Thứ chín, trên cơ sở sắp xếp lại tổ chức bộ máy tiến hành nâng cao chất
lư ng công chức.
-Quy định quyền hạn gắn liền trách nhiệm của từng vị trí làm việc, khắc
phục tình trạng quyền hạn rộng lớn nhưng trách nhiệm không rõ ràng như hiện nay.
- Bổ nhiệm, đề bạt cán bộ ở mọi cấp, mọi ngành cần xuất phát từ hoạt động
thực tiễn để tuyển chọn được người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ
chức của hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các
quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và thường xuyên
kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm giải trình; xây dựng chế tài và xử lý nghiêm
những cơ quan, đơn vị, cá nhân, nhất là người đứng đầu có vi phạm: Kiểm soát57
quyền lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ l nh đạo quản lý b ng luật pháp nghiêm
minh trong lòng chế độ.
Cán bộ công chức dù là lãnh đạo hoặc không lãnh đạo, dù ở cấp nào vi
phạm luật pháp nhà nước và các quy định điều lệ, Cương lĩnh, Nghi quyết của
Đảng, không đủ tư cách ở vị trí công tác đương nhiệm thì tuỳ theo mức độ mà
vĩnh viễn suốt đời không được tuyển dụng, không được bổ nhiệm; bên cạnh việc
thi hành kỷ luật Đảng theo nguyên tắc công bằng đối với mọi chức danh, cần xử
lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
-Thực hiện cải cách tiền lương công chức để đảm công chức toàn tâm toàn ý
làm việc. Thực hiện chế độ trả tiền lương cao cho cán bộ công chức, theo nguyên
tắc “lương cao cho công chức với năng lực và trách nhiệm cao” đồng thời xây dựng
cơ chế để công chức “ không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không muốn
tham nhũng và không cần tham nhũng” như kinh nghiệm của Sigapore.
- Để thực hiện chủ trương mỗi tổ chức, mỗi công chức thực hiện nhiều nhiệm vụ,
những năm trước mắt cần chú trọng việc đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ công chức;
Đồng thời cần nghiên cứu chính sách xã hội để cho công chức hiện nay thôi việc trong
bộ máy quản lý nhà nước được đảm bảo đời sống phù hợp với sự cống hiến của họ.
14 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ công chức ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG
VÀ KHUYẾN NGHỊ
GS.TS. Mai Ngọc Cường
TS. Phạm Thuyên
Tóm tắt: Xuất phát t những bất cập trong tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị và đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay, bài viết đề xuất một số
định hướng sắp xếp lại tổi chức bộ máy của hệ thống chính trị t trung ương đến
địa phương và tinh giảm biên chế. Theo đó, tác giả cho r ng, cần sắp xếp lại hệ
thống văn phòng các cấp: Cấp trung ương còn ba văn phòng, cấp tỉnh, huyện chỉ
còn một văn phòng. Chính phủ h p nhất thành 15 bộ; cả nước sáp nhập thành 20-
25 tỉnh, thành phố, 500 quận, huyện, 10.000 phường;Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị xã hội thiết kế theo hướng có một bộ phận chuyên trách gọn,
chủ yếu là kiêm nhiệm và chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự quản, tự thu, tự
trang trải cho hoạt động, dựa trên sự đóng góp của hội viên; 80% đơn vị sự nghiệp
công lập thực hiện tự chủ về chuyên môn, tổ chức và tài chính; nâng cao chất lư ng
cán bộ công chức cũng như tỷ lệ cán bộ công chức phục vụ công dân, tiến tới 150
người dân/cán bộ công chức.
Từ khoá: Tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị, cán bộ công chức, Việt Nam
1.Thực trạng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay
Trong những năm chuyển sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta quan
tâm đến việc đổi mới và hoàn thiện vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Hiện tại bộ máy quản lý
đất nước của Đảng và hệ thống chính trị nước ta như sau.
1.1. Về tổ chức bộ máy quản lý hành chính của Đảng và hệ thống chính trị các cấp
Tổ chức bộ máy ở nước ta hiện nay gồm bốn hệ thống tổ chức Đảng, tổ chức
nhà nước ở Trung ương, tổ chức chính quyền địa phương, mặt trận tổ quốc Việt
Nam và các các đoàn thể chính trị-xã hội.
Về tổ chức Đảng. ngoài cơ quan lãnh đạo Đảng cấp Trung ương là Ban chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hệ thống tổ chức Đảng gồm có: i) hệ
thống các Đảng bộ, chi bộ (các đảng bộ trực thuộc trung ương như Đảng bộ tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Đảng bộ trực thuộc cấp tỉnh ủy; các đảng bộ, chi
bộ trực thuộc cấp ủy huyện và tương đương);ii) Đảng đoàn Ban cán sự Đảng; iii) 8
cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách cấp ủy các cấp; iv) 4 đơn vị sự nghiệp
45
cấp ủy; v) các ban chỉ đạo; Hội đồng lý luận Trung ương và các ban bảo vệ chăm
sóc sức khỏe. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng số các đầu mối từ Tổng cục, vụ và
tương đương, phòng cấp TW; cơ quan tỉnh ủy và phòng cấp tỉnh, 713 huyện (chưa
kể các phòng ban cấp huyện) là 4.875 đầu mối. (xem bảng 1).
Về hệ thống tổ chức nhà nước ở Trung ương: Bao gồm Quốc hội; Chủ tịch
nước; Chính phủ; Tòa án nhân dân; Viện Kiểm sát nhân dân. Chính phủ nhiệm
kỳ nhiệm kỳ 2011-2016 có 30 cơ quan, gồm: 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ; 8 cơ
quan thuộc Chính phủ. Tổng số đầu mối từ tổng cục và tổ chức tương đương trực
thuộc bộ và cơ quan ngang bộ, Vụ và cục tương đương, Ban và tương đương, các
phòng của VPQH, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng chủ tịch nước, Tòa án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp của 63 tỉnh và 713 huyện là 15.617 đầu mối
(xem bảng 1)
Về tổ chức chính quyền địa phương: hiện nay có 63 tỉnh, thành phố; 713
huyện, quận, thị xã; 11.162 xã phường (với 111.282 thôn, tô dân phố). Theo thống
kê chưa đầy đủ, tổng số các đầu mối cấp tỉnh của Hội đồng nhân dân ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn và đặc thù cấp tỉnh, các ban quản lý KCN, văn
phòng chỉ đạo chống tham nhũng của 63 tỉnh, thành phố là 111.630 đầu mối; Huyện
và số phòng ban và đầu mối cấp huyện là 9.657 đầu mối; cả nước có 11.162 xã.
(xem bảng 1).
Về tổ chức của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội là
Công đoàn, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, được tổ chức từ Trung
ương tới tỉnh, Huyện và cấp cơ sở. Theo thống kê chưa đầy đủ, số đầu mối Vụ,
Phòng cấp trung ương, cấp tỉnh và huyện là 8.831 đầu mối. (xem bảng 1).
Tổng số đầu mối của bộ máy quản lý trong cả nước của hệ thống chính trị
tính từ cấp Tổng cục, Vụ, Cục và tương đương, phòng cấp trung ương, các đơn vị
và số lượng phòng cấp tỉnh và các đơn vị cấp huyện thì tổng đầu mối quản lý của hệ
thống chính trị nước ta 161.825, trong đó tổ chức Đảng có 4.875 đầu mối (chưa kể
các phòng ban cấp huyện), Nhà nước trung ương có 15.670 đầu mối, chính quyền
địa phương cấp tỉnh có 111.630 đầu mối, cấp huyện có 9.657 đầu mối và 11.162 xã
(xem bảng 1).
46
Bảng 1. Tổng số đầu mối của khối hành chính.
Tên đơn vị
Số đầu
mối
1. Tổ chức Đảng: Tổng cục, vụ và tương đương, phòng cấp TW; cơ
quan tỉnh ủy và phòng cấp tỉnh, 713 huyện (chưa kể các phòng ban cấp
huyện)
4.875
2. Nhà nước Trung ương: Các tổng cục và tổ chức tương đương trực
thuộc bộ và cơ quan ngang bộ, Vụ và cục tương đương, Ban và tương
đương, các phòng của VPQH, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng chủ
tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp của 63
tỉnh và 713 huyện
15.670
3. Chính quyền địa phương:
- Hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Cơ quan chuyên môn
và đặc thù cấp tỉnh, các ban quản lý KCN, văn phòng chỉ đạo chống
tham nhũng của 63 tỉnh, thành phố
111.630
- Huyện và số phòng ban và đầu mối cấp huyện 9.657
- Số đơn vị xã 11.162
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội: Số đầu
mối Vụ, Phòng cấp trung ương, cấp tỉnh và 713 huyện của
8.831
Cộng đầu mối 161.825
Nguồn Ban tuyên giáo trung ương, 2017.
1.2. Về đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng số các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài
công lập tính đến thời điểm 31/12/2016 ở nước ta có khoảng 86.000 đơn vị (Chính
phủ,2017) với khoảng 26.652 đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và 59.348 đơn vị sự
nghiệp công lập. Trong số đơn vị sự nghiệp công lập có 2.175 đơn vị thuộc khối cơ
quan Đảng; có 1.109 đơn vị sự nghiệp công thuộc Bộ, ngang bộ, cơ quan trực thuộc
chính phủ; và 56.064 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc địa phương, tỉnh huyện. (Ban
tuyên giáo trung ương, 2017).
Đến năm 2015, cả nước có 30.219 đơn vị sự nghiệp công lập đã được giao tự
chủ tài chính, gồm 1.114 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động (3,7%);
10.827 đơn vị sự nghiệp đảm bảo một phần chi phí hoạt động (35,8%); 18.287 đơn
vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động (60,5%) (Chính phủ,
2017). Theo Bộ Tài chính tính đến hết năm 2016, triển khai cơ chế tự chủ theo Nghị
định số 16/2015/NĐ-CP, Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, Nghị định số 141/2016/NĐ-
47
CP, có 109 đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư;
1.878 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 12.841 đơn vị tự bảo đảm một phần chi
thường xuyên. Các đơn vị còn lại do Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động. (Chính
phủ,2017).
1.3. Về đội ngũ cán bộ công chức.
Tính đến 31/12/2016 tổng số người thực tế hưởng lương, phụ cấp từ Ngân
sách nhà nước là 4.316.422 người (chưa tính quân đội, công an). Cụ thể như bảng 3.
Bảng 2. Tổng số biên chế và ngƣời hƣởng lƣơng từ NSNN trong hệ thống tổ
chức Đảng và hệ thống chính trị hiện nay.
TT Tên đơn vị Biên chế
1 Cán bộ công chức hành chính của cơ quan Đảng và hệ thống chính trị 1.874.606
1.1 CQ Đảng: Tổng cục, vụ và tương đương, phòng cấp TW; cơ
quan tỉnh ủy và phòng cấp tỉnh, 713 huyện (chưa kể các phòng
ban cấp huyện
40.417
1.2 Nhà nước: Các tổng cục và tổ chức tương đương trực thuộc bộ
và cơ quan ngang bộ, Vụ và cục tương đương, Ban và tương
đương, các phòng của VPQH, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng
chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp
của 63 tỉnh và 713 huyện
377.871
1.3 Hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Cơ quan chuyên
môn và đặc thù cấp tỉnh, các ban quản lý KCN, văn phòng chỉ
đạo chống tham nhũng của 63 tỉnh, thành phố
117.230
1.4 Huyện và số phòng ban và đầu mối cấp huyện 78.837
1.5 Số biên chế, người hưởng lương từ NSNN của xã 1.227.806
1.6 Số biên chế trong các đầu mối Vụ, Phòng cấp trung ương, cấp
tỉnh và 713 huyện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và năm tổ
chức chính trị xã hội
32.445
2. Đơn vị sự nghiệp công 2.441.816
.1 Khối sự nghiệp các cơ quan Đảng TW 16.151
2.2 Đơn vị sự nghiệp công của Bộ, ngang bộ cơ quan trực thuộc
chính phủ
268.669
2.3 Đơn vị sự nghiệp công cấp tỉnh, huyện 2.156.996
3 Tổng số cán bộ công chức và ngƣời hƣởng lƣơng từ NSNN 4.316.422
Nguồn Ban tuyên giáo trung ương, 2017
48
2. Những vấn đề đặt trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nƣớc ta
hiện nay.
Thứ nhất, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay chưa phù hợp với
điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, vẫn theo mô hình tổ chức bộ máy thời kỳ
kháng chiến giải phóng đất nước và theo mô hình kế hoạch hoá tập trung; nhìn
chung bộ máy bị cắt cứ, chồng chéo, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Tình trạng song trùng tổ chức giữa các Ban của Đảng với các Bộ ngành tạo
khoảng cách giữa Đảng với Nhà nước, làm giảm hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với
các cơ quan Nhà nước, hệ thống chính trị bị trùng chéo chức năng nhiệm vụ, gia tăng
biên chế và lãng phí nguồn lực để điều hành sự phát triển của đất nước, làm cho chủ
trương chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội.
T trung ương đến tỉnh huyện có quá nhiều văn phòng, tham mưu cho lãnh
đạo các cấp thì ít hoặc chất lượng thấp mà chủ yếu là những công việc sự vụ.
Quá nhiều đầu mối nhiều tầng nấc trung gian trong các bộ, ngành làm tăng
đầu mối quản lý, chồng chéo nhưng vẫn bỏ sót, làm tăng biên chế, tăng gánh nặng
cho NSNN.
Tỉnh, huyện, xã quy mô nhỏ, chia cắt manh mún, vừa tạo ra quá nhiều đầu
mối quản lý, chia nhỏ không gian kinh tế, không phát huy được lợi thế vùng lại làm
tăng sự cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến giảm sức cạnh tranh chung của toàn
nền kinh tế.
Hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội vẫn
được tổ chức như thời kỳ kháng chiến, nằm trong hệ thống chính trị và hưởng lương
từ Ngân sách nhà nước (NSNN), không phù hợp với điều kiện hoạt động cơ chế
kinh tế mới.
Đơn vị sự nghiệp công quá nhiều, lại hưởng lương t NSNN một cách tràn
lan vừa không phù hợp với cơ chế kinh tế mới, vừa là gánh nặng của NSNN.
Thứ hai, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy hành chính nhà
nước mặc dù đã được điều chỉnh, Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện
nguyên tắc: Một việc chỉ do một cơ quan, một người chịu trách nhiệm; những việc
có liên quan đến cơ quan khác thì xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính và cơ
quan phối h p thực hiện bước đầu khắc phục chồng chéo hoặc bỏ trống về chức
năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý, tuy nhiên bộ máy vẫn chưa thật tinh gọn,
đảm bảo hiệu lực và hiệu quả; chưa khắc phục được một cách triệt để những chồng
chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ chế “Chủ
trì, phối h p” trong quản lý nhà nước không những chưa được phát huy mạnh mẽ; hội
49
họp nhiều, quy trình xử lý công việc chậm;... lại còn dẫn đến tình trạng hình thành
thêm nhiều tổ chức phối hợp liên ngành và tình trạng đẩy trách nhiệm quản lý nhà
nước giữa các cơ quan.
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn chưa có sự đổi mới, thích ứng theo
hướng tinh gọn, tập trung hơn vào quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách, giảm bớt
các nội dung mang tính tác nghiệp, quản lý, điều hành trực tiếp. Tổ chức bộ máy
bên trong bộ, cơ quan ngang bộ còn nặng nề, nhiều đầu mối, số đơn vị trực thuộc
tăng lên với nhiều đơn vị có tư cách pháp nhân (198 đơn vị/22 bộ, cơ quan ngang
bộ) dẫn đến tình trạng “Bộ trong bộ”, các lĩnh vực công tác bị chia nhỏ, cắt khúc,
thiếu tính bao quát chung.
Thứ ba, số tỉnh, số huyện, số tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 1976, cả
nước có 38 tỉnh, thành phố thì hiện nay là 2018 là 63 đơn vị. Nếu năm 1993 cả nước
có 560 quận huyện, thị xã thì đến nay có 713 quận huyện thị xã. Nếu năm 1993 cả
nước có và 10032 xã phường thị trấn, thì hiện nay có 11.162 xã phường thị trấn
(Niên giám thống kê Việt Nam). Điều này làm cho địa giới quản lý hành chính ngày
càng bị chia nhỏ, làm gia tăng số đơn vị trong bộ máy tổ chức quản lý, tạo nên sự
cách biệt giữa các địa phương, nhất là cấp tỉnh, xóa đi lợi thế liên kết vùng để khai
thác tiềm năng, thế mạnh của vùng, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, trùng
chéo loại hình sản phẩm trong thu hút đầu tư giữa các địa phương, đồng thời còn
làm tăng số người được hưởng lương từ NSNN.
Thứ tư, đơn vị sự nghiệp công đang đè nặng bộ máy. Mặc dù đến hết năm
2016, cả nước có 57.171 đơn vị sự nghiệp công lập đã được giao tự chủ tài chính
theo các mức độ khác nhau, nhưng số tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
chỉ chiếm 0,21%, số đảm bảo chi thường xuyên chiếm 3,33% và đảm bảo một phần
chi thường xuyên là 22,36%. Ngân sách nhà nước vẫn phải đảm bảo chi thường
xuyên tới 72,67% đơn vị sự nghiệp công lập. ( Chính phủ, 2017).
Thứ năm, về số lư ng cấp phó quá nhiều. Chỉ tính riêng trong tổ chức hành
chính nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện, trong cả nước có 81.492 lãnh đạo
cấp phó từ thứ trưởng đến phó phòng cấp huyện (Ban tuyên giáo trung ương,
2017). Như vậy nếu tổng số công chức hành chính nhà nước là 377.871 người thì
số lãnh đạo cấp phó chiếm khoảng 21%. Xem bảng 3, (Chính phủ, 2017)
50
Bảng 3. Bình quân số lƣợng cấp phó trong các tổ chức hành chính
Các chức danh cấp phó từ trung ương
đến đia phương
Trước
7/2011
Từ
8/2011-
7/2016
Từ 8/2016-
31/12/2016
1.Thứ trưởng và tương đương 5,55 6,14 4,82
2.Phó Tổng cục trưởng và tương đương 2,78 3,22 3,22
3.Phó Cục, Vụ trưởng thuộc Bộ 2,87 2,64 2,58
4.Phó Cục, Vụ trưởng thuộc Tổng cục 2,1 2,31 2,35
5.Phó Giám đốc sở và tương đương 3,00 3,05 3,03
6.Phó Trưởng phòng chuyên môn thuộc sở 1,32 1,46 1,47
7.Phó Trưởng phòng chuyên môn cấp huyện và
tương đương
1,55 1,73 1,75
Nguồn: Chính phủ,2017.
So sánh với một số nước trên thế giới ta thấy rõ ràng tổ chức bộ máy nhà
nước ta hiện nay rất cồng kềnh. Nước ta có diện tích nhỏ hơn Nhật Bản và chỉ gần
bằng 1/29 diện tích nước Mỹ và Trung Quốc, dân số nhỏ hơn Nhật Bản và chưa
bằng 1/3 dân số nước Mỹ và gần bằng 1/15 dân số trung Quốc nhưng bộ máy quản
lý hành chính qúa lớn với nhiều bộ ngành, nhiều tỉnh, thành phố, nhiều cấp phó so
với các nước này (xem bảng 4).
Bảng 4. Diện tích, dân số, đơn vị hành chính và bộ ngành của một số nƣớc.
Quốc gia Diện tích
Dân số
Người
Quy mô nền kinh tế
hiện nay
Số đon vị
hành chính
Chính phủ
Hoa Kỳ 9512,1 nghìn
km2
325 triệu 17.947 tỷ USD 50 tiểu bang 1 Tổng thống
1 Phó tổng thống
15 Bộ trưỏng
14 Thứ trưởng
Trung
Quốc
9.577,3 nghìn
km2
1.371
triệu
10.098 tỷ USD 33 tỉnh và thành
phố đặc thù
1 Thủ tướng
4 Phó thủ tướng
25 Bộ trưởng
50 Thứ trưởng
Nhật Bản 378, 0 nghìn
km2
127 triệu 4.116 tỷ USD 47 tỉnh 1 Thủ tướng
0 Phó thủ tướng
16 Bộ trưởng
16 Thứ trưởng
Việt
Nam
330,9 nghìn
km2
93 triệu 63 tỉnh, thành phố 1 Thủ tướng
5 Phó Thủ tướng
30 Bộ trưởng và
thủ trưởng
135 Thứ trưởng
Nguồn: Tác giả tự tổng h p t các trang mạng
51
Thứ sáu, đội ngũ biên chế ngày càng gia tăng nhưng chất lư ng đội ngũ còn
chưa đáp ứng yêu cầu quản lý, tình trạng cán bộ tham nhũng khá phức tạp ở mọi
cấp mọi ngành mọi lĩnh vực trong hệ thống chính trị nước ta.
Theo kết quả tổng điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành và công bố tháng
12/2012, thì lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước năm 2007 là 804.728
người, thì đến năm 2012 là 942.676 người, tăng 137.948 người sau 5 năm, bình quân
mỗi năm tăng 27.589 người. Có những xã, phường có tới hàng trăm cán bộ được
hưởng lương và trợ cấp từ NSNN, nhưng quản lý kinh tế và xã hội tại xã, phường rất
yếu kém. Nếu tỉnh số người hưởng lương và có tính chất lương từ NSNN đến năm
2016 có tới 11 triệu người (Phạm Chi Lan, 2016). Như thế với số lao động Việt Nam
năm 2016 khoảng 55 triệu người thì cứ 5 người lao động làm việc để nuôi một người
hưởng lương và có tính chất lương từ NSNN.
Đội ngũ biên chế dư thừa những chất lượng cán bộ công chức chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ; năng lực và phẩm chất cán bộ thực thi nhiệm vụ còn thấp. Kỷ
luật không nghiêm. Tiền lương thấp nhưng thu nhập ngoài lương cao đang dẫn đến
tha hóa cán bộ công chức, đặc biệt làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng rộng
hơn, lớn hơn, phức tạp hơn nhưng xử lý còn lúng túng.
Cũng cần nói thêm là trong quản lý nhà nước hiện nay, quyền và trách nhiệm
của cán bộ quản lý nhà nước chưa được xác định một cách tương thích. Hiện tại đang
thiếu cơ chế gắn quyền và trách nhiệm đối với cán bộ, công chức quản lý nhà nước.
Cán bộ quyền rất lớn những trách nhiệm không rõ ràng. Những sai phạm làm tổn hại
đến sự phát triển, đến lợi ích quốc gia, đến nền an ninh quốc phòng của đất nước
cũng chỉ được xử lý bằng “xin lỗi”, bằng “kiểm điểm rút kinh nghiệm”, “bằng phê
bình”, “cảnh cáo”, nhiều lắm là cách chức mà chưa được xử như tội phạm quốc gia.
Do nhiều bất cập của môi trường thể chế, nên các tổ chức quốc tế xếp hạng
thể chế của nước ta là thấp: Năm 2014 xếp thứ 94/144 nước, năm 2015 xếp thứ
85/140 nước (Lê đăng Doanh, 2017)
3. Một số khuyến nghị về đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
từ trung ƣơng đến địa phƣơng; thực hiện giảm biên chế đi đôi với nâng cao
chất lƣợng đội ngũ cán bộ quản lý trong bộ máy quyền lực nhà nƣớc.
Xuất phát từ thực tế bộ máy quyền lực nhà nước hiện nay, từ yêu cầu của đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,
việc khắc phục tình trạng cồng kềnh, trùng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
quyền lực, khắc phục tình trạng dư thừa về số lượng nhưng chất lượng thấp, chưa
52
đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển đất nước của đội ngũ cán bộ trong bộ máy
quyền lực nhà nước đang là vấn đề bức xúc đã đến lúc dứt khoát phải giải quyết.
Chúng tôi cho rằng, để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước
cần có cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước từ trung ương đến
địa phương và thực hiện giảm mạnh biên chế đi đôi với nâng cao chất lượng cán bộ
quản lý nhà nước; coi đó là nhiệm vụ then chốt có tính quyết định cho sự thành
công trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, đưa Việt Nam thành một nước công
nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI. Những nhiệm vụ cụ thể đẩy mạnh của cải
cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương và nâng
cao chất lượng cán bộ quản lý nhà nước là:
Thứ nhất, xây dựng tổ chức bộ máy quản lý đất nước thể hiện quan điểm
Đảng l nh đạo thông qua bộ máy quyền lực Nhà nước.
i) Để Đảng thông qua bộ máy quyền lực nhà nước, gắn chủ trương chính
sách với thực tiễn cuộc sống, v a là người đưa ra chủ trương, chính sách nhưng
đồng thời cũng là người tổ chức thực hiện cần h p nhất tổ chức bộ máy của Đảng
với tổ chức bộ máy quyền lực của nhà nước.( khắc phục tình trạng song trùng tổ
chức giữa các Ban của Đảng với các Bộ ngành hiện nay).
ii) Thống nhất hệ thống tham mưu giúp việc t trung ương đến địa phương.
Hiện nay hệ thống giúp việc ngày càng phình to. Chỉ tính 4 văn phòng cấp Trung
ương cũng đã có tới 88 đơn vị giúp việc cấp vụ (Văn phòng Trung ương Đảng có 20
đơn vị cấp vụ trong đó có 3 doanh nghiệp; Văn phòng Chủ tịch nước có 21 đơn vị
cấp vụ trong đó có 2 đơn vị sự nghiệp; Văn phòng Quốc hội có 28 đơn vị cấp vụ
trong đó có 5 đơn vị sự nghiệp; Văn phòng Chính phủ có 19 đơn vị cấp vụ trong đó
có 2 đơn vị sự nghiệp) và 124 phòng.
Ở cấp tỉnh có 252 văn phòng gồm Văn phỏng tỉnh ủy, Văn phòng đoàn đại biểu
quốc hội, Văn phòng hội đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân; cấp huyện có
2139 văn phòng gồm Văn phòng Huyện ủy, Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn
phòng ủy ban nhân dân.
Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá XII chỉ ra: “Về một số vấn đề
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực hiệu quả; về tiếp tục đổi mới hệ hệ thống tổ chức và quả lý, nâng cao chất
lư ng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Chủ trương đã có
nhưng triển khai thực hiện chậm, cấp dưới nghe ngóng cấp trên, nếu cấp trên thi
hành thì cấp dưới chấp hành do vậy mà vấn đề tổ chức bộ máy, cán bộ đã thấy đúng
không cần phải thí điểm mà tiến hành sớm, càng sớm càng tốt.
53
Theo chúng tôi, ở Trung ương, trên cơ sở thống nhất chức danh Tổng bí thư
kiêm Chủ tịch nước, hợp nhất hai văn phòng là Văn phòng Trung ương Đảng và
Văn phòng chủ tịch nước hiện nay thành một Văn phòng trung ương là hợp lý. Do
đó ở cấp Trung ương chỉ thành lập 3 văn phòng là Văn phòng Trung ương (gồm
Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chủ tịch nước hiện nay), Văn phòng
Quốc Hội và Văn phòng Chính phủ. Đồng thời cần thực hiện việc hợp nhất các vụ,
các phòng ban trong các Văn phòng này theo hướng thực hiện đa nhiệm vụ.
Đối với cấp tỉnh, thành phố nên hợp nhất bốn văn phòng thành một Văn
phòng cấp tỉnh, thành phố. Các Quận, Huyện hợp nhất thành Văn phòng quận,
huyện. Với cấp Phường Xã chỉ nên có một cơ quan giúp việc chung.
Thứ hai, sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước trung ương theo hướng h p
nhất tổ chức bộ máy của Đảng với bộ máy chính phủ.
Bảng 1 cho thấy hiện nay cả nước có 161.825 đầu mối là quá nhiều, trong
khi đó, trên thế giới, nhiều nước có diện tích, dân số, quy mô nền kinh tế lớn hơn
nhiều lần nước ta, nhưng bộ máy quả lý kể cả các bộ ngành và các tỉnh lại gọn nhẹ
hơn nước ta (Xem bảng 4). Điều này đặt ra vấn đề phải sắp xếp lại bộ máy quản lý
nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Về chính phủ, theo chúng tôi, giai đoạn 2021-2026 Việt Nam chỉ nên xây
dựng một Chính phủ với 15 Bộ, ngành như sau:
Quốc phòng.
Công an.
Ngoại giao.
Nội vụ, Lao động, Thương binh và Xã hội (nhân sự và chính sách con người).
Giáo dục, khoa học văn hóa và thể thao.
Y tế.
Kế hoạch, đầu tư và tài chính.
Nông nghiệp, nông thôn và tài nguyên môi trường.
Công nghiệp, thương mại và du lịch (công nghiệp và dịch vụ).
Giao thông và xây dựng.
Thông tin và truyền thông.
Tư pháp.
Ngân hàng nhà nước Việt nam.
Thanh tra, kiểm tra và kiểm toán.
Ủy ban dân tộc.
54
Các cơ quan sự nghiệp của Đảng và nhà nước, các cơ quan trực thuộc chính
phủ chuyển vào các Bộ ngành theo chức năng, ví dụ Đài Truyền hình Việt Nam; Đài
Tiếng nói Việt Nam; Thông tấn xã Việt Nam; Báo nhân dân, Tạp chí cộng sản, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia Sự thật chuyển về Bộ Thông tin và Truyền thông. Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chuyển về
Bộ Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thể thao. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chuyển
về Bộ Nội vụ, Lao động, Thương binh và Xã hội. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh chuyển về Bộ Công anKiểm toán nhà nước sáp nhập vào Bộ thanh tra
và kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, tổ chức lại chính quyền địa phương theo hướng h p nhất để có quy mô tỉnh lớn
hơn tạo không gian kinh tế phù h p với hiện nay đồng thời tinh giảm bộ máy và cán bộ.
Việc duy trì không gian địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã nhỏ hẹp không
những mâu thuẫn với không gian kinh tế ngày càng mở rộng, mà còn là một trong
những nguyên nhân làm cho bộ máy quản lý trở nên chia cắt, cồng kềnh, biên chế quản
lý tăng lên dẫn đến tình trạng “quá sức chịu đựng” của chi NSNN. Đã đến lúc cần phải
tổ chức lại địa giới hành chính theo hướng tăng quy mô của mỗi đơn vị hành chính.
Nếu như năm 1976, việc tổ chức các đơn vị hành chính trong cả nước là 35
tỉnh và 3 thành phố trực thuộc Trung ương có thể chưa phù hợp, do những khó khăn
về điều kiện giao thông, thông tin liên lạc, trình độ tổ chức quản lý của đội ngũ cán
bộ chưa đáp ứng được nên phải chia tách, thì hiện nay, khoảng cách địa lý đã được
rút ngắn nhờ hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện hơn, thông tin các vùng
nhanh hơn nhờ xây dựng chính phủ điện tử sử dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin
và sẽ còn thuận lợi gấp nhiều lần với những thành tựu của cách mạng công nghiệp
4.0 mang lại; đặc biệt trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý của
cán bộ công chức đã được nâng lên rất cao so với 30 năm trước. Vì thế việc sáp
nhập lại các tỉnh thành phố, các huyện và xã vừa là đòi hỏi cấp bách để phát huy lợi
thế các vùng miền, khắc phục tình manh mún do sự chia cắt lãnh thổ, tạo ra cạnh
tranh không lành mạnh giữa các địa phương hiện nay vừa có điều kiện thực hiện.
Theo chúng tôi, việc sáp nhập này cần dựa trên điều kiện địa lý và dân số.
Ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh biên giới, vùng cao điều kiện
còn khó khăn, còn lại mỗi tỉnh, thành phố tối thiểu phải có dân số từ 4-5 triệu người trở
lên. Như vậy nước ta nên sắp xếp khoảng 20-25 tỉnh, thành phố. Theo đó, sẽ giảm số
huyện, quận, thị xã xuống khoảng 500 đầu mối và khoảng 10.000 xã phường.
Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy từ trung ương đến địa phương như trên là
cấp bách, song cực kỳ khó khăn và phức tạp. Vì thế cần phải có thời gian chuẩn bị
55
cho công việc này. Trước hết từ nay đến năm 2020 phải xây dựng xong Đề án sắp
xếp lại tổ chức bộ máy. Việc triển khai thực hiện sắp xếp lại sẽ thực hiện xong trong
thời gian những năm 2021-2025.
Thứ tư, tổ chức hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị xã hội thiết kế theo hướng có một bộ phận chuyên trách gọn, chủ yếu
là kiêm nhiệm chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự quản, tự thu, tự trang trải cho
hoạt động, dựa trên sự đóng góp của hội viên do lợi ích của họ được các tổ chức này
bảo vệ. Các tổ chức hội nghề nghiệp được tự do hoạt động theo luật pháp của nhà
nước và hoàn toàn tự chủ về tài chính.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng trao
quyền tự chủ về chuyên môn, tổ chức và tài chính.
Phấn đấu đến năm 2025, số đơn vị công lập tự chủ về chi thường xuyên và
chi đầu tư trong cả nước đạt được 30%; năm 2035 đạt 60% và đến năm 2045 đạt
được 80%. Nhà nước chỉ đảm bảo biên chế, chi thường xuyên và đầu tư cho đơn vị
sự nghiệp công để thực hiện giáo dục phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, y tế cộng
đồng và một số loại hình sự nghiệp công lập có tính đặc thù.
Đồng thời với việc chuyển sang cơ chế tự chủ, nhà nước đổi mới chi cho
hoạt động cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo các chương trình, dự án mà nhà
nước đặt hàng nhằm đáp ứng mục tiêu của nhà nước.
Thứ sáu, sắp xếp lại đầu mối bên trong của các tổ chức quản lý bộ ngành
trong cả nước theo hướng giảm cấp trung gian và giảm số lư ng các đầu mối cục
vụ, phòng ban các cấp.
Nếu hợp nhất được một số chức năng , nhiệm vụ của các tổ chức, bộ máy lãnh
đạo Đảng với nhà Nước và Chính phủ như trên, sáp nhập các tỉnh, huyện xã, chuyển
các Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội sang hoạt động tự trang trải,
chuyển các đơn vị sự nghiệp công sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, thì số đầu mối có
thể sẽ giảm được 2/3 so với hiện nay, bộ máy quản lý nhà nước của cả nước có khoảng
70.000- 75.000 đầu mối.
Để giảm đầu mối quản lý, từ năm 2018 trở đi, không thành lập các Tổng cục,
cục, vụ, viện, sở, phòng, ban quản lý mới. Những nơi xuất hiện các chức năng
nhiệm vụ mới cần sáp nhập nhiệm vụ vào các đơn vị quản lý đã có, thực hiện
nguyên tắc một tổ chức thực hiện nhiều chức năng quản lý.
Thứ bảy, thực hiện tinh giảm biên chế và người hưởng lương t NSNN, nâng
cao tỷ lệ phục vụ công dân của cán bộ công chức.
56
Hiện nay đất nước có 96 triệu người, 55 triệu người trong độ tuổi lao động.
Trong khi đó, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và hưởng lương ngân sách nhà
nước là 4, 3 triệu người (chưa kể lực lượng quân đội và công an). Như vậy tỷ lệ 24
người dân/ 1 cán bộ công chức, viên chức và hưởng lương NSNN và 14 lao động/1
cán bộ công chức, viên chức và hưởng lương NSNN. Tỷ lệ này cao hơn Thái lan,
Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Philipine và Đông Timor (vnexpress.net 2017).
Tính riêng đội ngũ của hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trân tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội thì số cán bộ, công chức gần 1,9 triệu
người, có nghĩa là 1 cán bộ, công chức phục vụ khoảng 50 người dân. Mức phục vụ
công dân của cán bộ, công chức nước ta như thế là quá nhỏ. Trong điều kiện xây
dựng Chính phủ điện tử, các cấp quản lý qua mạng và đang bắt đầu áp dụng hệ
thông công nghệ thông minh, nên trong giai đoạn đầu như hiện nay có thể cứ 100
người dân/1cán bộ, công chức. Như vậy, với dân số và lao động hiện nay, đội ngũ
cán bộ công chức nước ta đến năm 2025 chỉ cần khoảng 1000 ngàn người. Khi hệ
thống quản lý thông minh đưa vào ứng dụng đồng loạt tới năm 2035 con số này sẽ
là 150 người dân/1 cán bộ công chức và với dân số khoảng 105 triệu người, cán bộ
công chức trong biên chế năm 2035 cần khoảng 650 ngàn, năm 2045 nếu dân số
khoảng 110 triệu, thì cần khoảng 700 ngàn người. Để thực hiện được, thì từ nay đến
năm 2020 cơ quan quản lý hành chính các cấp không tuyển thêm người dưới bất kỳ
hình thức nào (biên chế hay hợp đồng 68). Từ năm 2021 trở đi bổ sung biên chế
theo nguyên tắc 7-8 người về hưu tuyển thêm 1 biên chế.
Thứ tám, khắc phục tình trạng “lạm phát” cấp phó, bổ nhiệm chế độ “hàm”
tràn lan hiện nay. Cần quy định mọi tổ chức từ cấp trung ương đến địa phương chỉ bổ
nhiệm 1 trưởng và 1 phó, những nơi phức tạp có thể 2 phó; tiến tới đến năm 2025 trở
đi, moi cấp mọi ngành chỉ bổ nhiệm 1 trưởng 1 phó. Xóa bỏ tình trạng công chức ở vị
trí lãnh đạo nhiều hơn công chức thực thi nhiệm vụ và chế độ “hàm” hiện nay.
Thứ chín, trên cơ sở sắp xếp lại tổ chức bộ máy tiến hành nâng cao chất
lư ng công chức.
-Quy định quyền hạn gắn liền trách nhiệm của từng vị trí làm việc, khắc
phục tình trạng quyền hạn rộng lớn nhưng trách nhiệm không rõ ràng như hiện nay.
- Bổ nhiệm, đề bạt cán bộ ở mọi cấp, mọi ngành cần xuất phát từ hoạt động
thực tiễn để tuyển chọn được người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ
chức của hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các
quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và thường xuyên
kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm giải trình; xây dựng chế tài và xử lý nghiêm
những cơ quan, đơn vị, cá nhân, nhất là người đứng đầu có vi phạm: Kiểm soát
57
quyền lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ l nh đạo quản lý b ng luật pháp nghiêm
minh trong lòng chế độ.
Cán bộ công chức dù là lãnh đạo hoặc không lãnh đạo, dù ở cấp nào vi
phạm luật pháp nhà nước và các quy định điều lệ, Cương lĩnh, Nghi quyết của
Đảng, không đủ tư cách ở vị trí công tác đương nhiệm thì tuỳ theo mức độ mà
vĩnh viễn suốt đời không được tuyển dụng, không được bổ nhiệm; bên cạnh việc
thi hành kỷ luật Đảng theo nguyên tắc công bằng đối với mọi chức danh, cần xử
lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
-Thực hiện cải cách tiền lương công chức để đảm công chức toàn tâm toàn ý
làm việc. Thực hiện chế độ trả tiền lương cao cho cán bộ công chức, theo nguyên
tắc “lương cao cho công chức với năng lực và trách nhiệm cao” đồng thời xây dựng
cơ chế để công chức “ không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không muốn
tham nhũng và không cần tham nhũng” như kinh nghiệm của Sigapore.
- Để thực hiện chủ trương mỗi tổ chức, mỗi công chức thực hiện nhiều nhiệm vụ,
những năm trước mắt cần chú trọng việc đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ công chức;
Đồng thời cần nghiên cứu chính sách xã hội để cho công chức hiện nay thôi việc trong
bộ máy quản lý nhà nước được đảm bảo đời sống phù hợp với sự cống hiến của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017) Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần
thứ sau Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa 12. NXB Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội
2.Chính phủ (2017) Báo cáo số 392/BC-CP ngày 22 9 2017 về thực hiện chính sách,
pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -2016
3. Phạm Chi Lan (2016) Bỏ biên chế để giảm gánh nặng 11 triệu người ăn lương
nhà nước. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/bo-bien-che-de-giam-ganh-
nang-11-trieu-nguoi-an-luong-309 270.html. Cập nhật 09/06/2016 11:02 GMT+7
4.Lê Đăng Doanh (2017) Những đư c mất của kinh tế Việt Nam trong năm 2017
https://vietnambiz.vn/ts-le-dang-doanh-nhung-duoc-mat-cua-kinh-te-viet-nam-
trong-nam-2017-41813.html. Cập nhật 15:50 | 31/12/2017
5.vnexpress.net (2017) Việt Nam đông công chức, viên chức nhất Đông Nam Á
https//vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/ban-thao/viet-nam-dong-cong-chuc-vien-chuc-
nhat-dong-nam-a-3669338.html Cập nhật Thứ hai, 13/11/2017, 01:39 (GMT+7)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ve_to_chuc_bo_may_cua_he_thong_chinh_tri_va_doi_ngu_can_bo_c.pdf