Đối với pháp luật Việt Nam, so sánh
với quy định về ghi vào sổ hộ tịch việc đăng
ký kết hôn đã được thực hiện tại nước ngoài:
“Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau hoặc với người nước ngoài đã được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài ở nước ngoài được ghi vào Sổ hộ
tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp
ứng đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm
điều cấm theo quy định của Luật HNGĐ
Việt Nam” (Điều 34 Nghị định số 123/2015/
NĐ-CP của Chính phủ). Điều này cho thấy,
pháp luật nội dung của Việt Nam vẫn là một
căn cứ quan trọng trong việc xem xét ghi
vào sổ hộ tịch việc đăng ký kết hôn đã được
thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên, Luật Hộ
tịch lại không đề cập đến điều kiện này trong
quy định ghi vào sổ hộ tịch việc đăng ký
khai sinh đã thực hiện tại nước ngoài. Cách
quy định như vậy đã mở ra cơ hội được thừa
nhận cho những trường hợp mang thai hộ
ở nước ngoài. Mặt khác, có thể thấy rằng,
quy định về mang thai hộ trong nước được
đặt ra nhằm đảm bảo trật tự các mối quan
hệ xã hội, đồng thời giúp cho nhu cầu chính
đáng của chủ thể được đáp ứng mà không đi
ngược với chuẩn mực đạo đức. Ở một góc
độ nhất định, điều kiện về mang thai hộ bảo
vệ quan hệ gia đình diễn ra ở trong nước.
Quy định về mang thai hộ ở mỗi quốc gia có
thể khác biệt nhưng mong muốn có con với
những đặc điểm di truyền của mình là mong
muốn chính đáng mà bất cứ cặp vợ chồng
vô sinh ở nơi nào cũng có. Khi việc mang
thai hộ được diễn ra ở nước ngoài, các vấn
đề như sự ổn định xã hội, quan niệm đạo
đức, đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ
trong nước dường như không có các tác
động tiêu cực. Quan trọng hơn, nguyện vọng
chính đáng của cặp vợ chồng vô sinh được
thực hiện28. Chính vì vậy, quan hệ cha mẹ
con đã được xác lập thông qua việc mang
thai hộ diễn ra ở nước ngoài là nên được
công nhận trong thực tiễn pháp lý.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định quan hệ cha mẹ, con khi có sự vi phạm pháp luật về mang thai hộ và việc xử lý hậu quả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích những khía cạnh pháp lý trong việc xác định quan
hệ cha mẹ, con khi có sự vi phạm pháp luật về mang thai hộ và việc
xử lý hậu quả.
XAÙC ÑÒNH QUAN HEÄ CHA MEÏ, CON
KHI COÙ SÖÏ VI PHAÏM PHAÙP LUAÄT VEÀ MANG THAI HOÄ
VAØ VIEÄC XÖÛ LYÙ HAÄU QUAÛ
Ngô Thị Anh Vân*
Abstract:
This article provides analysis of the legal aspects of determination of
parent-child relationship once there is a violation of the law on serviced
pregnancy and settlement of consequences.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: xác định quan hệ cha mẹ,
con; mang thai hộ, vi phạm pháp
luật về mang thai hộ,
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 05/05/2017
Biên tập: 20/05/2017
Duyệt bài: 27/05/2017
Article Infomation:
Keywords:
determination of parent-child
relationship; serviced pregnancy;
violation of the law on serviced
pregnancy.
Article History:
Received: 05 May 2017
Edited: 20 May 2017
Appproved: 27 May 2017
* ThS, Giảng viên Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
1. Khái quát về mang thai hộ và các
trường hợp vi phạm pháp luật về mang
thai hộ
“Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
là việc một người phụ nữ tự nguyện, không
vì mục đích thương mại, giúp mang thai cho
cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của
người vợ và tinh trùng của người chồng để
thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử
cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 13(341) T7/2017
để người này mang thai và sinh con”1.
Mang thai hộ là một trong những
trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản2 - kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Tuy nhiên, xuất phát từ những khác biệt nhất
định về chủ thể mang thai và mục đích của
việc mang thai, sinh con mà cần có sự phân
biệt giữa mang thai hộ với các trường hợp
áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đơn thuần
khác. Thông thường, người phụ nữ độc
thân hoặc người vợ trong cặp vợ chồng vô
sinh trực tiếp mang thai và sinh con thông
qua các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Nói một
cách cụ thể hơn, biện pháp thụ tinh nhân
tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm sẽ được
áp dụng trực tiếp trên cơ thể người phụ nữ
được xác định là mẹ. Trong khi đó, đối với
mang thai hộ, biện pháp thụ tinh trong ống
nghiệm được thực hiện trên cơ sở trứng và
tinh trùng của cặp vợ chồng vô sinh. Tuy
vậy, người phụ nữ trong cặp vợ chồng vô
sinh không tự mình mang thai và sinh con.
Những điều này được thực hiện bởi người
phụ nữ tình nguyện mang thai hộ. Chính vì
vậy, mục đích của việc áp dụng các kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản thông thường hướng đến việc
người phụ nữ trực tiếp mang thai, sinh con
sẽ được xác định là mẹ. Trong khi đó, với
biện pháp mang thai hộ, người phụ nữ mang
thai và sinh con hoàn toàn ý thức được việc
1 Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình (HNGĐ) năm 2014.
2 Khoản 21 Điều 3 Luật HNGĐ: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
3 Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có
quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai.
4 Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác,
con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ
khác cha với họ. (Cũng về vấn đề này, việc xác định các chủ thể nam là Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc
bên chồng nhờ mang thai hộ là chưa hợp lý).
5 Điều này giúp giảm thiểu khả năng người mang thai phát sinh tình cảm với trẻ được sinh ra. Xem thêm: Jennifer Rimm
(2009), Booming Baby Business: Regulating Commercial Surrogacy in India, University of Pennsylvania Journal of
International Law, p. 1442.
6 Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về độ tuổi được cho là thích hợp để mang thai hộ.
7 Điều 95 LHNGĐ 2014.
mình không được xác định tư cách làm mẹ
khi đứa trẻ ra đời. Sự “hỗ trợ sinh sản” nhắc
đến ở đây được nhìn nhận dưới hai phương
diện: sự hỗ trợ của khoa học và sự hỗ trợ
của người phụ nữ tình nguyện mang thai và
sinh con.
Pháp luật hiện hành đã đặt ra hai điều
kiện cần phải đáp ứng khi áp dụng biện pháp
mang thai hộ. Thứ nhất, về chủ thể, mang
thai hộ chỉ được áp dụng đối với cặp vợ
chồng vô sinh3, dù đã áp dụng biện pháp thụ
tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm
nhưng vẫn không thể có con. Đồng thời, vợ
chồng phải đang không có con chung. Mang
thai hộ được xem là biện pháp cuối cùng - và
cũng là hi vọng cuối cùng, để vợ chồng có
con với những đặc tính sinh học của mình.
Về phía người được nhờ mang thai hộ, họ
phải là người thân thích cùng hàng của bên
vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ4. Người
mang thai hộ phải là người đã từng sinh con5
và chỉ được mang thai hộ một lần. Người
phụ nữ mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp6,
có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền
về khả năng mang thai hộ. Trường hợp người
phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có
sự đồng ý bằng văn bản của người chồng.
Cũng như vợ chồng người nhờ mang thai hộ,
người phụ nữ mang thai hộ cần được tư vấn
về y tế, pháp lý và tâm lý7. Thứ hai, về mục
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 13(341) T7/2017
đích, việc mang thai hộ chỉ được thực hiện
với mục đích nhân đạo. Quy định về mang
thai hộ thể hiện ý nghĩa nhân văn khi giúp
thực hiện nguyện vọng chính đáng của cặp
vợ chồng không có khả năng tự mình sinh
con. Quan hệ mang thai hộ vì vậy mang lại
sự giúp đỡ và hỗ trợ đặc biệt đối với cặp vợ
chồng vô sinh mà không nhằm bất cứ mục
đích kinh tế hoặc sự vụ lợi nào.
Từ những phân tích nêu trên, có thể
hiểu: vi phạm pháp luật về mang thai hộ là
những trường hợp không đáp ứng điều kiện
về chủ thể hoặc mục đích mang thai hộ hoặc
những trường hợp vi phạm quyền, nghĩa vụ
về mang thai hộ do pháp luật quy định.
Trước hết, vi phạm pháp luật về mang
thai hộ có thể là trường hợp một bên (hoặc
các bên tham gia) không được nhờ mang
thai hộ hoặc là người không được tiến hành
mang thai hộ. Chẳng hạn như: người nhờ
mang thai hộ không phải là cặp vợ chồng
vô sinh, hoặc họ là cặp vợ chồng vô sinh tại
thời điểm nhờ mang thai hộ nhưng trước đó
đã có con chung, hoặc hai người vẫn có khả
năng áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
khác để có con. Về phía người phụ nữ mang
thai hộ, vi phạm có thể xảy ra nếu người này
không phải là người thân thích cùng hàng
hoặc chưa từng mang thai và sinh con, hoặc
đã từng mang thai hộ trước đó, hoặc người
phụ nữ mang thai hộ đang tồn tại quan hệ
hôn nhân nhưng không có sự đồng ý của
người chồng.
Tiếp đến, trường hợp mang thai hộ vì
mục đích thương mại cũng bị coi là hành
vi vi phạm pháp luật. Cụ thể hơn, pháp luật
nghiêm cấm việc một người phụ nữ mang
8 Khoản 23 Điều 3 và điểm g khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014.
9 Chẳng hạn như: “Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm
sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có
liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường” - Khoản 3 Điều 98 Luật HNGĐ.
thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về
kinh tế hoặc lợi ích khác8.
Cuối cùng, vi phạm pháp luật về mang
thai hộ còn là trường hợp chủ thể tham gia
mối quan hệ có sự vi phạm quyền hoặc nghĩa
vụ do pháp luật quy định tại Điều 97 và 98
Luật HNGĐ năm 2014. Đây có thể là trường
hợp một bên từ chối nhận hoặc giao con khi
trẻ được sinh ra hoặc bên nhờ mang thai hộ
không hỗ trợ, chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Đối với những trường hợp như vậy, pháp
luật luôn đặt ra chế tài buộc các chủ thể phải
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình
hoặc phải bồi thường thiệt hại nếu có9.
2. Xác định quan hệ cha mẹ, con trong
trường hợp có sự vi phạm điều kiện pháp
luật về mang thai hộ
Thông thường, việc xác định mối
quan hệ cha mẹ, con gặp khó khăn khi có
sự vi phạm pháp luật về chủ thể hoặc mục
đích mang thai hộ. Đây là trường hợp pháp
luật không cho phép xác lập quan hệ mang
thai hộ. Tuy vậy, trên thực tế, mối quan hệ
này vẫn diễn ra. Việc xác định quan hệ cha
mẹ con phức tạp khi không thể áp dụng
nguyên tắc mà pháp luật đã định sẵn. Đồng
thời, cũng không có quy định cụ thể, trực
tiếp điều chỉnh vấn đề này. Đối với trường
hợp vi phạm quyền hoặc nghĩa vụ do pháp
luật quy định, các điều kiện xác lập quan hệ
mang thai hộ vẫn được đáp ứng. Vì vậy, các
nguyên tắc xác định quan hệ cha mẹ, con mà
pháp luật đặt ra vẫn được áp dụng như một
cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp.
Nguyên tắc xác định cha, mẹ trong
trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 13(341) T7/2017
đạo10 chỉ được áp dụng khi các bên tuân thủ
quy định mà pháp luật đặt ra. Theo đó, con
sinh ra là con chung của vợ chồng nhờ mang
thai hộ (Điều 94 Luật HNGĐ)11. Khi có sự
vi phạm pháp luật về mang thai hộ thì việc
xác định quan hệ cha mẹ, con không thể áp
dụng theo Điều 94 vì quy định này chỉ được
áp dụng đối với những trường hợp tuân thủ
đầy đủ các điều kiện về mang thai hộ. Đồng
thời, pháp luật HNGĐ không đặt ra quy định
cụ thể nhằm xác định cha mẹ cho con trong
trường hợp có sự vi phạm pháp luật mang
thai hộ. Trong hoàn cảnh này, người phụ nữ
mang thai và sinh con không bằng cách thức
tự nhiên, mà hoàn toàn dựa trên kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản (thụ tinh trong ống nghiệm) nên
cần áp dụng quy định của Điều 93 - Xác
định cha, mẹ trong trường hợp sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Điều này cũng
có nghĩa rằng: nếu người phụ nữ độc thân
mang thai và sinh con thì người này sẽ được
xác định là mẹ (cho dù con sinh ra không
mang huyết thống của người này). Tuy vậy,
vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nếu người
mang thai hộ là người đang tồn tại quan hệ
hôn nhân. Nếu việc mang thai hộ vi phạm
một trong các điều kiện mà pháp luật đưa ra,
nhưng trước đó, chồng của người mang thai
hộ đã hoàn toàn đồng ý về điều này, thì việc
xác định trẻ được sinh ra là con chung của
cặp vợ chồng mang thai hộ là phù hợp với
quy định của Điều 93 (dẫn chiếu đến Điều
88 Luật HNGĐ). Ngược lại, nếu chồng của
người phụ nữ mang thai hộ không đồng ý
10 Điều 94 Luật HNGĐ.
11 Cũng có nhiều quốc gia trên thế giới có cách xác định mối quan hệ cha mẹ, con khác biệt so với Việt Nam. Chẳng hạn
như pháp luật Anh luôn có sự phân biệt giữa người được xác định là cha mẹ và người có trách nhiệm của cha mẹ. Điều
33 Đạo luật về Sinh sản năm 2008 (The human Fertilisation and Embryology Act 2008) đã chỉ rõ rằng: người phụ nữ
sinh ra đứa trẻ sẽ được xác định là mẹ của đứa trẻ đó. Điều này cũng được hiểu với cả những trường hợp người phụ nữ
mang phôi thai có sử dụng trứng được hiến tặng; hoặc trường hợp mang thai hộ. Điều 54 quy định cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ có thể nộp đơn để được công nhận tư cách cha mẹ và điều này cũng làm chấm dứt tư cách người mẹ của
người mang thai hộ. Xem thêm: Jonathan Hering (2013), Family law, Pearson (4th), pp. 84.
12 Kirsty Horsey (2010), Challenging presumptions: Legal parenthood and surrogacy arrangements, Child and Family
Law Quarterly, Vol. 22, p. 470.
với quyết định mang thai và sinh con của vợ
mình thì việc xác định đây là con chung của
vợ chồng lại là điều không hợp lý. Vấn đề
này xuất phát từ sự thiếu sót trong quy định
của Điều 93 - khi không quy định cụ thể về
sự đồng thuận giữa vợ, chồng trong việc áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Khi có sự vi phạm pháp luật về mang
thai hộ, nhiều khía cạnh được xem xét và cân
nhắc để xác định mối quan hệ cha mẹ con.
Trước hết, vì quan hệ xác lập dựa trên thoả
thuận mang thai hộ nên ý chí của các chủ thể
tại thời điểm thoả thuận là yếu tố cần được
xem xét. Ý định ban đầu của các bên là một
cơ sở để hình thành nên mối quan hệ cha mẹ,
con12. Tại thời điểm ký kết thoả thuận, các
bên đã thống nhất về việc xác định mối quan
hệ cha mẹ, con hình thành trong tương lai.
Người phụ nữ mang thai hộ hoàn toàn chấp
nhận mang thai, sinh con mà không yêu cầu
sự tồn tại mối quan hệ mẹ con. Cùng với
đó, cặp vợ chồng vô sinh chấp nhận trách
nhiệm phát sinh với đứa trẻ không do mình
trực tiếp sinh ra. Khi xác lập thoả thuận, các
chủ thể đều đã dự liệu và chấp nhận những
hệ quả mà quan hệ mang thai hộ mang lại.
Chính vì vậy, khi tranh chấp phát sinh, một
bên không thể chỉ đơn thuần viện dẫn sai
phạm (mà chính mình cũng đồng ý thực hiện
và tham gia trên thực tế) để làm cho thoả
thuận vô hiệu và phủ nhận toàn bộ ý chí đã
tồn tại ban đầu. Cũng vì lẽ đó, cho dù thoả
thuận không phát sinh hiệu lực nhưng ý chí
của các bên (về việc thiết lập quan hệ cha
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 13(341) T7/2017
mẹ, con) được thể hiện qua nội dung thoả
thuận cũng nên được cân nhắc và xem xét
trên cơ sở dung hoà với lợi ích của trẻ.
Trường hợp người phụ nữ mang thai
hộ cũng chính là người hiến trứng để thụ
tinh trong ống nghiệm (mẹ về mặt sinh học
của trẻ) cũng tạo nên sự phức tạp trong việc
xác định mối quan hệ cha mẹ, con. Có quan
điểm cho rằng, không nên đơn thuần căn cứ
vào việc trẻ được sinh ra theo những đặc
điểm di truyền của ai để xác định quan hệ
cha mẹ. Vì điều này là “trái với tinh thần
của việc hiến tặng”13. Thật vậy, bản thân
việc hiến trứng hoặc tinh trùng để thực hiện
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh
quan hệ cha mẹ, con. Hơn thế nữa, trong
quan hệ mang thai hộ, người phụ nữ mang
thai hộ hoàn toàn ý thức việc sử dụng trứng
và mang thai của mình không hướng đến
việc xác lập quan hệ mẹ - con với trẻ. Bản
chất của việc hiến tặng là không nhằm thu
được hoặc đạt được bất cứ lợi ích nào. Vì
vậy, đây không nên là cơ sở để xác lập quan
hệ mẹ - con giữa người phụ nữ mang thai hộ
và trẻ được sinh ra khi có tranh chấp.
Trong hoàn cảnh hiện tại, việc tạo nên
một quy định vừa có tính chế tài đối với
những trường hợp vi phạm pháp luật mang
thai hộ, vừa đảm bảo vẹn toàn quyền lợi của
trẻ được sinh ra và một số chủ thể liên quan
là điều khá khó khăn. Trường hợp người vợ
mang thai hộ mà không có ý kiến của chồng
và sau đó, thoả thuận mang thai hộ bị vô
hiệu không nên làm phát sinh tư cách cha -
con giữa người đàn ông và trẻ được sinh ra.
Vì điều này hoàn toàn không đảm bảo được
sự tự nguyện và quyền lợi chính đáng của
người không tham gia vào thoả thuận mang
thai hộ.
Việc xác định cha mẹ - con nên được
13 Kirsty Horsey (2010), tlđd, tr. 470.
chia làm hai trường hợp: một là, cả bên mang
thai hộ và bên nhờ mang thai đều mong
muốn trở thành cha, mẹ của trẻ được sinh
ra. Lúc này nên xác định bên mang thai hộ
có tư cách cha, mẹ, bởi điều này là phù hợp
với quy định của Điều 93 Luật HNGĐ. Việc
mang thai và sinh con được xem là kết quả
đơn thuần của việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản - thụ tinh trong ống nghiệm. Khoản
3 Điều 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cho
phép vợ chồng nhận “phôi” được tạo nên từ
trứng hoặc tinh trùng của người khác. Tuy
nhiên, cách thức suy luận như vậy cũng
không hẳn phù hợp với điều kiện về chủ thể
áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - người phụ
nữ hoặc cặp vợ chồng vô sinh. Mặc dù vậy,
điều này buộc bên nhờ mang thai hộ phải cân
nhắc kỹ lưỡng trước những rủi ro mà một
thoả thuận trái pháp luật có thể mang lại.
Hai là, nếu bên mang thai hộ không
mong muốn hình thành quan hệ cha, mẹ -
con với trẻ được sinh ra, trong khi bên nhờ
mang thai hộ mong muốn được công nhận
quan hệ cha, mẹ - con thì án lệ trong tương
lai nên giải quyết theo hướng công nhận cho
cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Tất nhiên,
điều này được thực hiện trên cơ sở: bảo vệ
quyền lợi của trẻ và tôn trọng nguyện vọng
của các bên. Cũng cần lưu ý rằng, trường
hợp thứ hai vẫn chứa đựng những rủi ro đối
với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Bởi vì,
người mang thai hộ có thể thay đổi quyết
định so với thời điểm thoả thuận - họ có thể
có mong muốn nuôi dưỡng trẻ, và như thế,
chúng ta lại áp dụng nguyên tắc đầu tiên
(Điều 93 Luật HNGĐ).
Tóm lại, xác định quan hệ cha mẹ, con
khi có sự vi phạm điều kiện mang thai hộ
không đơn giản. Dù minh thị hay ngầm định,
pháp luật nhiều nước cũng đặt ra vấn đề áp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 13(341) T7/2017
dụng các nguyên tắc chung để xác định cha
mẹ, con (mà không áp dụng các nguyên tắc
điều chỉnh thoả thuận mang thai). Tuy nhiên,
điều này không phải bao giờ cũng được áp
dụng một cách triệt để. Việc xác định mối
quan hệ cha mẹ, con suy cho cùng cần có
sự phù hợp với nguyện vọng của một (hoặc
các bên chủ thể), vì đây là điều cần thiết để
quyền và nghĩa vụ cha mẹ, con hình thành
sau đó được thực hiện tốt. Hơn thế nữa,
quyền lợi của trẻ cũng là một yếu tố không
thể bỏ qua trong trường hợp này. Chính vì
lẽ đó, giải quyết hậu quả vi phạm pháp luật
mang thai hộ, không chỉ là kết quả của việc
áp dụng các nguyên tắc một cách đơn thuần,
mà còn là sự xem xét cẩn trọng quyền lợi
của các chủ thể trên thực tế.
3. Xác định quan hệ cha mẹ, con khi người
nhờ mang thai hộ từ chối nhận con
Thông thường, việc từ chối nhận con
không tạo nên sự khó khăn đối với quá trình
xác định mối quan hệ cha mẹ, con. Các quy
định của pháp luật HNGĐ là những nguyên
tắc làm hình thành nên mối quan hệ giữa các
chủ thể kể từ thời điểm trẻ được sinh ra, dù
cho các chủ thể có mong muốn hay không.
Tuy vậy, vấn đề sẽ không hề đơn giản nếu
trẻ được sinh ra mắc những dị tật bẩm sinh
và bên vợ chồng nhờ mang thai hộ lại không
muốn nhận con. Ví dụ, vụ việc liên quan đến
quan hệ giữa cặp vợ chồng người Australia
đến Thái Lan nhờ mang thai hộ đã đặt ra một
vấn đề đạo đức cần suy ngẫm. Sau thời gian
mang thai, người phụ nữ Thái Lan đã sinh
ra hai đứa trẻ - một trai và một gái. Bé trai
bị mắc hội chứng down trong khi bé gái lại
hoàn toàn bình thường. Trong hoàn cảnh đó,
cặp vợ chồng người Australia đã mang theo
người con khoẻ mạnh và bỏ lại người con dị
14 Xem thêm Martha A. Field (2014), Compensated Surrogacy (mang thai hộ có đền bù), Washington law review, pp.
1170, pp. 1171. truy
cập ngày 10/10/2016.
tật lại Thái Lan. Trước đó, họ đã có yêu cầu
người phụ nữ Thái Lan bỏ đứa bé bị down
ở tháng thứ 6 của thai kỳ, nhưng người này
từ chối vì lý do tôn giáo. Trước sự phân tích
của dư luận, vợ chồng người Australia cũng
đã có sự hỗ trợ nhất định cho quá trình điều
trị của bé trai. Nhưng trên thực tế, cặp vợ
chồng này cũng không trả đủ phí mang thai
hộ cho người phụ nữ Thái Lan vì không thể
nhận về hai đứa trẻ khoẻ mạnh14.
Dưới góc độ thoả thuận mang thai hộ
vì mục đích thương mại, việc yêu cầu chỉ
nhận lại một đứa trẻ lành lặn khiến chúng ta
phải suy ngẫm về vấn đề đạo đức khi nhiều
chủ thể xem thoả thuận mang thai như một
hợp đồng dịch vụ đơn thuần, và trẻ được
sinh ra với những yêu cầu và tiêu chuẩn
nhất định được trao đổi như một món hàng
đặc biệt. Điều đáng lo ngại hơn cả là nếu
người nhờ mang thai hộ và người phụ nữ
mang thai hộ đều không có mong muốn nuôi
dưỡng trẻ có khiếm khuyết thì ai sẽ là người
có trách nhiệm này? Hơn nữa, dù pháp luật
ở một số quốc gia công nhận mang thai hộ
vì mục đích thương mại nhưng bản chất của
mối quan hệ vẫn là sự hỗ trợ sinh sản đối
với một số chủ thể nhất định. Khi xác lập
mối quan hệ này, người nhờ mang thai phải
chấp nhận những rủi ro đi kèm. Đây cũng
là rủi ro có thể xảy ra đối với bất cứ trường
hợp sinh con nào - kể cả sinh sản tự nhiên,
mà những người mong muốn trở thành cha,
mẹ đều phải chấp nhận.
Dưới góc độ thoả thuận mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo, sự nhìn nhận cũng
nhiều khác biệt. Lúc này, quan hệ được thiết
lập hoàn toàn mang ý nghĩa hỗ trợ chủ thể
nhờ mang thai hộ mà không nhằm đạt được
bất cứ lợi ích nào. Vì không có sự ràng buộc
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 13(341) T7/2017
về mặt lợi ích nên người nhờ mang thai hộ
càng không thể đặt ra yêu cầu của mình đối
với người con được mang thai hộ. Việc từ
chối nhận con vì lý do thể chất của trẻ hoàn
toàn đi ngược lại với tính chất “nhân đạo”
của mối quan hệ. Pháp luật HNGĐ đề cập
một cách chung nhất rằng: “bên nhờ mang
thai hộ không được từ chối nhận con”15. Quy
định này cần được áp dụng ngay cả trong
trường hợp trẻ mắc những khuyết tật, dị tật
bẩm sinh.
4. Đăng ký khai sinh và ghi vào sổ hộ tịch
việc khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước
ngoài về cư trú tại Việt Nam
Khi nhu cầu sinh con bằng phương
pháp mang thai hộ ngày càng tăng cao và
ngày càng có nhiều tổ chức môi giới phát
triển (nhất là tại những quốc gia hợp pháp
hoá việc mang thai hộ) thì “du lịch sinh
sản”16 ngày càng trở nên phổ biến. Trong
nhiều trường hợp, cặp vợ chồng vô sinh di
chuyển đến những quốc gia cho phép mang
thai hộ để có thể đạt được mong muốn có
con. Vào khoảng những năm 80 của thế
kỷ XX, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công
nhận mang thai hộ17. Kể từ đó trở đi, ngày
càng có nhiều quốc gia công nhận và phát
triển dịch vụ đặc biệt này. Trong khi những
người nước ngoài giàu có đến Hoa Kỳ để
nhờ mang thai hộ, thì rất nhiều người Hoa
Kỳ (và các nơi khác) di chuyển đến những
quốc gia đang phát triển để tìm kiếm người
15 Khoản 3 Điều 98 LHNGĐ.
16 “Fertility tourism”, “Medical tourism”, “Surrogacy tourism”.
17 Thông qua án lệ Johnson v. Calvert, công nhận hiệu lực của một thoả thuận mang thai hộ ở California.
18 Martha A. Field (2014), Compensated Surrogacy (mang thai hộ có đền bù)
truy cập ngày
10/10/2016.
19 Điều 2. Hộ tịch và đăng ký hộ tịch
1. Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi
sinh ra đến khi chết.
2. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá
nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư.
20 Xem Điều 29. Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài về cư trú tại Việt Nam (NĐ 123/2015/NĐ- CP).
mang thai hộ, nhằm tiết kiệm chi phí18. Việc
ra nước ngoài để nhờ mang thai hộ xuất phát
từ một số nguyên nhân: quốc gia của người
nhờ mang thai hộ cư trú không cho phép việc
mang thai hộ vì mục đích thương mại; quốc
gia cư trú không có điều kiện hỗ trợ sinh sản
tốt (về y tế, cơ sở vật chất, về pháp lý) hoặc
giá dịch vụ trong nước cao hơn rất nhiều so
với những nơi khác. Điều này đã làm nảy
sinh vấn đề: khi pháp luật trong nước cấm
mang thai hộ vì mục đích thương mại, liệu
rằng người con sinh ra ở nước ngoài theo
cách thức này, có được quốc gia cư trú của
cha mẹ thừa nhận?
Ở Việt Nam, pháp luật về hộ tịch19 đã
quy định việc đăng ký khai sinh cho trẻ sinh
ra ở nước ngoài về cư trú tại Việt Nam và các
trường hợp ghi vào sổ hộ tịch việc đăng ký
khai sinh đã được thực hiện tại nước ngoài.
Để đăng ký khai sinh cho trẻ được sinh ra ở
nước ngoài, cần phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định20, trong đó có việc cung cấp
giấy chứng sinh hoặc giấy tờ khác do cơ quan
có thẩm quyền nước ngoài cấp xác nhận về
việc trẻ em được sinh ra ở nước ngoài và
quan hệ mẹ - con nếu có. Vậy, nếu cha mẹ
cung cấp thoả thuận mang thai hộ được công
nhận ở nước ngoài để chứng minh cho mối
quan hệ cha mẹ con, và nội dung của thoả
thuận cho thấy việc mang thai hộ được thực
hiện vì mục đích thương mại (hoặc nội dung
của thoả thuận vi phạm các quy định khác
của pháp luật Việt Nam) thì mối quan hệ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 13(341) T7/2017
cha mẹ con này có được xác lập hay không?
Việc không quy định các trường hợp bị từ
chối đăng ký khai sinh tại Việt Nam có được
suy luận là việc Nhà nước thừa nhận hoặc
không thừa nhận những trường hợp mang
thai hộ ở nước ngoài nhưng có sự vi phạm
pháp luật Việt Nam hay không? Câu hỏi
này vẫn chưa được giải quyết một cách thoả
đáng bởi pháp luật về hộ tịch.
Đối với trường hợp ghi vào sổ hộ
tịch việc được đăng ký khai sinh đã được
đăng ký ở nước ngoài, người có yêu cầu
cần cung cấp giấy khai sinh đã được cấp tại
nước ngoài trước đó. Thông thường, quan hệ
mang thai hộ không được thể hiện trong giấy
khai sinh21. Nếu vợ chồng ra nước ngoài nhờ
mang thai hộ và đăng ký khai sinh ở nước
ngoài thì việc ghi vào sổ hộ tịch ở Việt Nam
vẫn có thể được thực hiện. Và điều này cũng
đồng nghĩa với việc quan hệ cha mẹ con này
đã được thừa nhận ở Việt Nam. Mặc dù vậy,
về mặt lý luận, liệu rằng mối quan hệ cha mẹ
con phát sinh từ việc mang thai hộ diễn ra ở
nước ngoài đồng thời có sự vi phạm pháp
luật Việt Nam thì có nên được công nhận
hay không?
Pháp luật các quốc gia trên thế giới
21 Điều này cũng có nghĩa các cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ rất khó để phát hiện ra việc mang thai hộ thực hiện ở nước ngoài.
22 Mặc dù việc mang thai hộ bị cấm ở Pháp nhưng vào năm 2014, Toà án Tối cao đã chính thức công nhận việc trẻ em
được mang thai hộ và sinh ra ở nước ngoài. Điều này cũng đồng nghĩa rằng trẻ em được mang thai hộ có cha mẹ là công
dân Pháp cũng sẽ trở thành công dân Pháp.
truy cập ngày 10/11/2016.
23 Trong một vụ việc đã được công bố năm 2014, Toà án tối cao ở Karlsruhe đã giảm mức độ gay gắt trong việc cấm mang
thai hộ ở đây. Mặc dù người phụ nữ vẫn bị cấm sử dụng tử cung của mình để mang thai đứa trẻ của người khác, pháp
luật Đức giờ đây đã công nhận trẻ được mang thai hộ ở quốc gia khác. Vụ việc xoay quanh một cặp đôi đồng tính có
con thông qua phương pháp mang thai hộ được thực hiện tại California. Đứa trẻ được sinh vào năm 2010 và đã được
đăng ký tại Hoa Kỳ với tư cách con của hai người đàn ông này. Khi trở lại Đức, cặp đôi đồng tính không thể thuyết
phục cơ quan có thẩm quyền, cho dù đứa trẻ vẫn đang sống với họ tại Berlin. Với quy định của Đức, người phụ nữ
mang thai hộ sẽ được xác định là mẹ. Điều này gây khó khăn đối với các cặp đôi đồng tính và các cặp đôi vô sinh trong
việc tìm kiếm một giải pháp để có thể trở thành cha mẹ. Vụ việc sau đó đã được quyết định bởi Toà án tối cao với nội
dung chấp nhận quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (điều này cũng giúp cho quyền lợi của trẻ được đảm
bảo tốt hơn). Tuy vậy, quy định về (cấm) mang thai hộ ở Đức vấn được giữ nguyên. Xem trên
limited-win-for-surrogacy-gay-parenthood-in-germany/a-18142883, truy cập ngày 10/11/2016.
24 Xem thêm truy cập ngày 10/11/2016.
25 RCWs > Title 26 > Chapter 26.26.240 (Chapter 26.26 RCW UNIFORM PARENTAGE ACT - Luật về Quan hệ
cha mẹ, con).
cũng có nhiều quan điểm khác nhau đối với
trường hợp này. Thứ nhất, nhóm các quốc
gia công nhận mối quan hệ cha mẹ, con
được xác lập từ sự kiện mang thai hộ thực
hiện ở nước ngoài, điển hình như: Pháp22,
Đức23, Tây Ban Nha24... Quan hệ cha mẹ con
được công nhận khi có quyết định của cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia nơi việc
mang thai hộ đã được thực hiện (cho dù mối
quan hệ này có thể không được công nhận
khi diễn ra trong nước). Thứ hai, nhóm các
quốc gia không thừa nhận quan hệ mang thai
hộ được thực hiện ở nước ngoài, nếu việc
xác lập mối quan hệ này vi phạm pháp luật
nội dung trong nước. Pháp luật một số bang
ở Hoa Kỳ và Australia là điển hình. Tại bang
Washington, mang thai hộ thông thường
được cho phép nhưng nếu là hợp đồng có đền
bù thì bị cấm. Một hợp đồng mang thai hộ
không chỉ bị cấm nếu diễn ra ở Washington,
mà còn không được công nhận cho dù diễn
ra ở bất cứ vùng lãnh thổ nào cho phép mang
thai hộ vì mục đích thương mại25. Tương tự
như vậy, bang Queensland, Australia cũng
có những quy định rất nghiêm ngặt về vấn
đề mang thai hộ. Pháp luật Queensland cấm
mang thai hộ vì mục đích thương mại. Phạm
vi áp dụng Luật Mang thai hộ Queensland
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 13(341) T7/2017
năm 2010 là đối với các hành vi được thực
hiện trong lãnh thổ Queensland và các hành
vi thực hiện ngoài lãnh thổ Queensland bởi
các công dân cư trú tại Queensland. Vì vậy,
quan hệ cha mẹ con đã được thừa nhận ở
quốc gia hoặc Bang công nhận mang thai hộ
vì mục đích thương mại sẽ không được thừa
nhận tại Queensland26. Một số quan điểm
cho rằng, công nhận mang thai hộ được thực
hiện ở ngước ngoài có thể mang đến điều bất
lợi cho trẻ, ở chỗ những đứa trẻ sẽ không thể
biết được người mẹ sinh học của mình và
đồng thời cũng không có đủ phương tiện và
căn cứ để tìm ra người này27.
Đối với pháp luật Việt Nam, so sánh
với quy định về ghi vào sổ hộ tịch việc đăng
ký kết hôn đã được thực hiện tại nước ngoài:
“Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau hoặc với người nước ngoài đã được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài ở nước ngoài được ghi vào Sổ hộ
tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp
ứng đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm
điều cấm theo quy định của Luật HNGĐ
Việt Nam” (Điều 34 Nghị định số 123/2015/
NĐ-CP của Chính phủ). Điều này cho thấy,
pháp luật nội dung của Việt Nam vẫn là một
căn cứ quan trọng trong việc xem xét ghi
vào sổ hộ tịch việc đăng ký kết hôn đã được
thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên, Luật Hộ
tịch lại không đề cập đến điều kiện này trong
quy định ghi vào sổ hộ tịch việc đăng ký
khai sinh đã thực hiện tại nước ngoài. Cách
quy định như vậy đã mở ra cơ hội được thừa
nhận cho những trường hợp mang thai hộ
26 Điều 54 - Lãnh thổ áp dụng (Luật về Mang thai hộ 2010 - Queensland).
27 Đối với mang thai hộ truyền thống thì người phụ nữ mang thai hộ chính là người mẹ về mặt huyết thống của trẻ - sử
dụng trứng của người này. Xem trên
tralia-20150514-gh1ead.html, truy cập ngày 9/10/2016.
28 Việc cho phép nhờ mang thai hộ ở nước ngoài giúp cho những quy định ngăn cấm ở trong nước có thể tồn tại được vì
những cặp đôi có nhu cầu sinh con có thể thực hiện được ở nước ngoài mà vẫn không vi phạm pháp luật trên chính quốc
gia của họ.
Đọc thêm: Jennifer Rimm (2009), Booming Baby Business: Regulating Commercial Surrogacy in India, University of
Pennsylvania Journal of International Law, pp.1430.
ở nước ngoài. Mặt khác, có thể thấy rằng,
quy định về mang thai hộ trong nước được
đặt ra nhằm đảm bảo trật tự các mối quan
hệ xã hội, đồng thời giúp cho nhu cầu chính
đáng của chủ thể được đáp ứng mà không đi
ngược với chuẩn mực đạo đức. Ở một góc
độ nhất định, điều kiện về mang thai hộ bảo
vệ quan hệ gia đình diễn ra ở trong nước.
Quy định về mang thai hộ ở mỗi quốc gia có
thể khác biệt nhưng mong muốn có con với
những đặc điểm di truyền của mình là mong
muốn chính đáng mà bất cứ cặp vợ chồng
vô sinh ở nơi nào cũng có. Khi việc mang
thai hộ được diễn ra ở nước ngoài, các vấn
đề như sự ổn định xã hội, quan niệm đạo
đức, đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ
trong nước dường như không có các tác
động tiêu cực. Quan trọng hơn, nguyện vọng
chính đáng của cặp vợ chồng vô sinh được
thực hiện28. Chính vì vậy, quan hệ cha mẹ
con đã được xác lập thông qua việc mang
thai hộ diễn ra ở nước ngoài là nên được
công nhận trong thực tiễn pháp lý.
Tóm lại, mang thai hộ là một quy định
mang đậm tính nhân văn khi giúp hiện thực
hóa nguyện vọng chính đáng của những cặp
vợ chồng không có được khả năng sinh sản
tự nhiên. Sự đan xem giữa yếu tố tình cảm
và yếu tố vật chất khiến cho việc giải quyết
hậu quả của những trường hợp vi phạm pháp
luật mang thai hộ cần được giải quyết thận
trọng, trong đó, quyền lợi của người con cần
được đặt ở vị trí trung tâm và được ưu tiên
hàng đầu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 13(341) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_quan_he_cha_me_con_khi_co_su_vi_pham_phap_luat_ve_m.pdf