Tóm lại, ứng xử sao cho đẹp lòng
ngƣời nhƣng không thiệt cho mình, đƣợc
sự tin yêu của mọi ngƣời là cả một nghệ
thuật. Điều đó đòi hỏi sự nhảy cảm, tinh tế
trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong
kinh doanh, học tập, lao động cũng nhƣ
trong mọi lĩnh vực khác. Điều này đặc biệt
quan trọng với các bạn sinh viên - lực
lƣợng lao động nòng cốt của đất nƣớc
trong tƣơng lai. Vì vậy, học tập, vận dụng
phƣơng pháp ngoại giao tâm công Hồ Chí
Minh là vô cùng có giá trị, nó hƣớng mỗi
ngƣời chúng ta đến cách ứng xử, đối xử
giữa con ngƣời với nhau bằng sự chân
thành và lòng nhân ái, hƣớng kết quả của
mọi cuộc giao tiếp đến mục đích thân tình,
thành thật và sự tin yêu.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng phương pháp ngoại giao “tâm công” của Hồ Chí Minh trong việc phát triển kỹ năng gây thiện cảm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM SỐ 01 THÁNG 10 NĂM 2013
*ThS. Nguyễn Thị Tƣờng Duy– Khoa LLCT
- Trƣờng ĐH Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM
54
VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP NGOẠI GI O “TÂM CÔNG” CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GÂY THIỆN CẢM
PPLYING HO CHI MINH’ HE RT FOREIGN METHOD IN DEVELOPING
LIKING COMMUNICATIVE SKILL OF STUDENTS
Nguyễn Thị Tƣờng Duy*
TÓM TẮT
Hồ Chí Minh không những là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới mà còn là nhà ngoại
giao tài ba, khéo léo. Trong ngoại giao, Ngƣời sử dụng rất nhiều phƣơng pháp, trong đó nổi bật là phƣơng pháp
ngoại giao tâm công, chính phƣơng pháp này đã giúp Hồ Chí Minh gây đƣợc thiện cảm từ ngƣời đối diện, thậm
chí cảm hoá đƣợc kẻ thù. Vì vậy, học tập và vận dụng phƣơng pháp này trong việc phát triển kỹ năng gây thiện
cảm trong giao tiếp của sinh viên hiện nay là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa.
ABSTRACT
Ho Chi Minh is not only hero of Vietnamese nation and culture famous man in the world but also is talent
diplomat. In diplomacy, he used a lot of medods. In those medods, heart foreign medod is the most salient. Ho
Chi Minh is loved even he also convert his enemy by using that way. So, students apply Ho Chi Minh‟ heart
foreign medod in developing liking communicative skill of them is necessary and meaning today.
1. Truyền thống ngoại giao hòa hiếu của
dân tộc Việt Nam - một trong những
nguồn gốc hình thành phƣơng pháp
ngoại giao tâm công của Hồ Chí Minh
Việt Nam là nƣớc có vị trí quan
trọng trong giao lƣu quốc tế và có vị trí địa
chiến lƣợc đặc biệt ở Đông Nam Á, là cửa
ng đi vào Đông Nam Á nói riêng và
Đông Á nói chung, phía Bắc giáp với
Trung Quốc rộng lớn, phía Tây và Tây
Nam giáp với Lào, Campuchia, phía Đông
và Nam nhìn ra biển Thái Bình Dƣơng. Vị
trí địa lý này tạo điều kiện thuận lợi cho
nƣớc ta tiếp xúc với nhiều quốc gia, dân
tộc khác nhau. Tranh thủ thuận lợi này,
ông cha ta đã không bỏ lỡ những cơ hội để
Việt Nam tiếp xúc với các nƣớc bên ngoài,
với mong muốn bày tỏ tình thân thiện và
tìm kiếm cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên, trong lịch sử, mối quan
hệ giữa dân tộc ta với các dân tộc khác
không phải lúc nào cũng hòa bình, phẳng
lặng. Có những khoảng thời gian rất dài
nƣớc ta bị dân tộc này, dân tộc khác gây
hấn và đem quân xâm lƣợc. Trong hoàn
cảnh đó, cách giải quyết ƣu tiên và xuyên
suốt của ta là chủ trƣơng thƣơng lƣợng,
hoà bình. Và khi xung đột chấm dứt, ta lại
chủ động giao hảo với họ nhằm mục đích
đem lại cuộc sống an bình cho nhân dân.
Phong cách ứng xử này đã trở thành truyền
thống ngoại giao nhân văn, hoà hiếu của
dân tộc ta. Truyền thống quý báu đó đƣợc
thể hiện trƣớc hết ở tƣ tƣởng hòa hiếu,
trọng nhân nghĩa, đề cao sự khoan dung,
độ lƣợng. Đó là triết lý và là bản chất của
ngoại giao truyền thống Việt Nam.
Trong ứng xử, tổ tiên ta rất khéo léo
vận dụng phƣơng châm “nƣớc chảy đá
mòn”, vừa cƣơng lại vừa nhu, cứng rắn
nhƣng rất uyển chuyển, linh hoạt. Trong
quan hệ bang giao cũng vậy, ngƣời Việt
Nam luôn bày tỏ sự hòa hiếu, tôn trọng lẫn
nhau, luôn ứng xử khiêm nhƣờng, nhã
nhặn và mềm dẻo. Ngay cả khi buộc phải
tiến hành chiến tranh để đánh đuổi kẻ thù
bạo ngƣợc, dân tộc ta cũng luôn tìm cách
giải quyết cuộc xung đột bằng con đƣờng
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
55
hòa bình, thƣơng lƣợng. Vì lợi ích lâu dài
của toàn dân tộc, hòa bình cho đất nƣớc và
sự bình yên trong đời sống ngƣời dân, nên
khi cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm của nhân dân ta giành thắng lợi, ông
cha ta vẫn sẵn sàng dâng sớ cầu hòa, thậm
chí còn chịu nhận tƣớc phong của các triều
đại phong kiến phƣơng Bắc. Chẳng hạn,
vào thời Lý, sau khi đánh bại quân Tống ở
sông Nhƣ Nguyệt, Lý Thƣờng Kiệt đã chủ
động cử sứ sang doanh trại giặc đề nghị
giặc hạ chiếu rút lui đại binh về nƣớc thì ta
sẽ lập tức sang “tạ tội” và tu cống. Chủ
trƣơng dùng “biện sĩ bàn hòa” của Lý
Thƣờng Kiệt đã có tác dụng quan trọng
trong việc tạo lập hòa hiếu giữa hai bên.
Việc giữ cho đất nƣớc tạm yên trong
hai mƣơi lăm năm hòa hoãn của nhà Trần
đã thể hiện r tầm vóc và thiện chí hòa hảo
của ngoại giao Đại Việt. Sau ba lần đại
thắng quân Nguyên – Mông lừng lẫy,
chúng ta hoàn toàn có thể đứng trên tƣ thế
của ngƣời chiến thắng, nhƣng nhà Trần đã
kịp thời nhận thức là phải giữ gìn “giang
sơn mãi mãi vững âu vàng” bằng những
hoạt động ngoại giao mềm mỏng. Nhà
Trần chủ động cử sứ giả đi hòa giải, viếng
thăm và chịu cống lễ. Không chỉ trong lần
chiến thắng Nguyên - Mông đầu tiên mà
trong cả ba lần đại thắng đội quân xâm
lƣợc này nhà Trần đều có hành động tƣơng
tự nhƣ vậy. Sự tài tình trong ứng xử ngoại
giao của nhà Trần đã góp phần làm tan rã
hoàn toàn ý đồ xâm lƣợc nƣớc ta của nhà
Nguyên, kết thúc chiến tranh, khôi phục
hòa hiếu giữa hai nƣớc.
Tƣ tƣởng hòa hiếu một lần nữa đƣợc
nêu cao trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn.
Những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa luôn
mong muốn “giữ hòa hiếu cho hai nƣớc,
tắt muôn đời chiến tranh”, cho nên dù
chiến thắng vẻ vang, Lê Lợi vẫn sai ngƣời
sang cầu hòa viếng thăm, tặng vật phẩm để
cốt xây dựng quan hệ bang giao thân thiện
với nhà Minh.
Đến thời Quang Trung – Nguyễn
Huệ, dù quyết tâm “đánh cho sử tri nam
quốc anh hùng chi hữu chủ”[3, tr. 353]
nhƣng trƣớc khi đánh giặc và cả sau khi đã
thắng giặc, Quang Trung đều tính ngay tới
việc giao hiếu với nhà Thanh để dẹp “nỗi
hờn rửa nhục” của họ. Đúc kết lịch sử
bang giao của dân tộc, nhà sử học Phan
Huy Chú khẳng định: “Trong việc trị nƣớc,
hòa hiếu với nƣớc láng giềng là việc lớn,
mà những khi ứng thù thì lại rất quan hệ,
không thể xem thƣờng”[1, tr. 44].
Có thể nói, tinh thần hòa hiếu, yêu
chuộng hòa bình luôn đƣợc thể hiện xuyên
suốt trong quá trình đấu tranh ngoại giao
của ông cha ta mà các thời đại của Lý
Thƣờng Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung,... là
những mốc điển hình. Hòa hiếu luôn là tƣ
tƣởng nhất quán trong phƣơng cách của
nền ngoại giao Việt Nam. Mục đích duy
nhất của hòa hiếu là bảo đảm độc lập dân
tộc, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền
quốc gia và cuộc sống yên bình, hạnh phúc
của nhân dân. Hồ Chí Minh đã tiếp thu
truyền thống quý báu này, làm phong phú
thêm tƣ tƣởng ngoại giao của Ngƣời, đặc
biệt là đó là một trong những nguồn gốc
quan trọng giúp Ngƣời định hình một
phƣơng pháp ngoại giao mang đậm dấu ấn
Hồ Chí Minh - phƣơng pháp ngoại giao
tâm công
2. Phƣơng pháp ngoại giao tâm công của
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là ngƣời kế thừa, vận
dụng sáng tạo có hiệu quả tinh thần hoà
hiếu, trọng nhân nghĩa và khoan dung độ
lƣợng của ngoại giao Việt Nam truyền
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
56
thống. Ngƣời đã phát triển nó lên một tầm
cao mới, định hình một phƣơng pháp ngoại
giao mà chính nghĩa đƣợc đặt làm nòng
cốt, lấy tình thƣơng, lòng độ lƣợng làm sức
mạnh lay động lƣơng tri con ngƣời. Đó là
phƣơng pháp ngoại giao “tâm công”.
Ngoại giao “tâm công” có thể hiểu là
phƣơng pháp ngoại giao “đánh vào lòng
ngƣời”, tức là phƣơng pháp ngoại giao
dùng nhân nghĩa, đạo lý, lẽ phải để thuyết
phục và cảm hóa đối phƣơng, khơi gợi
lòng nhân trong mỗi con ngƣời, gây đƣợc
thiện cảm nơi ngƣời đối thoại.
Sinh thời, trong bất kỳ bài nói hay
bài viết nào của mình, Hồ Chí Minh chƣa
bao giờ nhắc đến cụm từ này. Nhƣng quá
trình hoạt động ngoại giao đầy tính nhân
văn và đầy tình ngƣời của Ngƣời đã định
hình nên một phƣơng pháp ngoại giao mới
mà chúng ta gọi là ngoại giao tâm công.
Nội dung cơ bản của phƣơng pháp
ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh chính là
dựa trên cơ sở của chủ nghĩa nhân văn và
lòng nhân ái giữa con ngƣời với con ngƣời,
hƣớng tới mục tiêu hòa bình, hữu nghị.
Theo Ngƣời: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi
khác, nhƣng có một điều thì dân nào cũng
phải giống nhau. Ấy là dân nào cũng ƣa sự
lành và ghét sự dữ” [4, tr. 351]. Trong hoạt
động cách mạng nói chung hay trong hoạt
động ngoại giao nói riêng và cả trong
những ứng xử đời thƣờng, Hồ Chí Minh
luôn đối xử với mọi ngƣời bằng thái độ
bao dung, bác ái. Riêng với ứng xử ngoại
giao, Ngƣời đặc biệt chú trọng đến yếu tố
nhân nghĩa, thấy đƣợc đây chính là điểm
tƣơng đồng giữa các dân tộc, có tác dụng
thức tỉnh “lƣơng tri nhân loại”, là cơ sở để
tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của quốc tế đối
với cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của dân
tộc Việt Nam. Đọc đáp từ trong buổi chiêu
đãi của Thủ tƣớng Pháp G. Bidault (2-7-
1946), Ngƣời nói: “Chúng ta đều đƣợc
kích thích bởi một tinh thần, triết lý Đạo
Khổng và triết lý phƣơng Tây đều tán
dƣơng một nguyên tắc: kỷ sở bất dục vật
thi ƣ nhân”. Tôi tin rằng trong những điều
kiện ấy, Hội nghị sắp tới sẽ đi đến những
kết quả tốt đẹp” [8, tr. 397]. Trong các
cuộc tiếp xúc đối ngoại, tiếp xúc với mọi
lớp ngƣời ở các cƣơng vị và thuộc các dân
tộc khác nhau, Hồ Chí Minh luôn tạo cho
mọi ngƣời cảm giác gần gũi, thân tình và
họ thƣờng bị thuyết phục không chỉ bởi
nội dung, ngôn ngữ mà chủ yếu là ở thái
độ bình dị, chân thành.
Một khía cạnh nữa của phƣơng pháp
ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh là luôn
tôn trọng ngƣời đối diện, biết khơi dậy
điểm mạnh trong mỗi con ngƣời, biết phân
biệt “bạn, thù”. Suy rộng ra với các dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn phân biệt nhân dân
của nƣớc đi xâm lƣợc với những kẻ cầm
quyền gây chiến. Đối với Hồ Chí Minh,
chỉ những kẻ hiếu chiến, dã man mới là kẻ
thù chính, còn những ngƣời dân vô tội thì
vẫn có thể là bạn của dân tộc Việt Nam,
cho nên ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ của họ là vô cùng cần thiết. Ngƣời đã
khơi dậy đƣợc những tình cảm tốt đẹp của
nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, thuyết phục
họ đứng về phía nhân dân Việt Nam, ủng
hộ nhân dân Việt Nam trong công cuộc
đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất đất
nƣớc. Ngƣời nói: “Nhân dân Pháp có
truyền thống cách mạng tốt đẹp, trƣớc đây
đã ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của
toàn thể nhân dân Việt Nam nay lại tỏ r
sự đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân miền Nam và
cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống
nhất nƣớc Việt Nam trên cơ sở hiệp định
Giơnevơ, nhân dân Việt Nam rất biết ơn
nhân dân Pháp về mối cảm tình đó”[7, tr.
230]. Với nhân dân Mỹ, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chúng tôi không có xích
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
57
mích gì với nhân dân Mỹ, chúng tôi muốn
sống hòa bình và hữu nghị với nhân dân
Mỹ”[5, tr. 117] . Dù quyết liệt chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ và vạch trần tội ác
của chúng, nhƣng đối với nhân dân Pháp,
nhân dân Mỹ tiến bộ, Hồ Chí Minh luôn
khơi dậy niềm tự hào dân tộc của họ, luôn
đánh giá đúng những ƣu điểm và những
cống hiến của họ đối với nhân loại. Ngƣời
nói: “Chúng tôi muốn có những quan hệ
hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà
chúng tôi kính trọng vì nhân dân Mỹ là
một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống
hiến cho khoa học nhất là gần đây đã lên
tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lƣợc
miền Nam Việt Nam”[5, tr. 253].
Để thực hiện phƣơng pháp ngoại giao
hƣớng tới lòng nhân, tranh thủ lòng ngƣời
một cách có hiệu quả, Hồ Chí Minh rất chú
ý tới cách thức thực hiện nó.
Thứ nhất, Ngƣời cho rằng, muốn ngoại
giao thành công thì phải chú ý đến tác
phong, trang phục và phải có kiến thức
chuyên môn. Thật sự, sự lịch lãm, tinh tế
và vốn kiến thức uyên bác là một điểm
mạnh đã đem lại sự thành công cho Hồ Chí
Minh trong mọi hoạt động ngoại giao.
Không phải ngẫu nhiên mà trong vƣờn Phủ
Chủ Tịch, Bác trồng rất nhiều cây ăn trái
và nhiều hoa hồng, Ngƣời luôn tặng hoa
hoặc trái cây cho khách quốc tế khi họ đến
thăm Ngƣời. Còn khi tiếp khách, Ngƣời
không bao giờ quên tặng hoa cho phụ nữ.
Nhà báo Fracoise de Corrèze đã không bao
giờ quên hành động của Hồ Chí Minh: khi
cuộc họp báo năm 1946 kết thúc, nhân trên
bàn có trang trí lọ hoa hồng, Ngƣời đã lấy
một bông hồng tặng chị vì chị là nhà báo
nữ. Tuần báo Regard đã đăng tấm hình ghi
nhận khoảnh khắc đó với lời bình: “ Gần
bốn mƣơi năm đấu tranh cách mạng mà
vẫn lịch thiệp nhƣ thƣờng”[7, tr. 251]. Sau
này, khi hay tin Bác mất, Fracoise de
Corrèze đã ôm bó hồng đến Đại sứ quán ta
ở Paris viếng Bác và khóc nức nở. Đặc
biệt, Hồ Chí Minh đã sử dụng có hiệu quả
vốn tri thức của mình trong quan hệ ngoại
giao. Chẳng hạn, do tận dụng đƣợc ƣu thế
am tƣờng về văn hoá Trung Hoa, truyền
thống trung, tín, lễ, nghĩa mà ngƣời Trung
Quốc rất tự hào, Hồ Chí Minh đã tạo dựng
đƣợc mối quan hệ tốt đẹp với nƣớc láng
giềng to lớn này. Vào ngày sinh lần thứ 74
của Chủ tịch Mao Trạch Đông năm 1967,
trên trang nhất Nhân dân nhật báo đăng bút
tích của Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán “
Kính chúc Mao Chủ Tịch vạn thọ vô
cƣơng”. “ Vạn thọ vô cƣơng” là khẩu hiệu
chung của nhân dân Trung Quốc chúc
tụng, tôn vinh lãnh tụ của mình.
Thứ hai là dùng lý lẽ kết hợp với tình
cảm, cảm hóa trái tim ngƣời đối thoại bằng
tấm lòng nhân hậu, phải bày tỏ sự chân
thành thật sự. Hồ Chí Minh thƣờng dùng
lý lẽ tự nhiên song đầy sức thuyết phục để
khơi gợi tình cảm nhân văn của ngƣời đối
thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải.
Bằng ứng xử nhạy bén, tinh tế và rất mực
khiêm nhƣờng, những lập luận, lẽ phải mà
Hồ Chí Minh nêu ra nếu không cảm hóa
đƣợc lòng ngƣời thì nó cũng khiến cho
ngƣời ta không có lý lẽ nào để phản bác
lại, nếu không làm cho ngƣời ta vui vẻ
chấp nhận thì cũng khiến cho họ không thể
hận thù. Đối với từng đối tƣợng, từ tƣớng
lĩnh cho đến binh lính, Ngƣời luôn tỏ r
thái độ chân tình, mềm mỏng, nhân ái,
thân tình và hữu nghị. Trong điện mừng
gởi Tổng thống De Gaulle (14/7/1967,
Ngƣời viết: “Tôi chân thành cám ơn Ngài
đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam chống xâm
lƣợc Mỹ để bảo vệ quyền dân tộc của mình
theo đúng hiệp nghị Giơnevơ. Chúc tình
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
58
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân
dân Pháp ngày càng phát triển”[7, tr. 232].
Hồ Chí Minh cũng để lại trong lòng binh
lính và sĩ quan Pháp niềm xúc động dạt
dào bằng những cử chỉ giản dị, thân thiện.
Bản thân là chủ tịch nƣớc nhƣng Hồ Chí
Minh sẵn sàng bắt tay với từng sĩ quan
Pháp, bày tỏ lòng biết ơn trang trọng, nồng
hậu của Ngƣời đối với chính phủ và nhân
dân Pháp. Đặc biệt Ngƣời đã khơi gợi
đƣợc tình cảm thân thuộc sâu kín trong
lòng mỗi ngƣời lính Pháp, khiến họ phải
cảm động, bùi ngùi và đánh thức đƣợc
lƣơng tâm của họ. Khi đứng trƣớc sĩ quan,
binh lính Pháp, Hồ Chí Minh đã chuyển
những tình cảm và nguyện vọng của những
ngƣời thân của họ đến với họ bằng những
lời lẽ chân thành: “Tôi cũng xin nói thêm,
thời gian ở Pháp, tôi có dịp đƣợc tiếp xúc
với nhiều ông bố, bà mẹ, những ngƣời chị,
ngƣời vợ cô đơn của những sĩ quan binh
lính Pháp đang làm nhiệm vụ ở Đông
Dƣơng. Họ đều có mong muốn những
ngƣời con, ngƣời chồng của họ mạnh
khỏe, bình yên, sớm trở về để đƣợc đoàn
tụ với gia đình, xây dựng lại quê hƣơng.
Tôi đã hứa với họ khi về đến Việt Nam sẽ
nhanh chóng truyền đạt lại những nguyện
vọng thiết tha của họ tới các bạn”[6,tr. 93].
Lời nói của Ngƣời có sức cảm hóa mạnh
đến mức “một vài khẩu súng tuột khỏi tay
rơi, hàng ngũ đội danh dự của Pháp xáo
động”[6,tr. 192]. Đối với tù binh, Hồ Chí
Minh cũng hết sức độ lƣợng, Ngƣời nói
với tù binh Pháp rằng: “Các bạn thân
mến nhân dân Việt Nam xem các bạn
nhƣ những ngƣời bạn và tìm mọi cách để
cuộc sống các bạn đƣợc tốt hơn”, Ngƣời
còn nhắn nhủ với tù binh châu Phi: “Trong
số các bạn thế nào chẳng có ngƣời còn cha
mẹ già và con nhỏ. Hãy gửi tới họ những
cái hôn thắm thiết của già Hồ”[6,tr. 192].
Thứ ba, để thực hiện thành công
phƣơng pháp ngoại giao “tâm công”, Hồ
Chí Minh luôn bày tỏ sự nhã nhặn; phong
thái giản dị; ngôn từ súc tích, khiêm tốn,
phù hợp với tâm lý, tính cách của từng đối
tƣợng giao tiếp. Ngƣời ứng xử rất linh
hoạt, nhạy bén, phù hợp với từng đối
tƣợng, Bác căn dặn cán bộ ngoại giao cần
có thái độ và cách ứng xử phù hợp với tâm
lý, tính cách của từng đối tƣợng giao tiếp.
Ngƣời luôn căn dặn: “làm ngoại giao thì
phải nhanh trí, biết đối đáp có lý lẽ, buộc
đối phƣơng phải chịu, mới giữ gìn đƣợc
quốc thể” [7, tr. 256]. Tuy nhiên, Ngƣời
cũng nhắc nhở: khi nói và viết phải chú ý
bốn vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau,
đó là: Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai?
Nói, viết để làm gì? Nói, viết nhƣ thế
nào?” [5, tr. 576]. Và yêu cầu: “ chƣa điều
tra, chƣa nghiên cứu, chƣa biết r , chớ nói,
chớ viết”, “ những vấn đề chƣa đƣợc kết
luận, chúng ta cần phải hết sức thận trọng
trong mọi lời nói và việc làm, nếu không
sẽ ảnh hƣởng không tốt”[4, tr. 185].
Tóm lại, tinh thần hoà hiếu, trọng
đạo lý và tình ngƣời của ngoại giao Việt
Nam truyền thống đã thâm nhập và ăn sâu
vào nhà ngoại giao kiệt xuất Hồ Chí Minh.
Nó đƣợc biến hoá huyền diệu thành
phƣơng pháp ngoại giao tâm công mà cho
đến nay những giá trị lung linh của nó
không hề bị thời gian che mờ. Phƣơng
pháp ngoại giao “tâm công” đầy tình ngƣời
này chỉ có thể đƣợc thực hiện một cách tự
nhiên ở Hồ Chí Minh. Những lời lẽ hợp
đạo lý, những lời nói chân thành của
Ngƣời không phải là những hình thức giả
tạo, mà nó xuất phát từ con ngƣời với tấm
lòng nhân ái thật sự, xuất phát từ nguyện
vọng về một nền hòa bình hữu nghị bền
vững và lâu dài cho thế giới. Ngoại giao
tâm công xứng đáng là dấu son đẹp trong
lịch sử ngoại giao Việt Nam.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
59
3. Vận dụng phƣơng pháp ngoại giao
tâm công của Hồ Chí Minh trong việc
phát triển kỹ năng gây thiện cảm trong
giao tiếp cho sinh viên
Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa
con ngƣời với con ngƣời, mà qua đó nảy
sinh sự tiếp xúc tâm lý đƣợc thể hiện ở sự
trao đổi thông tin, sự ảnh hƣởng, sự rung
cảm và sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp trở
thành một vấn đề rộng lớn có ý nghĩa quan
trọng trong khoa học, cuộc sống và sự phát
triển của mỗi cá nhân. Đó là nhu cầu tất
yếu trong đời sống của mỗi con ngƣời,
nhƣng không phải ai trong chúng ta cũng
biết thiết lập cuộc giao tiếp thành công nhƣ
mong đợi mà còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố kỹ năng, trong đó yếu tố gây thiện
cảm là yếu tố quan trọng và quyết định sự
thành công của các cuộc giao tiếp ngay từ
những phút giây gặp gỡ lần đầu tiên. Hồ
Chí Minh là ngƣời thầy vĩ đại và thành
công nhất trong việc gây đƣợc thiện cảm
với ngƣời đối điện, không chỉ với những
ngƣời bình thƣờng mà ngay cả những
ngƣời bên kia chiến tuyến với Ngƣời, đôi
khi có cả những ngƣời là kẻ thù của
Ngƣời. Ngƣời đã sử dụng hiệu quả phƣơng
pháp ngoại giao tâm công mà cho đến nay
việc học tập và vận dụng nó đối với sinh
viên là vô cùng cần thiết đối với việc phát
triển kỹ năng gây thiện cảm trong giao
tiếp.
Môi trƣờng giao tiếp của sinh viên
rất đa dạng, từ gia đình, nhà trƣờng cho
đến xã hội. Trong đó môi trƣờng nhà
trƣờng là nơi sinh viên phải thể hiện sự
tiếp xúc, giao lƣu phổ biến và thƣờng
xuyên nhất. Để có đƣợc sự tin yêu của cha
mẹ, ngƣời thân, bạn bè, thầy cô là điều mà
bất kỳ sinh viên nào cũng mong muốn và
cố gắng đạt đƣợc. Hơn nữa, để tồn tại, phát
triển, làm chủ đƣợc bản thân, làm chủ
đƣợc công việc, thành công trong môi
trƣờng cạnh tranh, nhiều sức ép và tính
cạnh tranh cao thì sinh viên không chỉ cần
có chuyên môn, kiến thức vững vàng (còn
gọi là kỹ năng cứng) mà cần có thêm kỹ
năng mềm. Đây là một hành trang cực kỳ
quan trọng đối với ngƣời lao động trong
thời đại mới. Và kỹ năng gây thiện cảm
trong giao tiếp là một trong những kỹ năng
mềm quan trọng nhất mà sinh viên cần
phải trang bị để có thể nhanh chóng đạt
đƣợc thành công trong học tập, công việc
và trở thành ngƣời có ích cho xã hội.
Tạo đƣợc thiện cảm là điều cần thiết
và khó nhất trong giao tiếp, đòi hỏi phải có
nhiều yếu tố. Vận dụng phƣơng pháp ngoại
giao tâm công của Hồ Chí Minh, để tạo
đƣợc thiện cảm trong giao tiếp, chúng ta
phải chú ý đến nhiều yếu tố.
Trƣớc hết, phải chú ý đến phong
cách ăn mặc và trang phục lịch sự, phù hợp
với không gian, thời gian và đối tƣợng tiếp
xúc. Nó là một thông điệp không lời, ăn
mặc cũng là cách để chuyển tải thông tin.
Luôn gọn gàng, lịch sự thì mới có thể tạo
đƣợc thiện cảm với ngƣời đối thoại, bởi vì
trang phục xuề xoà, luộm thuộm thì khó
tạo đƣợc ấn tƣợng tốt.
Kế đến, lời nói phải tự tin, r ràng,
mạch lạc; phải nắm chắc đƣợc nội dung
mình cần nói và mục đích của cuộc giao
tiếp. Trƣớc cuộc giao tiếp, phải chuẩn bị
vấn đề, chuẩn bị trả lời các câu hỏi: Gặp
ngƣời đó để làm gì? Lý do tại sao gặp mặt?
Mình là ai, ngƣời đối diện là ai? Từ đó suy
ra thực hiện bằng cách nào? Khi nào thì tác
động bằng ngôn ngữ, bằng nội dung nói:
Nói cái gì? Nói những chuyện gì? Hỏi
những câu hỏi gì? Dự định trả lời câu hỏi
nhƣ thế nào?...
Sau nữa, phải biết tôn trọng, khơi gợi
những ƣu điểm, thế mạnh của ngƣời đối
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
60
diện. Ƣớc muốn sâu xa của mỗi ngƣời là
đƣợc khen ngợi, đƣợc tôn trọng và đƣợc
quan tâm. Bất cứ ai, nếu giao tiếp với tinh
thần tin tƣởng và tôn trọng lẫn nhau đều
thấy r ràng hiệu quả giao tiếp sẽ tốt hơn.
Với niềm tin và sự tôn trọng, chúng ta sẽ
trao đổi cởi mở hơn và thẳng thắn hơn với
nhau. Chính vì thế, trong giao tiếp, chúng
ta nên vận dụng linh hoạt, lồng ghép
những lời khen tặng ƣu điểm của ngƣời đối
diện một cách khéo léo. Điều này làm cho
họ cảm thấy gần gũi và quý mến chúng ta
hơn. Tuy nhiên, khen ngợi phải đúng lúc,
đúng chỗ với ý khiêm nhƣờng, tránh tâng
bốc sẽ khiến ngƣời đối thoại cảm thấy khó
chịu và không thiện cảm.
Yếu tố không thể thiếu nữa để gây
đƣợc sự quý mến trong cuộc giao tiếp là
phải hiểu r ngƣời đối thoại cũng nhƣ tìm
hiểu tâm lý, tính cách của họ. Cần phải
hiểu r ngƣời mà chúng ta đang nói
chuyện, họ thích và không thích điều gì.
Chúng ta không thể lấy lòng ngƣời khác
khi không biết họ muốn, cần nghe những
gì. Bởi vì biết nói những điều ngƣời đối
diện muốn nghe là một nghệ thuật trong
ứng xử.
Cuối cùng, để giao tiếp tốt cần phải
biết cách vận dụng cả mặt bên ngoài và
bên trong của hoạt động giao tiếp. Mặt bên
ngoài là những điều có thể thấy đƣợc nhƣ
trang phục, ngôn ngữ, hành vi. Mặt bên
trong chính là những giá trị nội tâm, là sự
hiểu biết, thấu cảm, thông cảm, chia sẻ.
Trong đó, suy cho cùng yếu tố quan trọng
nhất chính là sự chân thành, thân thiện.
Lòng chân thành, sự thành thật là yếu tố
quan trọng nhất giúp chúng ta tạo đƣợc
niềm tin, sự quý mến. Giao tiếp là một
hoạt động mà chúng ta phải đối mặt
thƣờng xuyên, mọi lúc, mọi nơi, từ đơn
giản đến phức tạp, từ gia đình đến xã hội,
từ giao tiếp với một ngƣời đến đám đông.
Để gây thiện cảm trong giao tiếp, điều đầu
tiên chúng ta phải xuất phát từ sự chân
thành và hƣớng đến sự thành thật trong tất
cả những mối quan hệ. Nếu trong giao
tiếp, chúng ta thiếu tinh thần ngay thẳng,
giả dối thì dù vẻ bên ngoài từ hình dáng,
trang phục, lời nói có tốt đẹp đến mấy
cũng đều trở thành vô nghĩa, thậm chí để
lại hậu quả không lƣờng sau cuộc giao
tiếp.
Tóm lại, ứng xử sao cho đẹp lòng
ngƣời nhƣng không thiệt cho mình, đƣợc
sự tin yêu của mọi ngƣời là cả một nghệ
thuật. Điều đó đòi hỏi sự nhảy cảm, tinh tế
trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong
kinh doanh, học tập, lao động cũng nhƣ
trong mọi lĩnh vực khác. Điều này đặc biệt
quan trọng với các bạn sinh viên - lực
lƣợng lao động nòng cốt của đất nƣớc
trong tƣơng lai. Vì vậy, học tập, vận dụng
phƣơng pháp ngoại giao tâm công Hồ Chí
Minh là vô cùng có giá trị, nó hƣớng mỗi
ngƣời chúng ta đến cách ứng xử, đối xử
giữa con ngƣời với nhau bằng sự chân
thành và lòng nhân ái, hƣớng kết quả của
mọi cuộc giao tiếp đến mục đích thân tình,
thành thật và sự tin yêu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện quan hệ quốc tế (2002), Góp
phần t m hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao, Nxb. Lao động, Hà Nội.
2. Vũ Dƣơng Huân (2000), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về ngoại giao, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội.
3. Lịch sử Việt Nam, (1971), Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY
61
6. Nhiều tác giả (2000.), Đánh địch mà
thắng là giỏi, không đánh mà thắng địch
càng giỏi hơn, Nxb. Trẻ, Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
8. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà
tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
9. Huỳnh Văn Sơn (2012), Kỹ năng mềm
cho sinh viên đại học Sư phạm, Nxb. Giáo
Dục, Hà Nội.
10. Huỳnh Văn Sơn (2007), Giáo tr nh
giáo dục kỹ năng sống, Nxb. Giáo Dục, Hà
Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_dung_phuong_phap_ngoai_giao_tam_cong_cua_ho_chi_minh_tro.pdf