token trên thị trường thứ cấp để đổi lấy tiền mã hoá. Tuy nhiên, thị trường thứ cấp của các token tương đối 1 Trong khi tiền mã hoá được phát hành và sử dụng trên nền tảng chuỗi khối (sổ cái) riêng biệt và độc lập với các chuỗi khối khác của tiền mã hoá khác, thì token- một dạng tài sản kỹ thuật số, để hoạt động được, phải dựa trên nền tảng chuỗi khối của một loại tiền mã hoá cụ thể. Theo đó, nếu 1 ví điện tử hiệu lực trên 1 chuỗi khối nhất định chỉ lưu trữ 1 loại tiền mã hoá của chuỗi khối đó, thì lại có thể cho phép lưu trữ nhiều token khác nhau nếu các token này đều được phát hành và hoạt động trên cùng 1 nền tảng chuỗi khối. Khi giao dịch Token, thì thường phải trả phí cho nền tảng mà token đó được phát triển và hoạt động trên đó. Bên cạnh đó, token được phát hành theo một dự án hoặc một chủ thể phát hành cụ thể, và do đó, chỉ có giá trị trong việc thanh toán, giao dịch trong nội bộ hệ sinh thái của dự án, tổ chức phát hành. Token có thể được sử dụng trong thanh toán, giao dịch, có thể đại diện cho quyền sở hữu vốn, sử dụng để tích điểm, bình chọn, đầu tư (Mitra, 2019; Matbao, 2019). kém thanh khoản (Lipush, 2018). Khác với phát hành chứng khoán phải tuân thủ quy định chặt chẽ của Bộ Tài chính, việc phát hành tiền mã hoá để huy động vốn phần lớn không chịu sự quản lý của cơ quan chức năng. Tổ chức phát hành chỉ cần có ý tưởng kinh doanh, sách trắng (bản báo cáo thông tin phát hành và mục đích sử dụng vốn, thay vì phải có Bản cáo bạch trong hồ sơ phát hành theo yêu cầu của một phương án phát hành chứng khoán) là có thể tổ chức huy động vốn bằng tiền mã hoá. Kênh ICOs đã giúp các dự án và doanh nghiệp blockchain huy động được hơn 5 tỷ USD vào năm 2017 (gấp 40 lần quy mô năm 2016) và 25 tỷ USD tính tới hết quý 3/2018 (Bussgang & Nanda, 2018). Một số doanh nghiệp đã huy động được một lượng vốn lớn trong khoảng thời gian rất ngắn, điển hình như: Đơn vị sáng lập trình duyệt web có tên gọi Brave đã huy động thành công 35 triệu USD trong khoảng dưới 30 giây (5/2017) (Russell, 2017); Dự án Filecoin đã huy động được 257 triệu USD trong vòng 30 phút (8/2017) (Chu Thị Hoa, 2018); Công ty Kik (Canada) huy động được 100 triệu USD thông qua phát hành tiền mã hoá (cuối năm 2017). Ước tính, quy Hình 6. Quy trình phát hành tiền mã hoá (ICO) Nguồn: Lipusch (2018) TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 7Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng mô vốn huy động thông qua các đợt ICOs có thể cao gấp 10 lần so với thông qua vốn đầu tư mạo hiểm (Anh Hoa, 2018). Với những ứng dụng kể trên của tiền mã hoá, có thể thấy rõ lợi ích cũng như tiềm năng của tiền mã hoá trong việc: (1) Thúc đẩy thanh toán trong nền kinh tế, thông qua đó thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế; (2) Kích thích đầu tư và tăng cường luân chuyển vốn trong nền kinh tế một cách linh hoạt hơn và hiệu quả hơn; (3) Cung cấp thêm kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp ngoài kênh huy động vốn truyền thống thông qua hệ thống ngân hàng hay thị trường vốn; (4) Với các quốc gia đang phát triển, sự phát triển của công nghệ tài chính cũng như tiền mã hoá với các ứng dụng đa dạng, phù hợp với mọi thành phần người sử dụng, đặc biệt là ứng dụng chuyển tiền xuyên biên giới và đầu tư, sẽ góp phần thúc đẩy phổ cập tài chính; (5) Thông tin giao dịch được bảo mật mà không cần thông qua trung gian, chi phí giao dịch thấp, tốc độ giao dịch nhanh 3. Những nguy cơ tiềm ẩn từ tiền mã hoá đối với nền kinh tế Bên cạnh những lợi ích vượt trội, việc ứng dụng tiền mã hoá cũng tiềm ẩn một số rủi ro, không chỉ rủi ro đối với các giao dịch sử dụng tiền mã hoá, còn là những rủi ro tiềm ẩn từ chính công nghệ nền tảng mà tiền mã hoá hoạt động. Một số rủi ro có thể kể đến như: Giá biến động không có kiểm soát; Gia tăng nguy cơ rửa tiền, tài trợ khủng bố; Lừa đảo (chủ yếu rủi ro mất vốn trong ứng dụng đầu tư, hay huy động vốn bằng tiền mã hoá); Rủi ro bảo mật (mất ví điện tử- nơi lưu giữ thông tin giao dịch của chủ sở hữu ví, cụ thể thông tin của cặp chìa khoá bảo mật- khoá riêng tư và khoá công cộng, theo đó giá trị tiền mã hoá trong ví điện tử của người sử dụng có thể sẽ bị đánh cắp) Nhu cầu sử dụng tiền mã hoá cũng như công nghệ chuỗi khối để thực hiện các giao dịch chuyển tiền bằng tiền mã hoá nhanh chóng thu hút sự quan tâm của cả cá nhân và tổ chức khi quy mô chuyển tiền không giới hạn và không cần phải khai báo mục đích chuyển tiền với những khoản có quy mô lớn như đối với các dịch vụ tại các định chế tài chính. Và điều này, mặc dù thuận tiện cho người sử dụng, song lại có thể là nguồn gốc góp phần gia tăng vấn nạn rửa tiền và bất ổn hệ thống tài chính cũng như các hệ luỵ khác cho nền kinh tế. Theo MIT Technology Review (2020), dựa trên dữ liệu thống kê về các giao dịch sử dụng tiền mã hoá của người dùng, một công ty chuyên phân tích các dữ liệu về chuỗi khối- Chainalysis, cho biết trong năm 2019 các thành phần tội phạm đã thực hiện giao dịch chuyển tiền bằng Bitcoin trị giá 2,8 tỷ USD, tăng mạnh từ mức 1 tỷ USD vào năm 2018 và các giao dịch này được thực hiện thông qua hai sàn giao dịch tiền mã hoá lớn nhất và phổ biến nhất hiện nay là Binance Hình 7. Quy mô huy động và rủi ro theo kênh huy động vốn Nguồn: Lipusch (2018) Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 và Huobi. Việc giao dịch và chuyển tiền mã hoá thông qua việc chuyển đổi giữa tiền mã hoá và tiền pháp định một cách dễ dàng thông qua các sàn giao dịch, không có quản lý, đã giúp việc tài trợ khủng bố và rửa tiền trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, huy động vốn dễ dàng và không chịu sự quản lý, giám sát của hệ thống pháp lý và cơ quan chức năng, nên việc huy động vốn tiền mã hoá (ICOs) cũng đem lại một số hạn chế, rủi ro cho nhà đầu tư như: (i) Nguy cơ mất vốn do tính khả thi của dự án, doanh nghiệp blockchain thấp- Tổ chức phát hành thường là các doanh nghiệp khởi nghiệp với ý tưởng kinh doanh mới và mạo hiểm, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ phức tạp như chuỗi khối đòi hỏi phải thiết lập, xây dựng và phát triển được hệ sinh thái bền vững, do đó tỷ lệ thất bại trong kinh doanh cao (hơn 46% các dự án, doanh nghiệp huy động vốn qua ICOs năm 2017 thất bại, và bình quân tỷ lệ thất bại (tồn tại dưới 4 tháng) của các dự án huy động vốn từ ICOs ước tính xấp xỉ 56% (Jacobs, 2018); (ii) Nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố- vốn huy động được từ các đợt phát hành ICOs có thể có rủi ro bị sử dụng sai mục đích cho các hoạt động phi pháp; (iii) Giá trị của doanh nghiệp blockchain (theo token) thường biến động không biên độ, tuỳ theo hiệu quả kinh doanh doanh nghiệp, điều này khiến việc đầu tư vào các doanh nghiệp blockchain thông qua ICOs là kênh đầu tư rủi ro cao, và giá trị của các token có thể bằng 0 khi các dự án, doanh nghiệp blockchain bị phá sản hoặc là các mô hình kinh doanh lừa đảo; (iv) Bảo mật thông tin và rủi ro mất ví điện tử (mất khoá riêng tư (private key)- các giao dịch trong ICOs thực hiện trên nền tảng công nghệ chuỗi khối, có tính bảo mật và an toàn thông tin cao, tuy nhiên vẫn có nguy cơ nhà đầu tư bị đánh cắp thông tin ví điện tử khi tham gia giao dịch trong các đợt ICOs. Bên cạnh việc sử dụng tiền mã hoá đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp thông qua hoạt động tài trợ vốn doanh nghiệp qua các kênh huy động vốn từ ICOs, người sở hữu tiền mã hoá còn thực hiện đầu tư tiền mã hoá thông qua việc mua đi, bán lại tiền mã hoá. Hành vi đầu cơ tiền mã hoá theo đó cũng được hình thành, gây ảnh hưởng không nhỏ tới biến động giá của tiền mã hoá trên thị trường, gây lũng đoạn thị trường, và làm cho việc ứng dụng tiền mã hoá chệch đi khỏi mục đích ban đầu là ứng dụng chính trong thanh toán, chuyển tiền Thực tế diễn biến giá Bitcoin- tiền mã hoá đầu tiên và phổ biến nhất hiện nay- kể từ đầu năm 2017 tới nay đã cho thấy diễn biến giá không kiểm soát của Bitcoin nói riêng và tiền mã hoá nói chung (theo dữ liệu giá cung cấp bởi https://coinmarketcap.com/, riêng trong năm 2017, giá Bitcoin tăng từ 900 USD lên gần 19.500 USD/bitcoin, tăng hơn 21 lần). Dòng tiền của các nhà đầu cơ quốc tế vào Bitcoin cũng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các thông tin kinh tế, chính trị toàn cầu, đặc biệt khi quy mô tài sản của người đầu tư/ đầu cơ Bitcoin còn được phân bổ vào các danh mục chứng khoán toàn cầu, chịu ảnh hưởng nặng nền từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, sự kiện Brexit, và gần đây nhất là đại dịch Covid-19. Thống kê cho thấy, thị trường tiền mã hoá đã bị ảnh hưởng nặng nề vào tháng 3- thời điểm đại dịch lan rộng trên toàn cầu- khi có những tiền mã hoá bị mất 50% giá trị trong 1 ngày giao dịch (theo dữ liệu giá Bitcoin từ https:// coinmarketcap.com/, ngày 12/3/2020, giá đóng cửa Bitcoin giảm còn 4.970 USD từ mức giá 7.911 USD đóng cửa vào ngày 11/3/2020). Những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn cùng với xu hướng ứng dụng tiền mã hoá trong các TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 9Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng lĩnh vực khác nhau sẽ còn tiếp tục gia tăng mạnh trong thời gian tới trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam cần có quan điểm phù hợp với tiền mã hoá và có những bước đi kịp thời về mặt chính sách để có thể vừa tạo điều kiện cho các thành phần khác nhau trong nền kinh tế tận dụng tối đa lợi ích từ tiền mã hoá, đồng thời có thể hạn chế, giảm thiểu hoặc có cơ chế phản ứng phù hợp với các rủi ro tiềm ẩn từ các giao dịch tiền mã hoá. 4. Hàm ý chính sách cho Việt Nam Ứng xử pháp lý của các quốc gia trên thế giới hiện nay đối với tiền mã hoá được xây dựng theo một trong ba cách tiếp cận: 1) khuyến khích việc sử dụng và phát triển tiền mã hoá; 2) cấm hoặc hạn chế sử dụng tiền mã hoá; và 3) quy định việc sử dụng tiền mã hoá để giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn trong khi khuyến khích đổi mới tài chính. Cách tiếp cận 1: Phát triển tiền mã hoá Một số chính phủ đang tích cực tìm cách trở thành trung tâm tiền mã hoá bằng cách thu hút và phát triển các ngành công nghiệp tiền mã hoá tại quốc gia của họ. Các chính phủ này thường xem tiền mã hoá là một sự đổi mới tài chính quan trọng có thể tạo ra việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, các khung pháp lý được thiết kế để thu hút một loạt các doanh nghiệp và hoạt động trong ngành công nghiệp tiền mã hoá, bao gồm trao đổi và đầu tư vào tiền mã hoá. Ví dụ, Malta đang tạo ra một khung pháp lý theo hướng “thân thiện với tiền mã hoá” bao gồm các công ty môi giới, trao đổi, quản lý tài sản và giao dịch tiền mã hoá, nhằm mục đích cung cấp “sự ổn định về mặt pháp lý cần thiết để cho phép ngành này phát triển”. Khung pháp lý này được thông qua vào tháng 7/2018 và tạo ra một “Uỷ ban đặc nhiệm chiến lược quốc gia” tư vấn cho Chính phủ về khuôn khổ cho tiền mã hoá và các ứng dụng công nghệ sổ cái phân tán khác (Nhã Thanh, 2018). Thuế suất ưu đãi của Malta đối với các công ty quốc tế cũng đang thu hút các doanh nghiệp liên quan đến ngành công nghiệp tiền mã hoá. Thậm chí Malta xây dựng hình ảnh là “Đảo Blockchain”, thu hút hai sàn giao dịch tiền mã hoá nổi bật (Binance và OKEx), đây là hai trong số các sàn giao dịch lớn trong ngành công nghiệp tiền mã hoá trên thế giới. Tương tự như vậy, Singapore đang phấn đấu trở thành một trung tâm tiền mã hoá ở châu Á, với việc xây dựng khung pháp lý nhằm tạo ra cơ chế minh bạch và đầy đủ trong giao dịch, thanh toán liên quan đến blockchain và tiền mã hoá. Chính phủ đã sử dụng nhiều chính sách khác nhau để thúc đẩy sử dụng tiền mã hoá, cho phép một số nhà bán lẻ chấp nhận nhiều loại tiền mã hoá khác nhau trong thanh toán. Thụy Sĩ cũng đang tìm cách tạo ra một ngành công nghiệp tiền mã hoá, hay “Thung lũng tiền mã hoá”, một nhóm các công ty liên kết với tiền mã hoá giống như cụm công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon. “Thung lũng Crypto” nằm ở Zug, một thị trấn nhỏ bên ngoài Zurich. Chính phủ đã cố gắng thu hút các công ty tiền mã hoá trên cơ sở ban hành khung pháp lý đầy đủ liên quan đến tiền mã hoá; các quy định này cũng được xem là thuận lợi để thu hút các hoạt động tiền mã hoá. Cũng như Malta, các công ty đa quốc gia bị thu hút bởi mức thuế thấp của Zug (Chu Thị Hoa, 2019). Các công ty đã tạo ra và quảng bá Ethereum, loại tiền mã hoá lớn thứ hai tính theo giá trị giao dịch trên thế giới, được đặt tại Zug và có tới 200-300 thực thể tiền mã hoá đã mở ở Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 thung lũng này trong những năm gần đây. Cơ quan chính phủ ở Zug cũng chấp nhận tiền mã hoá như một phương tiện thanh toán. Cách tiếp cận 2: Hạn chế tiền mã hoá Một số chính phủ đã cấm sử dụng tiền mã hoá hoặc các hoạt động cụ thể liên quan đến tiền mã hoá. Các chính phủ này thường xem xét các rủi ro của tiền mã hoá, bao gồm làm suy yếu sự ổn định tài chính, thiếu sự bảo vệ nhà đầu tư và người tiêu dùng và khả năng giao dịch bất hợp pháp, quan trọng hơn là những lợi ích có thể mang lại. Ví dụ, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một loạt các hạn chế trong việc sử dụng tiền mã hoá và các hoạt động liên quan. Năm 2013, một số các quy định được ban hành nhằm hạn chế các ngân hàng Trung Quốc sử dụng tiền mã hoá làm tiền tệ, với lý do lo ngại về rửa tiền và đe dọa ổn định tài chính. Năm 2017, chính phủ Trung Quốc đã cấm giao dịch tiền mã hoá và hạn chế trao đổi tiền mã hoá như một phần trong nỗ lực chống lại rủi ro tài chính sau khi nợ công ty tăng nhanh và các sản phẩm đầu tư mới, có rủi ro cao ngày càng được sử dụng phổ biến (Linh Anh, 2017). Thậm chí năm 2018, chính quyền Trung Quốc đã chỉ đạo các cửa hàng, khách sạn và văn phòng không tổ chức bất kỳ bài phát biểu, sự kiện nào liên quan đến tiền mã hoá, hoặc các hoạt động và chặn một số tài khoản công khai liên quan đến tiền mã hoá. Hàn Quốc cũng đã ban hành một số quy định cấm một số hoạt động tiền mã hoá. Tuy nhiên, một tuần sau lệnh cấm của Trung Quốc, các cơ quan quản lý tài chính của Hàn Quốc cũng cấm giao dịch tiền mã hoá, do lo ngại về nguy cơ lừa đảo tài chính ngày càng tăng, tuy nhiên, Hàn Quốc đã không đi xa đến mức như Trung Quốc là hạn chế các hoạt động tiền mã hoá. Vào tháng 1/2018, Bộ trưởng Tài chính của Hàn Quốc cho biết chính phủ không có kế hoạch đóng cửa giao dịch tiền mã hoá trên các sàn giao dịch (Kim & Kim, 2018). Ấn Độ cũng đã áp đặt các hạn chế chặt chẽ đối với tiền mã hoá và Bộ trưởng Kinh tế đã khuyến nghị một lệnh cấm chính thức đối với tiền mã hoá. Vào tháng 4/2018, NHTW của Ấn Độ- Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ, đã cấm các ngân hàng, tổ chức tài chính và các tổ chức được quy định khác cung cấp bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến tiền mã hoá. NHTW lập luận rằng tiền mã hoá không thể được coi là tiền tệ theo luật hiện hành của Ấn Độ, bắt buộc tiền xu phải được làm bằng kim loại hoặc tồn tại ở dạng vật lý và được Chính phủ đóng dấu. Vào tháng 10/2018, một ủy ban được chủ trì bởi Bộ trưởng Kinh tế khuyến nghị đưa ra một khung pháp lý để cấm sử dụng tiền mã hoá ở Ấn Độ (Khởi Vũ, 2019). Ngoài ra, Bangladesh và Kyrgyzstan đã cấm tiền mã hoá; Bôlivia đã cấm bất kỳ loại tiền nào không được phát hành bởi chính phủ, bao gồm cả tiền mã hoá; Ai Cập và Indonesia đã cấm giao dịch tiền mã hoá; Lebanon đã cấm các tổ chức tài chính giao dịch với các loại tiền ảo; Đài Loan đã cấm các ngân hàng giao dịch tiền mã hoá. Cách tiếp cận 3: Điều chỉnh tiền mã hoá Một số chính phủ đang tìm cách điều chỉnh tiền mã hoá (Linh Anh, 2017; Kim & Kim, 2018; Khởi Vũ, 2019). Các chính phủ này dừng việc cấm tiền mã hoá nhưng không chủ động tìm cách trở thành trung tâm tiền mã hoá. Nhìn chung, Chính phủ sẽ tìm kiếm sự cân bằng giữa khuyến khích đổi mới tài chính và quản lý rủi ro do tiền mã TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 11Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng hoá gây ra, đồng thời đưa ra khung pháp lý để kiểm soát các hoạt động xung quanh sự xuất hiện của tiền mã hoá. Các quy định là sự kết hợp của việc áp dụng các quy định hiện hành cho tiền mã hoá và phát triển các quy định mới đặc biệt nhắm mục tiêu vào tiền mã hoá. Mặc dù các chính phủ khác nhau đưa ra các quy định khác nhau nhằm tìm cách điều chỉnh tiền mã hoá (Linh Anh, 2017; Kim & Kim, 2018; Khởi Vũ, 2019), song các quy định này thường tập trung vào, ví dụ, trao đổi tiền mã hoá, đánh thuế tiền mã hoá và áp dụng luật bảo mật cho giao dịch tiền mã hoá. Trên thực tế, có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia trong cách áp dụng các quy định này. Ví dụ, về mặt trao đổi, các quốc gia đưa ra quy định khác nhau về việc yêu cầu các sàn giao dịch phải đăng ký với chính phủ hay không, áp dụng các quy định chống rửa tiền và chống khủng bố, và đáp ứng các yêu cầu về vốn và an ninh mạng. Về mặt xử lý thuế đối với tiền mã hoá, các chính phủ cũng có quan điểm khác nhau về việc họ có đánh thuế tiền mã hoá hay không, và nếu vậy, liệu nên áp dụng, ví dụ, thuế giá trị gia tăng, thuế tăng vốn hay thuế tài sản đối với tiền mã hoá. Các chính phủ cũng có quy định khác nhau về việc có áp dụng Luật Chứng khoán cho quản lý tiền mã hoá hay không, và nếu vậy, đặc điểm nào làm cho tiền mã hoá phải tuân theo Luật Chứng khoán. Mặc dù có sự khác biệt trong cách tiếp cận theo quy định, một cuộc khảo sát về các quy định về tiền mã hoá trên khắp thế giới (The Legal Library of Congress, 2018) cho thấy một trong những hoạt động phổ biến nhất ở các quốc gia là cảnh báo do chính phủ đưa ra về những cạm bẫy của việc đầu tư vào thị trường tiền mã hoá. Phần lớn khung quy định được thiết kế để giáo dục công dân về sự khác biệt giữa tiền tệ và tiền mã hoá. Các cảnh báo chỉ ra rằng các công dân đầu tư vào tiền mã hoá phải tự chịu rủi ro và không có sự hỗ trợ về mặt pháp lý trong trường hợp có tổn thất xảy ra. Căn cứ vào thực tiễn tại Việt Nam hiện nay, nhóm nghiên cứu cho rằng Chính phủ nên chọn cách tiếp cận thứ ba đối với tiền mã hoá. Mặc dù ở thời điểm hiện tại, tiền mã hoá chưa được Nhà nước công nhận, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có khuyến cáo rằng các quy định của pháp luật hiện hành về tiền tệ và ngoại hối, Bitcoin và các loại tiền mã hoá tương tự khác không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Việc sử dụng chúng làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, thị trường tiền mã hoá hiện nay tại Việt Nam đang phát triển rất sôi động, diễn biến phức tạp, có rất nhiều loại tiền mã hoá được đầu tư và quảng bá trên thị trường, trong đó được quan tâm và đầu tư nhiều nhất là đồng tiền Bitcoin, Etherium và Litecoin. Với xu hướng phát triển của tiền mã hoá, sự công nhận của các nước trên thế giới, và những ưu điểm của tiền mã hoã, Chính phủ nên có những quy định phù hợp để tạo sân chơi cho các nhà đầu tư, cụ thể: Đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng và hoạt động trong lĩnh vực trao đổi, giao dịch tiền mã hoá, cần đăng ký hoạt động với các cơ quan chức năng nhằm xác nhận quyền sở hữu tài khoản, lưu trữ các thông tin về lịch sử giao dịch; Đối với các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ bằng tiền mã hoá, cần phải có quy chế đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người bán, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc về kế toán, kiểm toán, nghĩa vụ thuế liên quan đến sở hữu và sử dụng tiền mã hoá cũng như các quy định của pháp luật về Ứng dụng của tiền mã hoá trong nền kinh tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 phòng chống rửa tiền; Đối với các cá nhân, tổ chức “đào” hay khai thác tiền mã hoá, phải chịu thuế thu nhập trên khối lượng “đào được”. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả quản lý tiền mã hoá trong dài hạn, cần có các chính sách nâng cao cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ chuyên gia tài chính, chuyên gia mã hóa và bảo mật, nâng cao nhận thức của người dân về bản chất của các loại tiền mã hoá. Kết luận Qua phân tích ở trên, có thể thấy các ứng dụng chính của tiền mã hoá trong nền kinh tế gồm có ứng dụng trong thanh toán, chuyển tiền, và ứng dụng đầu tư. Bản chất của tiền mã hoá và công nghệ chuỗi khối cho phép tiền mã hoá vận hành trên nó, cũng như thực tiễn ứng dụng tiền mã hoá trong các lĩnh vực ứng dụng trên đã cho thấy lợi thế vượt trội của tiền mã hoá và các giao dịch tiền mã hoá như tính an toàn, bảo mật thông tin khách hàng và giao dịch, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, chi phí thấp, không cần thông qua trung gian,... Song, chính một vài trong số những lợi thế này lại là tiền đề cho sự xuất hiện của các rủi ro, vấn nạn từ giao dịch tiền mã hoá như tài trợ khủng bố, rửa tiền, lừa đảo, đánh cắp thông tin ví tiền mã hoá Thực trạng này, cùng với với xu hướng gia tăng mức độ chấp nhận và sử dụng tiền mã hoá của các thành phần nền kinh tế trong tương lai, đòi hỏi cần phải có chính sách pháp lý rõ ràng đối với tiền mã hoá. Trên cơ sở phân tích 3 cách ứng xử pháp lý từ các nền kinh tế khác nhau trên toàn cầu, cách tiếp cận thứ 3 theo hướng “công nhận và điều chỉnh tiền mã hoá” được tác giả đề xuất cho Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, khung pháp lý cụ thể cho Việt Nam đối với tiền mã hoá chưa được khai thác triệt để. Vì vậy, đây có thể là hướng nghiên cứu tiếp theo cho các nghiên cứu sau, đặc biệt việc nghiên cứu và xây dựng cơ chế thử nghiệm (sandbox) cho Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tư nhân, doanh nghiệp có cơ hội phát triển các sản phẩm, dịch vụ dựa trên công nghệ chuỗi khối và tiền mã hoá tại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ chế, khung pháp lý ứng xử đối với tiền mã hoá tại Việt Nam ■ Tài liệu tham khảo 1. Anh Hoa (2018), Huy động vốn bằng tiền ảo để khởi nghiệp: Dễ có triệu USD nhưng khó “nuốt, truy cập ngày 1/10/2020, tại: https://baodautu.vn/huy-dong-von-bang-tien-ao-de-khoi-nghiep-de-co-trieu-usd-nhung-kho- nuot-d78294.html 2. Bitcoinira (2019), [Infographic] Bitcoin And Cryptocurrency In Perspective, retrieved on May 15, 2020, from: https://bitcoinira.com/articles/infographic-bitcoin-in-perspective 3. BIS (2015), Digital Currencies, Retrieved on November 3, 2019, from: https://www.bis.org/cpmi/publ/d137.pdf 4. Bussgang, J. & Nanda, R. (2018), The Hidden Costs of Initial Coin Offerings, Retrieved on January 10, 2020, from: https://hbr.org/2018/11/the-hidden-costs-of-initial-coin-offerings 5. Bussgang, J. & Nanda, R. (2018), The Hidden Costs of Initial Coin Offerings, Retrieved on January 10, 2020, from: https://hbr.org/2018/11/the-hidden-costs-of-initial-coin-offerings 6. Chu Thị Hoa (2019), Huy động vốn qua ICO, STO, IEO, IDO – Cơ hội và thách thức pháp lý, Truy cập ngày 10/1/2020, tại: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2491 7. DeCambre, M. (2020), Bitocin prices slip amid speculation that a block of the cryptocurrency possibly linked to Satoshi Nakamot changed hands, retrieved on May 25, 2020 from: https://www.marketwatch.com/story/bitcoins-prices- slip-amid-speculation-that-a-block-of-the-cryptocurrency-possibly-linked-to-creator-satoshi-nakamoto-just-changed- hands-2020-05-20 8. ECB (2012), Virual Currency Schemes, Retrieved on November 3, 2019, from: https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/ TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGÔ THỊ HẰNG 13Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng other/virtualcurrencyschemes201210en.pdf 9. ECB (2015), Virtual Currency Schemes- A Further Analysis, Retrieved on November, 3, 2019, from: https://www. ecb.europa.eu/pub/pdf/other/virtualcurrencyschemesen.pdf 10. FATF (2014), Virtual Currencies- Key Definitions and Potential AML /CFT Risks, Retrieved on November 3, 2020 from: https://www.fatf-gafi.org/media/fatf/documents/reports/Virtual-currency-key-definitions-and-potential-aml-cft- risks.pdf 11. Houben, R. & Snyers, A. (2018), Cryptocurrencies and Blockchain- Legal Context and Implications for Financial Crime, Money Laundering and Tax Evasion. Retrieved on January 10, 2020 from: supporting-analyses 12. IMF (2016), Virtual Currencies and Beyond: Initial Considerations, Retrieved on November 3, 2019 from: https:// www.imf.org/external/pubs/ft/sdn/2016/sdn1603.pdf 13. Jacobs, S. (2018), Over half of all initial coin offerings for crypto startups fail within 4 months, Retrieved on January 10, 2020, from: https://www.businessinsider.com.au/cryptocurrency-initial-coin-offering-over-half-fail-2018-7 14. Kim, D. & Kim, C. (2018), South Korea says no plans to ban cryptocurrency exchanges, uncovers $600 million illegal trades, retrieved on May 24, 2020, from: https://www.reuters.com/article/us-southkorea-bitcoin/south-korea- says-no-plans-to-ban-cryptocurrency-exchanges-uncovers-600-million-illegal-trades-idUSKBN1FK09J 15. Khởi Vũ (2019), Ấn Dộ: Đề xuất phạt tù với người sử dụng tiền mã hoá do tư nhân phát hành, truy cập ngày 24/5/2020 từ https://doanhnhansaigon.vn/kinh-te/an-do-de-xuat-phat-tu-voi-nguoi-su-dung-tien-ma-hoa-do-tu-nhan- phat-hanh-1093441.html 16. Lialacher, A. (2018), 10 Awesome Uses of Cryptocurrency, Retrieved on January 10, 2020 from: https:// bravenewcoin.com/insights/10-awesome-uses-of-cryptocurrency 17. Linh Anh (2017), Vì sao lệnh cấm của Trung Quốc có thể làm điên đaor Bitcoin và một loạt các đồng tiền số khác?, truy cập ngày 24/5/2020 tại https://cafef.vn/vi-sao-lenh-cam-cua-trung-quoc-co-the-lam-dien-dao-bitcoin-va-mot-loat- dong-tien-so-khac-20170905102758323.chn 18. Lipusch, N. (2018), Initial Coin Offerings- A Paradigm Shift in Funding Disruptive Innovation. Retrieved on January 10, 2020, from: https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3148181 19. Matbao (2019), “Token là gì”, truy cập ngày 15/4/2020 từ: https://wiki.matbao.net/token-la-gi-nen-dau-tu-tien- dien-tu-coin-hay-token/ 20. Mitra, R. (2019), “Utility Tokens vs Securities Tokens: Learn The Difference- Ultimate Guidge, retrieved on April 15, 2020, from: https://blockgeeks.com/guides/utility-tokens-vs-security-tokens/ 21. MIT Technology Review (2020), Criminals laudered $2.8 billion in 2019 using crypto exchanges, finds a new analysis, retrieved on May 26, 2020, from: https://www.technologyreview.com/2020/01/16/130843/cryptocurrency- money-laundering-exchanges/ 22. Nhã Thanh (2018), Malta trở thành thủ phủ của tiền ảo như thế nào, truy cập ngày 24/5/2020 từ: https://vietstock. vn/2018/04/malta-tro-thanh-thu-phu-cua-tien-ao-nhu-the-nao-4309-600610.htm 23. Russell, J. (2017), Former Mozilla CEO raises $35M in under 30 seconds for his browser startup Brave, Retrieved on January 10, 2020, from: https://techcrunch.com/2017/06/01/brave-ico-35-million-30-seconds-brendan-eich/ 24. Statista (2020), Number of Blockchain wallet users worldwide from 3rd quarter 2016 to 1st quarter 2020, retrieved on April 29, 2020, from: https://www.statista.com/statistics/647374/worldwide-blockchain-wallet-users/ 25. The Legal Library of Congress (2018), Regulation of Cryptocurrency Around the World, retrieved on April 20, 2020, from: https://www.loc.gov/law/help/cryptocurrency/index.php 26. Dữ liệu phân tích được thu thập từ các trang: https://coinmarketcap.com ; https://www.statista.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_cua_tien_ma_hoa_trong_nen_kinh_te_va_goi_y_chinh_sa.pdf
Tài liệu liên quan