Bước 1: đơn vị được giao tổ chức
đấu giá QSDĐ căn cứ vào phương pháp xác
định giá khởi điểm, tính toán giá khởi điểm
và trình cơ quan tài chính có thẩm quyền để
thẩm định (Phòng Tài chính- Kế hoạch cấp
huyện hoặc Sở Tài chính).
- Bước 2: UBND cấp có thẩm quyền
căn cứ vào văn bản đề nghị của cơ quan tài
chính phê duyệt hoặc yêu cầu điều chỉnh giá
khởi điểm.
- Bước 3: Trên cơ sở văn bản của cơ
quan tài chính và UBND có thẩm quyền,
Hội đồng đấu giá QSDĐ xác định và công
bố giá khởi điểm đấu giá QSDĐ thửa đất sẽ
đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp xác định
lại giá khởi điểm thì nguyên tắc, trình tự
thẩm quyền xác định lại giá khởi điểm thực
hiện như quy định đối với việc xác định giá
khởi điểm lần đầu. Trường hợp phải xác
định lại giá khởi điểm trong trường hợp sử
dụng phương pháp hệ số điều chỉnh, Sở Tài
chính chủ trì xác định lại hệ số điều chỉnh,
trình UBND cấp tỉnh quyết định theo quy
định để làm căn cứ xác định lại giá khởi
điểm21.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề xác định giá khởi điểm trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1 Điều 53 Hiến pháp năm 2013.
VÊËN ÀÏÌ XAÁC ÀÕNH GIAÁ KHÚÃI ÀIÏÍM
TRONG HOAÅT ÀÖÅNG ÀÊËU GIAÁ QUYÏÌN SÛÃ DUÅNG ÀÊËT
Trần Thụy Quốc Thái*
Trần Vang Phủ**
* GV Khoa Luật, Đại học Cần Thơ.
**GV Khoa Luật, Đại học Cần Thơ.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: đấu giá, quyền sử
dụng đất, giá khởi điểm, luật
đất đai
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 30/03/2016
Biên tập: 10/04/2017
Duyệt bài: 12/04/2017
Article Infomation:
Keywords: auction, land use
rights, reserve price, land
law.
Article History:
Received: 30 Mar. 2016
Edited: 10 Apr. 2017
Approved: 12 Apr. 2017
Tóm tắt:
Giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất
(QSDĐ) là một chế định tiến bộ, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước (NSNN). Chế định này góp phần không nhỏ trong việc minh bạch hóa
và lành mạnh hóa thị trường bất động sản (BĐS). Sau một thời gian áp dụng,
bên cạnh những ưu điểm nổi bật thì hoạt động giao đất, cho thuê đất thông
qua hình thức đấu giá QSDĐ cũng gặp phải không ít bất cập, khó khăn, như
thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, một số văn bản hướng dẫn thi hành chồng
chéo, mâu thuẫn nhau về nội dung, đặc biệt là trong việc xác định giá khởi
điểm QSDĐ để tổ chức đấu giá Bài viết phân tích chế định về xác định
giá khởi điểm QSDĐ trong đấu giá QSDĐ và kiến nghị một số giải pháp.
Abstract:
The allocation or lease of land use rights through auctions is a progressive
provision, which provides large revenues to the state budget. This provision
also brings significant contribution to the healthy and transparent real estate
market. Over a period of implementation, along with the outstanding
advantages, the auction of land-use right has witnessed several difficulties,
such as lack of enforcement guidelines or some documents guiding the
implementation of overlapping or even thought contradictory of contents,
especially in determining the reserve price for auction of land use right, etc.
This article is to analyze the regulations on the reserve price of land use right
for auction and propose recommendations for improvements.
1. Khái niệm và vai trò của đấu giá quyền sử dụng đất
1.1. Khái niệm đấu giá QSDĐ
Pháp luật nước ta quy định: Đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý1. Thực hiện quyền chủ sở hữu, Nhà nước trao
QSDĐ cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất2. Theo quy định của pháp luật dân sự, tài
sản được phép giao dịch gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản; tài sản bao
gồm BĐS và động sản3. Trong đó, BĐS bao
gồm đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn
liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà, công trình xây dựng, các tài sản khác
gắn liền với đất đai và các tài sản khác do
pháp luật quy định; còn động sản là những
tài sản không phải là BĐS.
QSDĐ là một quyền tài sản. Theo Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2005 thì “Quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có
thể chuyển giao trong giao dịch dân sự” và
“Quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”4. Đấu
giá tài sản là một trong những cách thức
chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này
sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán
trao đổi hàng hoá nói riêng phát triển một
cách đa dạng. Quan niệm truyền thống về
đấu giá là việc mua bán hàng hoá (tài sản)
công khai mà những người mua sẽ trả giá từ
giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người
bán đấu giá đồng ý bán.
Dưới góc độ của quan hệ pháp luật
dân sự, bán đấu giá có thể hiểu là hình thức
bán đặc biệt để người mua tự trả giá, không
thấp hơn giá trị thấp nhất do người bán quy
định. Ai trả giá cao nhất sẽ mua được. Bán
đấu giá có thể được thực hiện dưới hình thức
tất cả người mua được trả giá một lần thông
qua hình thức bỏ phiếu kín hoặc những
người mua được phép trả nhiều lần công
khai trong một khoảng thời gian xác định.
Như vậy, có thể hiểu bán đấu giá tài
sản như sau: Bán đấu giá tài sản là một hình
thức mua bán công khai và được tổ chức
dưới hình thức cụ thể theo quy định của
pháp luật; do người bán đấu giá điều khiển,
nhằm mục đích bán tài sản ở giá cao nhất,
người trả giá cao nhất cho tài sản là người
mua được tài sản bán đấu giá.
Theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu
giá tài sản là hình thức bán công khai một
tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều
người muốn mua tham gia trả giá, người trả
giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi
điểm là người mua được tài sản”5.
Theo Quy chế bán đấu giá tài sản ban
hành kèm theo Nghị định số 86/CP ngày
19/12/1996 của Chính phủ thì bán đấu giá
là hình thức bán tài sản công khai mà có
nhiều người muốn mua tham gia trả giá theo
thủ tục được quy định tại Quy chế này;
người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá
khởi điểm là người được mua tài sản bán
đấu giá đó.
Theo Quyết định số 22/2003/QĐ-
BTC ngày 18/02/2003 của Bộ Tài chính,
đấu giá QSDĐ là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền lựa chọn chủ đầu tư, là các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
để giao QSDĐ (hoặc cho thuê đất) bằng
hình thức đấu giá công khai nhằm mục đích
huy động nguồn vốn để đầu tư xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn các
quận huyện và thành phố.
Theo Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản, bán đấu giá tài sản là hình thức
bán tài sản công khai, có từ hai người trở
lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ
tục được quy định tại Nghị định này.
Theo Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
2 Điều 17 Luật Đất đai năm 2013.
3 Điều 163 và Điều 174 BLDS năm 2005.
4 Điều 181 và Điều 192 BLDS năm 2005.
5 Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 31.
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
ngày 04/3/2010 của Chính phủ thay thế
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu
giá tài sản, thì bán đấu giá tài sản là hình
thức bán tài sản công khai, có từ hai người
trở lên tham gia đấu giá và tuân theo
nguyên tắc và trình tự thủ tục quy định tại
Nghị định này. Phương thức trả giá lên là
phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến
khi có người trả giá cao nhất.
Căn cứ quy định của pháp luật đất đai,
Nhà nước giao đất, cho thuê đất là việc Nhà
nước thực hiện chuyển QSDĐ6 thông qua
hình thức đấu giá QSDĐ7 công khai có
nhiều người tham gia trả giá và người nào
trả giá cao nhất là người nhận được QSDĐ.
Từ các nội dung đã nêu trên, ở mức độ
khái quát thì: đấu giá QSDĐ trong trường
hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng
đất, cho thuê đất là phương thức chuyển
giao QSDĐ, được tổ chức công khai giữa
một bên là chủ thể có thẩm quyền giao đất,
cho thuê đất8 với một bên là chủ thể có nhu
cầu sử dụng đất9. Theo đó, chủ thể sử dụng
đất muốn được nhận QSDĐ tham gia trả giá
từ thấp đến cao theo trình tự, thủ tục luật
định. Chủ thể sử dụng nào trả giá cao nhất
và ít nhất bằng giá khởi điểm là người nhận
được QSDĐ.
1.2. Vai trò của đấu giá QSDĐ đối
với hoạt động quản lý, sử dụng đất
Giao đất, cho thuê đất theo hình thức
đấu giá QSDĐ là một trong những giải pháp
quan trọng được quy định trong Luật Đất đai
năm 2003 và được kế thừa trong Luật Đất
đai năm 2013 nhằm đảm bảo tính công khai,
minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai.
Đấu giá QSDĐ có những vai trò sau:
Thứ nhất, đấu giá QSDĐ góp phần
vào việc tăng nguồn thu NSNN
Khi QSDĐ được coi là tài sản đặc
biệt, được tạo điều kiện thuận lợi để tham
gia thị trường BĐS, được đưa ra đấu giá thì
giá trị từ QSDĐ đã góp phần quan trọng,
chiếm một tỷ lệ lớn trong nguồn thu NSNN.
Nguồn thu từ đất đai bao gồm: thuế thu nhập
từ chuyển QSDĐ; thuế sử dụng đất nông
nghiệp; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
tiền sử dụng đất; tiền cho thuê đất; phí và lệ
phí trong quản lý sử dụng đất đai. Hàng
năm, nguồn thu từ đất đai đóng góp vào
NSNN rất lớn, đặc biệt là số thu từ tiền sử
dụng đất khi Nhà nước giao đất cho tổ chức,
cá nhân. Ví dụ năm 2014, trong tổng thu nội
địa trừ dầu thô là 580.100 tỷ đồng, thì nguồn
thu từ tiền sử dụng đất đóng góp tới 45.700
tỷ đồng. Theo dự toán năm 2015, thu từ thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp chỉ có 1.330 tỷ
đồng, thuế sử dụng đất nông nghiệp 33 tỷ
đồng, thu tiền cho thuê đất 6.422 tỷ đồng và
số thu từ thuế trước bạ, thuế thu nhập cá
nhân từ hoạt động chuyển nhượng QSDĐ
cũng không lớn, trong khi thu từ tiền sử
dụng đất lên tới 39.405 tỷ đồng10.
Thứ hai, đấu giá QSDĐ tạo điều kiện
cho thị trường BĐS phát triển
Thị trường BĐS là thị trường mà ở đó
đối tượng đưa ra trao đổi, mua bán là BĐS,
bao gồm QSDĐ và nhà ở, các công trình gắn
liền với đất đã hình thành và phát triển với
tốc độ nhanh. Nghị quyết Đại hội lần thứ X
của Đảng xác định: “Phát triển thị trường
BĐS, bao gồm thị trường QSDĐ và BĐS
gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở
thành nguồn vốn cho phát triển, góp phần
6 Điều 17 Luật Đất đai năm 2013.
7 Khoản 1 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013.
8 Điều 59 Luật Đất đai năm 2013.
9 Điều 55 và Điều 56 Luật Đất đai năm 2013.
10 Trang Địa ốc online, Nên thu toàn bộ tiền sử dụng đất vào NSNN,
c18/nen-thu-toan-bo-tien-su-dung-dat-vao-nsnn-i53395, truy cập ngày 24/4/2015.
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
vào công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước”11. Do vậy, thị trường QSDĐ có ảnh
hưởng rất lớn đến thị trường BĐS. Đấu giá
QSDĐ sẽ tạo ra mặt bằng giá thị trường
công khai, minh bạch.
Có nhiều phương thức để xác lập giá
thị trường của một thửa đất nhưng cách tốt
nhất là thông qua đấu giá. Các doanh nghiệp
thẩm định giá, các cơ quan nhà nước khi
thực hiện việc xác định giá, thẩm định giá,
quyết định giá đất, căn cứ được coi là đáng
tin cậy nhất vẫn là đất thông qua đấu giá.
Với quy định thông báo đấu giá rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu sẽ nghiên cứu, so
sánh, cân nhắc để đưa ra giá cả phù hợp.
Khi hình thức đấu giá được áp dụng
một cách rộng rãi, mặt bằng giá sẽ được xác
lập cho thị trường, góp phần giải bài toán về
việc xác định giá đất phù hợp với giá thị
trường đang có nhiều bàn cải hiện nay.
Đấu giá QSDĐ tạo điều kiện cho việc
thực hiện các giao dịch chính thức về QSDĐ
giữa chủ thể có QSDĐ (Nhà nước và các tổ
chức, cá nhân đã được giao QSDĐ) và
người có nhu cầu sử dụng đất (các tổ chức
và cá nhân) trong thị trường QSDĐ, đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý cho người sử
dụng đất trong quá trình sử dụng. Theo đó,
QSDĐ được dịch chuyển theo hướng đến
trực tiếp với người có nhu cầu sử dụng đất.
Thứ ba, đấu giá QSDĐ tạo sự công
bằng, minh bạch trong hoạt động giao đất,
cho thuê đất
Việc Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất là một hình thức áp dụng thì việc
Nhà nước cho thuê đất theo hình thức đấu
giá là trường hợp đặc biệt. QSDĐ trong
trường hợp này sẽ được trao cho chủ thể sử
dụng đất đáp ứng được các điều kiện theo
quy định và trả giá cao nhất hay ít nhất là
bằng giá khởi điểm thì người đó được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho
thuê đất. Với việc phải niêm yết, thông báo
công khai thông tin về thời gian, địa điểm,
QSDĐ đấu giá, các tổ chức, cá nhân có nhu
cầu sử dụng đất, đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật đều có cơ hội tham gia. Trên
thực tế, có thể vẫn có những vấn đề trong
đấu giá như hiện tượng thông đồng, dàn xếp
đấu giá dưới hình thức “quân xanh, quân
đỏ” song không thể phủ nhận những ưu
thế của phương thức này. Việc có nhiều
người tham gia vào cuộc bán đấu giá được
tổ chức công khai, cơ chế “xin - cho” trong
việc giao QSDĐ sẽ dần bị hạn chế áp dụng
và loại bỏ.
Thứ tư, đấu giá QSDĐ là một điều
kiện để lựa chọn nhà đầu tư có năng lực về
kỹ thuật và tài chính
Thông qua đấu giá với các điều kiện
ràng buộc chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ,
và việc nhiều đối tượng có cơ hội tiếp cận,
đăng ký tham gia sẽ cho phép cơ quan nhà
nước có thẩm quyền lựa chọn được nhà đầu
tư có năng lực đáp ứng yêu cầu, có giải
pháp kỹ thuật tốt nhất cho dự án và tình
hình tài chính lành mạnh để thực hiện dự
án. Với yếu tố mặt bằng sẵn có, dự án sẽ
được triển khai thuận lợi, đúng tiến độ, đem
lại lợi ích cho cả Nhà nước, nhà đầu tư và
xã hội. Điều này sẽ hạn chế được tình trạng
dự án không triển khai hoặc đất bỏ hoang
không được đưa vào sử dụng đang diễn ra
tại một số địa phương.
2. Xác định giá khởi điểm trong hoạt
động đấu giá quyền sử dụng đất
2.1. Nguyên tắc xác định giá khởi
điểm
Thứ nhất, giá đất được xác định để
tính giá khởi điểm đấu giá QSDĐ phải căn
cứ vào giá đất phổ biến trên thị trường tại
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
41
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
thời điểm đấu giá QSDĐ. Giá đất phổ biến trên thị trường12 là mức giá xuất hiện với tần suất
nhiều nhất trong các giao dịch chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá QSDĐ, giá đất
xác định từ chi phí, thu nhập của các thửa đất có cùng mục đích sử dụng tại một khu vực và
trong một khoảng thời gian xác định13.
Thứ hai, giá đất được xác định để tính giá khởi điểm là giá được xác định theo mục
đích sử dụng của thửa đất đấu giá14.
2.2 Phương pháp xác định giá khởi điểm
Tuỳ theo từng phương thức giao đất, cho thuê đất là trả tiền một lần cho cả thời gian
thuê hoặc trả tiền thuê đất hàng năm mà việc xác định giá đất khởi điểm để tính đấu giá
QSDĐ có sự khác nhau, cụ thể15:
i) Giá khởi điểm đấu giá QSDĐ để giao đất có thu tiền sử dụng đất được xác định như
sau:
Giá khởi điểm Diện tích đất Giá đất
đấu giá QSDĐ (đồng) = (m2) x cụ thể (đồng/m2)
Trong đó:
- Diện tích đất là diện tích đất tính thu tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
thu tiền sử dụng đất;
- Giá đất cụ thể là giá đất của mục đích sử dụng đất đấu giá được xác định theo quy
định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính.
ii) Giá khởi điểm đấu giá QSDĐ để cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời
gian thuê được xác định như sau:
Giá khởi điểm Diện tích đất Giá đất
đấu giá QSDĐ = (m2) x cụ thể
(đồng) (đồng/m2)
Trong đó:
- Diện tích đất là diện tích đất tính thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê theo
quy định của pháp luật về thu tiền thuê đất;
- Giá đất cụ thể là giá đất của mục đích sử dụng đất đấu giá có cùng thời hạn được xác
định theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
iii) Giá khởi điểm đấu giá QSDĐ để cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm được xác
định như sau:
Giá khởi điểm
đấu giá QSDĐ (đồng)
= Diện tích đất (m2) x Đơn giá khởi điểm (đồng/m2)
Trong đó:
- Diện tích đất là diện tích đất tính thu tiền thuê đất hàng năm theo quy định của pháp
luật về thu tiền thuê đất.
- Đơn giá khởi điểm được xác định như sau:
Đơn giá khởi Giá đất tính tiền Mức tỷ lệ (%)
điểm (đồng/m2)
=
thuê đất (đồng/m2)
x
đơn giá thuê đất
12 Điều 3 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP.
13 Điều 3 Thông tư số 48/2012/TT-BTC.
14 Lưu ý: trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì giá đất được xác định theo mục đích sử dụng hợp pháp tại thời
điểm Nhà nước thu hồi đất chứ không phải mục đích sẽ sử dụng sau này.
42
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
- Giá đất tính tiền thuê đất là giá đất
của mục đích sử dụng đất đấu giá được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông
tư số 02/2015/TT-BTC;
- Mức tỷ lệ (%) để tính đơn giá thuê
đất do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) quy định cụ thể theo từng
khu vực, tuyến đường tương ứng với từng
mục đích sử dụng đất theo quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 4 Nghị định số 46/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Một vấn đề cần lưu ý là theo quy định
tại các điểm b và c khoản 4 Điều 114 Luật
Đất đai năm 201316 thì “giá đất cụ thể không
được sử dụng để làm căn cứ tính tiền sử
dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền
thông qua hình thức đấu giá QSDĐ hoặc
cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá
QSDĐ”. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 15
Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của Chính
phủ lại quy định giá đất cụ thể là căn cứ để
xác định giá khởi điểm đấu giá QSDĐ khi
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất,
cho thuê đất thu tiền một lần đối với cả thời
gian thuê và sau đó quy định này được
hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số
02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính17.
Bất cập trong quy định về xác định giá
đất khởi điểm trong đấu giá QSDĐ khi Nhà
nước giao đất, cho thuê đất dẫn đến tình
trạng có địa phương định giá đất căn cứ vào
bảng giá do UBND cấp tỉnh ban hành, căn
cứ vào mục đích sử dụng hợp pháp tại thời
điểm định giá hay căn cứ vào mục đích sẽ
sử dụng của thửa đất, giá chuyển nhượng
thực tế ở địa phương tại thời điểm định giá.
Cũng chính sự quy định không rõ ràng này
nên nhiều trường hợp khi áp dụng trong thực
tế, các cơ quan có thẩm quyền đã gặp rất
nhiều lúng túng, thậm chí quan điểm giữa
các cơ quan trái ngược nhau.
i) Việc định giá đất khởi điểm cần căn
cứ vào giá đất do UBND cấp tỉnh quy định.
Tâm lý người mua thường dựa vào mức giá
khởi điểm và muốn mua được giá thấp,
người bán thì muốn bán được giá cao nhất.
Do đó, cần phải định giá đất trên cơ sở bảng
giá của Nhà nước. Về nguyên tắc, bảng giá
đất do UBND cấp tỉnh ban hành phải phù
hợp với giá đất phổ biến trên thị trường18 và
bảng giá này đã cân đối lợi ích của nhiều
bên trong quan hệ tài chính về đất. Nếu việc
định giá không theo nguyên tắc này sẽ ảnh
hưởng đến giá trị tài sản được đấu giá và
quyền lợi của các bên liên quan. Mặt khác,
khi căn cứ vào bảng giá đất của UBND cấp
tỉnh để định giá, trường hợp có tình huống
phát sinh liên quan đến vấn đề giá trong quá
trình đấu giá thì việc xử lý các tình huống
này sẽ thuận lợi hơn. Ngoài ra, việc định giá
đất chỉ là tạm thời xác định giá QSDĐ, còn
giá QSDĐ thực tế sẽ là giá bán đấu giá
QSDĐ được xác định trong phiên đấu giá.
ii) Việc xác định giá đất không cần
thiết phải định giá đất mà giá đó hoàn toàn
do thị trường quyết định vì bản thân đấu giá
là thị trường mà trong đó người mua đặt giá
cho hàng hoá chứ không phải đơn thuần trả
giá theo công bố của người bán. Mặt khác,
giá đất do thị trường quyết định sẽ đảm bảo
tính công khai, minh bạch và cạnh tranh lành
mạnh giữa các chủ thể tham gia đấu giá.
15 Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
16 Các điểm b và c khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 giá đất cụ thể chỉ áp dụng:
“b) Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá QSDĐ;
công nhận QSDĐ, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền sử dụng đất;
c) Tính tiền thuê đất đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá QSDĐ.”
17 Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP và khoản 2 Điều 1 Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
18 Điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai năm 2013.
43
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Bên cạnh đó, việc xác định lại giá
khởi điểm trong trường hợp giá khởi điểm
cao dẫn đến bán đấu giá không thành thì cơ
quan được giao xử lý đấu giá QSDĐ báo cáo
Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết
định việc xác định lại giá khởi điểm để tổ
chức đấu giá lại. Nguyên tắc xác định lại giá
khởi điểm được thực hiện như quy định đối
với việc xác định giá khởi điểm lần đầu.
2.3 Thẩm quyền, trình tự xác định
giá khởi điểm19
- Thẩm quyền xác định giá khởi điểm:
i) Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định
giá khởi điểm đấu giá QSDĐ để giao đất có
thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất;
ii) Căn cứ tình hình thực tế tại địa
phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh ủy quyền
hoặc phân cấp cho Giám đốc Sở Tài chính,
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định giá
khởi điểm đấu giá QSDĐ theo thẩm quyền.
- Trình tự xác định giá khởi điểm:
Cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì
đấu giá QSDĐ có trách nhiệm gửi hồ sơ đề
nghị xác định giá khởi điểm tới Sở Tài chính
(trong trường hợp giá khởi điểm do Chủ tịch
UBND cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính
quyết định) hoặc Phòng Tài chính - Kế
hoạch (trong trường hợp giá khởi điểm do
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định).
Căn cứ vào diện tích đất tính thu tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất và các tài liệu khác
do cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì đấu
giá QSDĐ cung cấp20, Sở Tài chính (trong
trường hợp giá khởi điểm do Chủ tịch
UBND cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính
quyết định) hoặc Phòng Tài chính - Kế
hoạch (trong trường hợp giá khởi điểm do
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định) có
trách nhiệm xác định giá khởi điểm đấu giá
QSDĐ theo quy định tại Điều 3 và khoản 2
khoản 3 Điều 4 Thông tư số 02/2015/TT-
BTC của Bộ Tài chính trong thời hạn 10
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đủ hồ
sơ đề nghị xác định giá khởi điểm để trình
cấp có thẩm quyền quyết định.
Theo quy định tại Thông tư số
02/2015/TT-BTC thì thẩm quyền phê duyệt
giá khởi điểm tại Điều 5 Thông tư số
48/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính được
quy định như sau: Chủ tịch UBND cấp tỉnh
quyết định giá khởi điểm đấu giá QSDĐ để
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho
thuê đất. Căn cứ tình hình thực tế tại địa
phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thể ủy
quyền hoặc phân cấp cho Giám đốc Sở Tài
chính, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết
định giá khởi điểm đấu giá QSDĐ theo thẩm
quyền. Cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì
đấu giá QSDĐ có trách nhiệm gửi hồ sơ đề
nghị xác định giá khởi điểm tới Sở Tài chính
(trong trường hợp giá khởi điểm do Chủ tịch
UBND cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính
quyết định) hoặc Phòng Tài chính - Kế
hoạch (trong trường hợp giá khởi điểm do
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định).
Theo quy định trên thì cơ quan tài
chính sẽ có trách nhiệm xác định giá khởi
điểm trình UBND cấp có thẩm quyền quyết
định.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 9
Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-
BTNMT-BTP của Bộ Tài nguyên - Môi
trường và Bộ Tư pháp thì: “Căn cứ quyết
định đấu giá QSDĐ, Sở Tài nguyên và Môi
trường tổ chức thực hiện việc xác định giá
khởi điểm của thửa đất đấu giá (gồm giá đất,
hạ tầng kỹ thuật, tài sản gắn liền với đất nếu
có) theo quy định của pháp luật và trình
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh)
19 Khoản 4 Điều 1 Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
20 Gồm hồ sơ về tài sản gắn liền với đất và các hồ sơ khác như bảng giá đất, mức tỷ lệ (%) để tính đơn giá thuê đất, hệ
số điều chỉnh giá đất, mức (%) để tính đơn giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, mức thu cụ thể đất có mặt nước.
44
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
phê duyệt Căn cứ hồ sơ trình của Sở Tài
nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh thực
hiện phê duyệt giá khởi điểm của thửa đất
đấu giá”.
Với sự thiếu thống nhất giữa các văn
bản hướng dẫn nêu trên, việc xác định giá
khởi điểm trong đấu giá QSDĐ sẽ gây khó
khăn cho quá trình tổ chức đấu giá QSDĐ
tại địa phương. Mặt khác, ngày 08/6/2015,
Bộ Tài chính đã ban hành văn bản số
7519/BTC-QLCS về việc xác định giá khởi
điểm để đấu giá QSDĐ đã nêu rõ: Việc xác
định giá khởi điểm để đấu giá QSDĐ khi
Nhà nước giao đất theo quy định của Luật
Đất đai năm 2013 thực hiện thống nhất theo
Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-
BTNMT-BTP quy định Sở Tài nguyên và
Môi trường tổ chức thực hiện việc xác định
giá khởi điểm của thửa đất đấu giá trình
UBND cấp tỉnh phê duyệt nhưng không quy
định rõ cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định
phương án giá khởi điểm. Nội dung này
không thống nhất với quy định tại khoản 3
Điều 114 Luật Đất đai năm 2013: “cơ quan
quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm
định giá đất xem xét trước khi trình UBND
cùng cấp quyết định”.
Như vậy, có thể nói, đến thời điểm
này, các văn bản hướng dẫn về việc xác định
giá khởi điểm để đấu giá QSDĐ khi Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho
thuê đất chưa đồng bộ nên việc áp dụng để
tổ chức đấu giá QSDĐ tại địa phương gặp
nhiều vướng mắc, khó khăn khi thực hiện.
Căn cứ vào quy định của pháp luật có
liên quan và thực tiễn thực hiện xác định giá
khởi điểm đấu giá QSDĐ, chúng tôi tóm
lược trình tự và thẩm quyền xác định giá
khởi điểm QSDĐ như sau:
- Bước 1: đơn vị được giao tổ chức
đấu giá QSDĐ căn cứ vào phương pháp xác
định giá khởi điểm, tính toán giá khởi điểm
và trình cơ quan tài chính có thẩm quyền để
thẩm định (Phòng Tài chính- Kế hoạch cấp
huyện hoặc Sở Tài chính).
- Bước 2: UBND cấp có thẩm quyền
căn cứ vào văn bản đề nghị của cơ quan tài
chính phê duyệt hoặc yêu cầu điều chỉnh giá
khởi điểm.
- Bước 3: Trên cơ sở văn bản của cơ
quan tài chính và UBND có thẩm quyền,
Hội đồng đấu giá QSDĐ xác định và công
bố giá khởi điểm đấu giá QSDĐ thửa đất sẽ
đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp xác định
lại giá khởi điểm thì nguyên tắc, trình tự
thẩm quyền xác định lại giá khởi điểm thực
hiện như quy định đối với việc xác định giá
khởi điểm lần đầu. Trường hợp phải xác
định lại giá khởi điểm trong trường hợp sử
dụng phương pháp hệ số điều chỉnh, Sở Tài
chính chủ trì xác định lại hệ số điều chỉnh,
trình UBND cấp tỉnh quyết định theo quy
định để làm căn cứ xác định lại giá khởi
điểm21.
Tóm lại, việc thiếu quy định của pháp
luật cụ thể trong việc xác định giá khởi điểm
trong đấu giá QSDĐ đã dẫn đến nhiều khó
khăn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
căn cứ để xác định giá đất khởi điểm để đấu
giá QSDĐ vì đây là nội dung quan trọng
trong đấu giá QSDĐ. Vì vậy, chúng tôi kiến
nghị:
Thứ nhất, Điều 117 Luật Đất đai năm
2013 không quy định mức giá tối thiểu (giá
sàn) trong xác định giá trúng đấu giá QSDĐ.
Về nguyên tắc đấu giá QSDĐ theo quy định
hiện hành, người trả giá cao nhất và ít nhất
bằng giá khởi điểm trong phiên bán đấu giá
là người trúng đấu giá. Trường hợp giá khởi
điểm thấp hơn giá đất do UBND cấp tỉnh
quy định mà người trả giá cao nhất cũng
thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định thì
21 Khoản 5 Điều 1 Thông tư số 02/2015/TT-BTC.
45
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
mục đích của việc đấu giá QSDĐ không đạt
được.
Do vậy, việc quy định theo hướng giá
đất trúng đấu giá không được thấp hơn giá
đất do UBND cấp tỉnh quy định trong
trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất
hoặc cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần
hoặc đơn giá thuê đất hiện hành đối với đấu
giá QSDĐ thuê là phù hợp.
Trước đây, khoản 3 Điều 58 Luật Đất
đai năm 2003 quy định “giá trúng đấu giá
QSDĐ không được thấp hơn giá đất do
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quy định”. Chúng tôi đề nghị bổ
sung quy định mức giá tối thiểu (giá sàn)
trong xác định giá trúng đấu giá như đã
quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật Đất đai
năm 2003 vào Điều 117 Luật Đất đai năm
2013. Chúng tôi cho rằng, quy định này là
hợp lý vì vẫn đảm bảo được sự quản lý
thống nhất của Nhà nước đối với đất đai
và quản lý bằng khung giá đất, bảng giá
đất theo Điều 112, Điều 113, Điều 114
Luật Đất đai năm 2013.
Thứ hai, căn cứ quy định tại các điểm
b và c khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai năm
201322 thì giá đất cụ thể không được sử dụng
để làm căn cứ tính tiền sử dụng đất khi Nhà
nước giao đất có thu tiền thông qua hình
thức đấu giá QSDĐ hoặc cho thuê đất thông
qua hình thức đấu giá QSDĐ. Tuy nhiên, tại
khoản 2 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-
CP của Chính phủ lại quy định giá đất cụ thể
là căn cứ để xác định giá khởi điểm đấu giá
QSDĐ khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất, cho thuê đất thu tiền một lần đối
với cả thời gian thuê và sau đó quy định này
được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số
02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính. Do đó,
chúng tôi đề xuất không áp dụng giá cụ thể
để làm căn cứ xác định giá khởi điểm trong
đấu giá QSDĐ như quy định tại khoản 2
Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của
Chính phủ và khoản 2 Điều 1 Thông tư số
02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính với
những cơ sở sau đây:
(i) Hai văn bản nêu trên đã vi phạm
nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất trong áp
dụng pháp luật23.
(ii) Giá đất do UBND cấp tỉnh ban
hành phải đảm bảo nguyên tắc được xác
định tại Điều 112, Điều 113 Luật Đất đai
năm 2013 cũng như quy định tại Nghị định
số 44/2014/NĐ-CP.
UBND cấp tỉnh khi ban hành, điều
chỉnh bảng giá đất phải tuân thủ những
nguyên tắc và phương pháp định giá được
xác định trong Luật Đất đai và các văn bản
hướng dẫn cụ thể. Nếu thừa nhận quy định
giá cụ thể làm căn cứ để xác định giá khởi
điểm trong đấu giá là vô hình trung thừa
nhận giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành
không đúng nguyên tắc xác định giá đất là
phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường
được xác lập là mức giá xuất hiện với tần
suất nhiều nhất trong các giao dịch chuyển
nhượng trên thị trường, trúng đấu giá
QSDĐ, giá đất xác định từ chi phí, thu nhập
của các thửa đất có cùng mục đích sử dụng
tại một khu vực và trong một khoảng thời
gian xác định n
22 Điểm b và c khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 quy định các cách thức áp dụng giá đất cụ thể để tính tiền sử
dụng đất:
“b) Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá QSDĐ;
công nhận QSDĐ, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền sử dụng đất;
c) Tính tiền thuê đất đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá QSDĐ.”
23 Xem khoản 1 Điều 5 và khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: “Trong trường hợp
các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý
cao hơn”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_xac_dinh_gia_khoi_diem_trong_hoat_dong_dau_gia_quyen.pdf