Đề tài Các công ty chứng khoán trong bối cảnh TTCK Việt Nam

Tổng kết lại ta thấy rằng thị trường chứng khoán là hướng mới trong sự phát triển của thị trường tài chính. Thị trường thực hiện việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng. Tăng thêm nguồn vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp cần vốn đầu tư và phát triển kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp chính là sự phát triển của đất nước. Điều đó nói nên rằng thị trường chứng khoán là một lựa chọn đúng đắn cho sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay. Trước yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán đòi hỏi trước hết chúng ta phải phát triển các công ty chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các công ty cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho thị trường chứng khoán có thể hoạt động được thông suốt. Đó là tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người cần vốn, cung cấp cơ chế giá cả giao dịch. Đồng thời làm tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán và góp phần điều tiết và bình ổn thị trường. Thông qua các nghiệp vụ như môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tự doanh công ty chứng khoán đã hỗ trợ cho thị trường chứng khoán và cả các chủ thể khác tham gia vào thị trường . Đó là hỗ trợ các công ty có nhu cầu phát hành chưng khoán, đồng thời cũng là người bảo lãnh phát hành cho các công ty niêm yết. Đồng thời là nơi để các nhà đầu tư có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Thông các công ty chứng khoán các nhà đầu tư có thể hoàn toàn yên tâm với các tài sản và về các quyết định của mình thông qua hoạt động quản lý tài sản và tư vấn đầu tư chứng khoán. Vậy có thể khẳng định được rằng công ty chứng khoán có vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán. Do đó trong sự phát triển của thị trường chứng khoán cần phải đi kèm với sự phát triền của các công ty chứng khoán. Bây giờ chúng ta đang thực hiện kế hoạch nhằm phát triển các công ty chứng khoán để đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc tê. Trong tương lai không xa chúng ta có thể tin rằng thị trướng chứng khoán hay các công ty chứng khoán của nước ta sẽ phát triển và lớn mạnh hơn bây giờ , trở thành đối thủ ngang hàng, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức quốc tế. Trước khi điều đó xảy ra thì bây giờ chúng ta hãy cùng nhau hoàn thiện kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán.

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công ty chứng khoán trong bối cảnh TTCK Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường cũng cần phải có các chứng chỉ do Ủy ban chứng khoán cấp. Ngoài ra những người giữ chức danh quản lý đòi hỏi phải có giấy phép đại diện. Điều kiện về cơ sở vật chất, các tổ chức hay cá nhân sáng lập công ty chứng khoán phải đảm bảo yêu cầu cơ sở tối thiểu cho công ty chứng khoán .Do đặc thù của công ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch mua bán cổ phiếu cho nên nó đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất để thực hiện các lệnh trong giao dịch. Hiện nay nước ta có trung tâm giao dịch thực hiện khớp lệnh thông qua hệ thống máy tính công nghệ cao để khớp lệnh. Vấn đề khớp lệnh đã được máy tính làm thay. Tuy nhiên để đưa được lệnh của nhà đầu tư từ công ty chứng khoán về sàn giao dịch để khớp lệnh thì phải thực hiện thông qua hệ thống mạng lưới điện thoại. Điều này làm hạn chế các rủi ro trong quá trình giao dịch bằng mạng Internet, khắc phục khả năng tấn công của tin tặc vào hệ thống mạng máy tính đánh cắp dữ liệu, phá hoại các giao dịch. Sử dụng đường truyền điện thoại để khớp lệnh đòi hỏi phải hệ thống cơ sở vật chất hiện đại để tăng khả năng khớp lệnh cho nhà đầu tư. Hoàn thành xong các lựa chọn, điều kiện các nhà sáng lập phải xin cấp phép của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hồ sơ thông thường bao gồm các tài liệu sau : đơn xin cấp phép, giấy phép thành lập doanh nghiệp, phương án nhân sự, phưong án hoạt động, điều lệ công ty, các tài liệu minh chứng về vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý và các giấy tờ khác theo quy định. Từ sau khi nộp đơn cho đến khi nhận được cấp phép hoạt động nhà đầu tư phải đợi chờ khoảng ít nhất là hai đến ba tháng. Và công việc cuối cùng của công ty chứng khoán sau khi được thành lập đó là công bố thông tin trên đại chúng theo quy định của luật. d_Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán. Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều hạn chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó đòi hỏi các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất định để khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công ty chứng khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính. * Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch của khách hàng, và do đó công ty phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động, và khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt trong các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép nhận bất kì một khoản hoa hồng thêm nào khác ngoài các khoản hoa hồng thông thường. Đồng thời với việc tư vấn đó là công ty chứng khoán không được dùng các thông tin nội bộ để giao dịch phục vụ cho lợi ích của mình, một số công ty ngoài các hoạt động như môi giới, tư vấn...còn có hoạt động tự doanh là việc công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch cho mình để thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Điều đó dẫn đến các bất đồng về quyền lợi trong giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Theo nguyên tắc đạo đức thì các công ty chứng khoán sẽ phải ưu tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước rồi mới đến lượt mình. Công ty chứng khoán cũng là một nhà kinh doanh do đó nó không được phép tiến hành các hoạt động gây ra sự hiểu lầm về giá cả của khách hàng từ đó kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh không phải là hoạt động chính của công ty do đó hoạt động phá hoại thị trường của các công ty sẽ rất ít hoặc không có. Bản thân các công ty chứng khoán đều muốn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho khách hàng của mình, có như vậy công ty mới thu hút được sự chú ý của khách hàng. Hiện nay một số nơi các công ty chứng khoán còn đóng góp thành một quỹ để đề phòng rủi ro mất khả năng thanh toán của công ty cho khách hàng, góp phần bảo vệ lợi ích cho nhà đẩu tư. Thông qua đó tạo ra một cảm giác an toàn cho khách hàng, từ đó thu hút được nhiều nhà đẩu tư mở tài khoản giao dịch tại công ty. * Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính có tác dụng làm tách biệt các quan hệ về tài sản giữa công ty với tài sản của khách hàng. Các công ty chứng khoán để có thể thực hiện được điều trên trước hết cần phải bảo đảm được các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. Đồng thời phải bảo đảm các nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng. Trong đó công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng gửi trong tài khoản tại công ty. Ngoại trừ các trường hợp phục vụ kinh doanh của khách hàng. Các công ty cũng không được phép dùng các chứng khoán cùa khách hàng để đi thế chấp vay tiền phục vụ cho các hoạt động của công ty, điều đó rất nguy hiểm cho công ty và khách hàng, và cả tổ chức mà công ty thế chấp chứng khoán. Nhưng công ty có thể thực hiện các hoạt động trên nếu được sự đồng ý của khách hàng bằng các văn bản. e_Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán: Các công ty chứng khoán tổ chức cơ cấu của công ty theo các loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện và theo quy mô hoạt động kinh đoanh chứng khoán. Tuy nhiên các công ty chứng khoán đều có đặc điểm chung về cơ cấu tổ chức là gồm có hai khối : nghiệp vụ và phụ trợ. Trong đó khối nghiệp vụ là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và dịch vụ chứng khoán. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đồng thời cung cấp các sản phẩm dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Tương ứng với mỗi nghiệp vụ trong khối này sẽ là một phòng, ban của công ty như phòng môi giới, phòng tư vấn, phòng tự doanh, phòng quản lý doanh mục đầu tư, phòng ký quỹ, phòng bảo lãnh phát hành. Căn cứ vào quy mô thị trường cũng như sự chú trọng vào các nghiệp vụ mà công ty sẽ chuyên sâu theo từng lĩnh vực nghiệp vụ nhất định. Khối phụ trợ là khối không thể thiếu được trong các công ty chứng khoán, mặc dù nó không thực hiện trực tiếp các nghiệp vụ chứng khoán cũng như không tạo ra thu nhập. Nhưng nó lại khối điều hành các hoạt động của công ty, nó vận hành mang tính chất hỗ trợ khối nghiệp vụ. Khối này bao gồm các phòng ban như : phòng nghiên cứu phát triển, phân tích và thông tin thị trường, kế hoạch công ty ...Do xu hướng phát triển và hội nhập mà công ty chứng khoán có thêm các phòng ban về mạng lưới, chi nhánh, văn phòng, đại lý. Các công ty ngoài việc phát triển thị trường và quy mô mà các công ty còn có xu hướng mở rộng thêm các hoạt động của ngành khác như bảo hiểm, ngân hàng. 3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán : Tương tự như cơ cấu tổ chức của công ty, các nghiệp vụ của công ty cũng được phân thành hai nhóm là nhóm nghiệp vụ chính và nhóm nghiệp vụ phụ trợ. a. Các nghiệp vụ chính: - Nghiệp vụ môi giới chứng khoán : Đây là một hoạt động phổ biến nhất ở các công ty chứng khoán, gần như công ty chứng khoán nào cũng có hoạt động này. Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán đứng làm trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Thông qua công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng giao dịch mua bán chứng khoán tại các sàn giao dịch hoặc trên thị trường OTC, và khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với các kết quả giao dịch đó. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán với nhau. Trong một số trường hợp nhất định hoạt động môi giới còn giúp cho nhà đầu tư lấy lại tinh thần, tỉnh táo, sáng suốt trong việc đưa ra quyết định. Thực hiện nghiệp vụ môi giới này rất là khó khăn và vất vả, các nhân viên môi giới phải vừa có kiến thức tinh thông về thị trường chứng khoán, vừa cần phải có các kỹ năng giao tiếp tốt. Nhân viên môi giới phải có kiến thức về chứng khoán giỏi, giúp cho khách hàng có được thông tin chính xác và hoàn hảo từ đó đưa ra được quyết định chính xác. Nhưng nhân viên môi giới ngoài kiến thức ra cũng cần có các tiêu chuẩn nhất định về phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và sự công tâm cung cấp cho khách hàng dịch vụ tốt nhất. - Nghiệp vụ tự doanh : Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Các hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán nhà nước hoặc trên thị trường OTC. Tại một số thị trường thực hiện cơ chế khớp giá, thì hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Khi đó công ty chứng khoán sẽ là nhà tạo lập thị trường và hoạt động mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng trênh lệch giá cả của hoạt động mua bán chứng khoán. Đây là điều khác với hoạt động môi giới chứng khoán công ty chứng khoán không nhận được hoa hồng mà thu được lợi nhuận từ hoạt động mua bán chứng khoán để thu được chênh lệch. Hoạt động này công ty chứng khoán phải tự bỏ tiền, còn đối hoạt động môi giới công ty chứng khoán không phải bỏ tiền mua bán chứng khoán. Tuy nhiên công ty thực hiện hoạt động này vì mục đích lợi nhuận từ chính hoạt động mua bán chứng khoán của mình, đồng thời còn vì mục đích nhằm làm ổn định thị trường hạn chế các biến động trên thị trường sẽ dẫn đến những tác động tệ hại. Nhưng mà hoạt động này gắn với lợi nhuận trực tiếp của công ty do đó có thể dẫn đến những tiêu cực từ phía công ty chứng khoán trong việc thực hiên các lệnh giao dịch. Do hoạt động tự doanh song hành cùng với hoạt động môi giới, và công ty chứng khoán là đầu mối có khả năng tiếp cận thông tin nhanh chóng và kịp thời .Từ đó các công ty chứng khoán có được những dự báo thích hợp về thị trường từ đó có được các quyết định chính xác Như vậy các công ty chứng khoán sẽ cạnh tranh với khách hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch.Do đó cần phải có biện pháp bảo đảm quyền lợi của khách hàng trong các giao dịch. Hiện nay các công ty chứng khoán khi khớp lệnh đều ưu tiên thực hiện các lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty trong hoạt động tự doanh. Điều đó đã trở thành luật và một số nơi thì hoạt động này yêu cầu phải thành lập hai loại công ty chứng khoán riêng biệt là công ty môi giới và công ty tự doanh. Điều này nhằm đáp ứng các vấn đề về tính minh bạch của công ty chứng khoán trong hoạt động của mình, sự minh bạch này được thể hiện qua sự tách biệt về mặt vốn, tài sản, chứng khoán giữa khách hàng và công ty. Thông qua hoạt động tự doanh công ty chứng khoán tạo lập thị trường cho các chứng khoán mới bằng cách mua bán chứng khoán trên thị trường cấp hai. Trên thế giới, các nhà tạo lập thị trường cho các chứng khoán dựa trên cơ chế giao dịch trên thị trường OTC. Trên thị trường OTC các nhà tạo lập thị trường liên tục báo giá để mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư khác nhau. Họ duy trì liên tục thị trường này trên 24 giờ để phục vụ nhu cầu mua bán cùa khách hàng và của các công ty với nhau. Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện theo hai hình thức giao dịch trực tiếp và giao dịch gián tiếp: ~ Giao dịch trực tiếp là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng khoán, công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Hoạt động này chủ yếu thực hiện các giao dịch đối với các chứng khoán trên thị trường OTC. ~ Giao dịch gián tiếp, công ty chứng khoán giao dịch giống như mọi nhà đầu tư trên thị trường tập trung, để khớp lệnh. Lệnh của họ được thực hiện bất cứ lúc nào mà họ cũng không xác định được trước. Đây là hoạt động của nghiệp vụ tự doanh các công ty chứng khoán không tự thực hiện các lệnh của họ theo giá thoả thuận, yêu cầu của họ. Còn đối với hoạt động giao dịch trực tiếp của nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện dựa trên nguyên tắc thương lượng trên thị trường OTC. - Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành : Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoàn ra công chúng thì tổ chức phát hành phải thông qua công ty chứng khoán để bảo lãnh, tư vấn phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng là hoạt động mang lại thu nhập nhiều nhất, nó chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng doanh thu. Nghiệp vụ bảo lãnh chứng khoán là việc các công ty chứng khoán giúp cho tổ chức phát hành hoàn thành các thủ tục yêu cầu để được phát hành chứng khoán. Công ty chứng khoán sau khi bảo lãnh cho tổ chức phát hành, họ cũng thực hiện phân phối chứng khoán đó hoặc bán lại cho một công ty chứng khoán khác để họ phân phối chứng khoán. Trong giai đoạn đầu khi phân phối các công ty chứng khoán có vai trò là một nhà tạo lập thị trường, làm bình ổn giá cả. Hiện nay để bảo lãnh phát hành cho các tổ chức phát hành chứng khoán thì ngoài các công ty chứng khoán, còn có các tổ chức trung gían tài chính khác như ngân hàng, bảo hiểm. Do quy mô phát hành lớn mà một công ty chứng khoán thì không thể thực hiện được với quy mô vốn như hiện nay. Tuy nhiên các ngân hàng sẽ đứng ra bảo lãnh phát hành sau đó họ sẽ phân phối lại cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác. Quy trình để một công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh phát hành cho một tổ chức gồm có các bước như sau. Tổ chức phát hành ban đầu đề nghị các công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành. Sau đó công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán, số lượng, định giá chứng khoán, phương thức phát hành chứng khoán ra công chúng đầu tư. Để được bảo lãnh phát hành tổ chức bảo lãnh phải đệ trình phương án bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán nhà nước. Sau khi được uỷ ban chứng khoán chấp thuận thì các công ty chứng khoán sẽ ký kết trực tiếp hoặc lập ra nghiệp đoàn bảo lãnh để ký kết với tổ chức phát hành. Uỷ ban cấp giấy phép phát hành cho công ty chứng khoán khi giấy phép có hiệu lực thì công ty chứng khoán hay nghiệp đoàn bảo lãnh mới được phép phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là: * Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, các quỹ bảo hiểm, các quỹ hưu trí. * Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hoặc các nhà đầu tư có liên quan trực tiếp tới tổ chức phát hành. * Bán rộng rãi ra công chúng. Khi đến ngày ký kết trên hợp đồng công ty chứng khoán phải thanh toán cho tổ chức phát hành tiền bán chứng khoán. Nhưng tuỳ thuộc theo cách thức bảo lãnh giữa công ty chứng khoán và tổ chức phát hành mà khi kết thúc hợp đồng công ty chứng khoán phải thực hiện các nhiệm vụ nhất. Như bảo lãnh theo phưong thức cố gắng cao nhất, cam kết chắc chắn, theo phương thức dự phòng, bán tất cả hoặc không, phương thức tối thiểu hoặc tối đa. - Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư : Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua các danh mục đầu tư nhằm mục đích sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở bảo toàn và tăng lợi nhuận. Đây là một nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm đầu tư. Các khách hàng uỷ thác cho công ty trong việc quyết định các hoạt động đẩu tư dựa trên chiến lược đầu tư và những nguyên tắc mà khách hàng đặt ra như lợi nhuận kỳ vọng, mức độ rủi ro... Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát bao gồm các bước : * Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý là công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác. * Ký hợp đồng quản lý là việc công ty ký hợp đồng quản lý với khách hàng theo yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên,phí quản lý danh mục đầu tư. * Thực hiện hợp đồng quản lý, công ty chứng khoán thực hiện đầu tư theo uỷ thác của khách hàng như trong cam kết đã ghi nhận và phải đảm bảo các nguyên tắc về quản lý vốn và tài sản giữa khách hàng và công ty. * Kết thúc hợp đồng quản lý thì khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hay phá sản công ty. - Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán : Nghiệp vụ này cũng giống như các hoạt động tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán sử dụng trình độ chuyên môn của mình trong lĩnh vực chứng khoán để đưa ra các lời khuyên, phân tích cho các nhà đầu tư. Trước các tình huống phức tạp nhà đầu tư đang đắn đo, họ có thể sử dụng đến hoạt động tư vấn của công ty để hỗ trợ trước khi đưa ra được quyết định cuối cùng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu thức sau : * Thứ nhất, theo hình thức của hoạt động tư vấn, thì gồm hai loại là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Tư vấn trực tiếp là hoạt động tư vấn của công ty thực hiện trực tiếp thông qua tiếp xúc, qua các phương tiện như thư từ điện thoại. Tư vấn gián tiếp thông qua sách báo của công ty phát hành, hoạt động này chỉ đem lại cho khách hàng các thông tin để từ đó khách hàng phải tự tổng hợp phân tích và tự đưa ra quyết định, như vậy các quyết định sẽ không có được sự đúng đắn. * Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn thì hoạt động được phân thành tư vấn gợi ý và tư vấn ủy quyền. Trong đó tư vấn gợi ý là người tư vấn chỉ gợi ý cho khách hàng về phương thức đầu tư hợp lý còn quyền quyết định đầu tư là của khách hàng. Tư vấn uỷ quyền là người tư vấn vừa tư vấn, vừa có quyền quyết định theo phân cấp uỷ quyền của khách hàng. * Theo đối tượng của hoạt động tư vấn thì bao gồm tư vấn phát hành và tư vấn đầu tư. Tư vấn phát hành là các hoạt động tư vấn cho các tổ chức có nhu cầu phát hành về cách thức phát hành, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản báo cáo bạch... Tư vấn đầu tư là tư vấn cho các khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán... Hoạt động tư vấn là việc nhà tư vấn sử dụng kiến thức của mình để kinh doanh dem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đưa ra lời khuyên để hỗ trợ nhà đầu tư trong các quyết định đầu tư, sau các quyết định thì nhà đầu tư sẽ thu về được một khoản lợi nhuận hoặc là sẽ mất hết. Còn nhà tư vấn thì họ không phải chịu tổn thất như nhà đầu tư, do đó nó đòi hỏi hoạt động tư vấn phải tuân thủ một số nguyên tắc để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Nguyên tắc thứ nhất là các các nhà tư vấn sẽ không đảm bảo chắc chắn rằng về giá chứng khoán. Vì giá chứng khoán không phải là cố định vĩnh viễn, nó luôn thay đổi theo những biến động của thị trường. Do đó việc các chứng khoán có thể tăng, giảm giá bất cứ lúc nào mà chính các nhà tư vấn cũng không thể tính trước được. Như vậy mà đòi hỏi nguyên tắc tiếp theo là phải luôn nhắc nhở khách hàng rằng lời tư vấn chỉ có cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ. Vì vậy khôngthể hoàn toàn chính xác và khách hàng chính là người đưa ra quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin của nhà tư vấn để đầu tư.Nhưng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. Do nhà tư vấn không phải chịu trách nhiệm gì trong việc đưa ra lời khuyên, do vậy họ không được phép dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó. Những lời phân tích đòi hỏi phải dựa trên các cơ sở khách quan, tổng hợp khoa học, lôgic các vấn đề nghiên cứu. b. Các nghiệp vụ phụ trợ: Các nghiệp vụ phụ trợ là những hoạt động hỗ trợ cho các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán. Các nghiệp vụ phụ trợ giúp cho các nghiệp vụ chính được thực hiện tốt hơn, an toàn hơn.Các nghiệp vụ phụ trợ là các nghiệp vụ như :lưu ký chứng khoán, quản lý thu nhập của khách hàng, các nghiệp vụ tín dụng, các nghiệp vụ quản lý quỹ. - Lưu ký chứng khoán là việc lưư giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán hay ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán . - Quản lý thu nhập của khách hàng hay quản lý cổ tức. Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. - Nghiệp vụ tín dụng phát sinh ở các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh các nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán. Thông qua đó khách hàng có thể thực hiện các hoạt động mua bán khống hoặc cho khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ cả gốc vay, cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì công ty chứng khoán sẽ phát mại số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Còn đối với hoạt động mua bán khống hiện nay các nước đều cấm do nó dẫn đến tình trạng các khách hàng sẽ thâu tóm toàn bộ thị trường bằng việc vay vốn mua bán khống. Thực tế các khách hàng không phải trả một khoản nào để mua chứng khoán, và ngân hàng sẽ là người bỏ tiền ra. Khi chứng khoán đó mất giá thì sẽ làm ảnh hưởng đến công ty chứng khoán cho vay và đến thị trường tài chính. - Nghiệp vụ quản lý quỹ là hoạt động mà các công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ để đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về thị trường chứng khoán đó cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Nghiệp vụ này làm tăng thêm sản phẩm cho thị trường chứng khoán. Thông qua việc mua chứng chỉ quỹ của công ty chứng khoán thì nhà đầu tư cũng thu được một khoản lợi nhuận từ việc sở hữu các chứng chỉ quỹ. B_ Thực Tiễn : 1. Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay : Công ty chứng khoán Việt Nam đã trải qua 6 năm phát triển và trưởng thành cùng với thị trường chứng khoán. Chúng ta đă được những thành tựu rất khả quan so giai đoạn ban đầu khi thị trường mới hình thành. Ban đầu khi thị trường mới được hình thành thì các công ty chứng khoán vẫn còn nhỏ bé về quy mô và chất lượng hoạt động. Công ty chứng khoán ban đầu có quy mô vốn rất nhỏ mà hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động tài chính phức tạp, kỹ năng chuyên sâu và có tác động mang tính dây chuyền trên bình diện rộng. Đòi hỏi công ty chứng khoán phải có quy mô vốn lớn và có đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên điều hành, tác nghiệp có kiến thức tốt về quản lý vốn đầu tư, phân tích, phán đoán diễn biến tình hình thị trường. Điều kiện của Việt Nam lúc bấy giờ thị trường vốn chưa phát triển cho nên chúng ta đã cho phép các ngân hàng thương mại và công ty tài chính, bảo hiểm, các tổng công ty mạnh tham gia vào thị trường chứng khoán. Nhưng việc các tổ chức tài chính tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ gây ra những rủi ro cho thị trường, do đó mà các tổ chức trên không được tham gia trực tiếp vào thị trường mà phải tổ chức dưới hình thức công ty chứng khoán độc lập. Thời kỳ đàu chúng ta có rất ít công ty chứng khoán nhưng đến nay đã có 15 công ty chứng khoán đã có giấy phép hoạt động. Các công ty chứng khoán hiện nay của nước ta là: Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn Công ty chứng khoán Đệ Nhất Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông Công ty cổ phần chứng khoán TP Hồ Chí Minh Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đông Á Công ty cổ phần chứng khoán Hải phòng Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà HN Công ty cổ phần chứng khoán Đại Việt Các công ty chứng khoán ngày nay đã phát triển và trưởng thành hơn trước rất nhiều, và các công ty mới thành lập thì càng ngày càng có quy mô lớn hơn. Xu thế đó là hoàn toàn hợp lý với bối cảnh hội nhập WTO hiện nay. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán của chúng ta. 2. Thực trạng của các công ty chứng khoán hiện nay : a. Ảnh hưởng của Luật Chứng Khoán tới việc thành lập các công ty chứng khoán : Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi chúng ta phải đổi mới hệ thống của mình để có thể cạch tranh và đương đầu với các tổ chức nước ngoài. Thị trường chứng khoán cũng không phải là đối tượng ngoài lề của các cuộc đổi mới, và đạo luật mới quy định về các vấn đề của thị trường chứng khoán như chào bán chứng khoán, công ty đại chúng, thị trường giao dịch chứng khoán, đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán... Trong đó có các quy định về các vấn đề về công ty chứng khoán, đã có những thay đổi khác so với các quy định trước đây. Điển hình của những thay đổi trên là quy định điều kiện thành lập công ty chứng khoán, quy định đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng thành lập công ty chứng khoán trong giai đoạn gần đây. Những quy định về điều kiện thành lập công ty chứng khoán trong Luật Chứng Khoán mới là các công ty chứng khoán phải đáp ứng được các điều kiện về vốn pháp định cao hơn. Cụ thể là để được thành lập công ty chứng khoán cần phải có mức vốn trên 200 tỷ đồng, trong khi đó theo quy định cũ tại điều 30 Nghị Định 144 thì các công ty chứng khoán chỉ cần có mức vốn pháp định tối thiểu là 43 tỷ đồng. Điều đó đã ảnh hưởng đến các quyết định thành lập các công ty chứng khoán trong thời gian gần đây sau khi luật chứng khoán được công bố. Có rất nhiều nhà tổ chức đua nhau xin cấp phép thành lập công ty chứng khoán, trước khi luật chứng khoán có hiệu lực vào ngày 1/1/2007. Luật chứng khoán được ban hành từ ngày 29/6/2006 và như vậy từ đó đã có rất nhiều đơn đăng ký thành lập công ty chứng khoán. Tuy nhiên đến nay các hoạt động đó đã bị chấm dứt, không còn tình trạng nganh đua để thành lập công ty chứng khoán. Chính thức theo công bố của Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước đưa thì bắt đầu từ sau 31/10/2006 thì các công ty chứng khoán muốn thành lập sẽ áp dụng quy định của Luật Chứng Khoán mới. Điều này được phía Ủy Ban Chứng Khoán giải thích là do quá trình thẩm định cấp phép thành lập cho các công ty chứng khoán phải kéo dài trong khoảng từ 2.5 đến 3 tháng. Như vậy tổ chức nào đăng ký thành lập sau ngày 31/10/2006 sẽ phải cần có mức vốn pháp định cho từng hoạt động kinh doanh theo Luật Chứng Khoán. Điều đó đã làm giảm đi sức ép thành lập công ty chứng khoán, giảm bớt gánh nặng cho Ủy Ban Chứng Khoán trong việc thẩm định thành lập công ty chứng khoán. Việc Ủy Ban Chứng Khoán ban bố điều trên nhằm mục đích giúp cho các nhà sáng lập các công ty chứng khoán có sự chuẩn bị tốt trong việc thành lập công ty chứng khoán, và sẵn sàng cho việc gia nhập thị trường. Có sự chuẩn bị tốt thì các công ty chứng khoán khi đi vào hoạt động sẽ hiệu quả hơn. Và áp dụng quy định về vốn pháp định cho các hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ giúp cho các công ty chứng khoán trở lên vững trãi hơn trong việc cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài hay chính giữa các công ty trong nước với nhau. Các quy định này là những biện pháp mà nhà nước thực hiện để nhằm nâng cao chất lượng của các công ty chứng khoán trước hội nhập WTO, và thị trường ngày càng phát triển do đó mà các hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực này cần được nâng cao về chất lượng và quy mô. Vì vậy việc các tổ chức đua nhau thành lập công ty chứng khoán với mức vốn pháp định thấp là điều không hề hợp lý cho xu hướng hiện nay và đi ngược lại những gì mà chúng ta đang cố gắng thực hiện. b. Các công ty nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam: Các công ty tổ chức nước ngoài có quy mô lớn về mặt tài chính và kinh nghiệm già dặn hơn chúng ta rất nhiều. Các tổ chức này có thể tận dụng được các lợi thế đó để cạnh tranh với các tổ chức, công ty của chúng ta. Như vậy có thể nói rằng các công ty chứng khoán sẽ không đủ sức cạnh tranh với các thế lực nước ngoài. Thực tế đó hoàn toàn có thực và chính chúng ta cũng đã tính đến các vấn đề đó khi tiến hành mở thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Chúng ta đã dự trù các công ty chứng khoán của chúng ta trong điều kiện ban đầu khi thị trường chứng khoán mới mở thì quy mô sẽ rất nhỏ không đủ sức cạnh tranh, do hoàn cảnh thị trường tài chính nước ta lúc bấy giờ còn yếu. Vì vậy việc hạn chế các tổ chức nước ngoài tham gia vào thị trường để kiểm soát tình trạng thao túng và lũng đoạn thị trường. Như vậy trong giai đoạn đầu chúng ta chỉ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia vào thị trường chúng ta dưới hình thức liên doanh góp vốn. Và họ chỉ được đóng góp không quá 30% trong tổng vốn điều lệ liên doanh. Thông qua việc góp vốn liên doanh của các công ty chứng khoán nước ngoài để tận dụng lợi thế về mặt kỹ thuật và kinh nghiệm về hoạt động trên thị trường mà các tổ chức đó đem lại. Hiện tại, đại đa số các công ty chứng khoán Việt Nam vốn và kinh nghiệm vẫn còn ít, do đó nó chỉ cho phép một vài công ty liên doanh được hoạt động trên thị trường. Thực tế đã có ba công ty chứng khoán tham gia vào thị trường Việt Nam thông qua liên doanh liên kết với các công ty chứng khoán của ta là công ty chứng khoán ABCS, công ty chứng khoán Sacombank, công ty chứng khoán Kim long. Các tổ chức đó đã tham gia vào thị trường bằng cách mua lại cổ phần của các công ty trên, với mức cổ phần trao đổi đều dưới 20%. Trong năm nay khi thị trường đang phát triển mạnh mẽ và chúng ta chính thức gia nhập WTO vì vậy chúng ta đã có những chính sách thông thoáng cho các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia vào thị trường dưới hình thức văn phòng đại diện. Và điều đó đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức và đã có 5 công ty chứng khoán mở văn phòng đại diện ở Việt Nam để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Năm công ty chứng khoán nước ngoài mở văn phòng đại diện ở Việt Nam là : công ty Nomura International Limited (Hồng Kông), công ty Black Horse Asset Management Ple.ltd (Xingapo), công ty Mirae Asset Maps Investment Management Co.ltd (Hàn Quốc), Ngân hàng đầu tư Tong Yang (Hàn Quốc), công ty trách nhiệm hữu hạn quản lý tín thác đầu tư Hàn Quốc. Tuy nhiên không chỉ các tổ chức tham gia kinh doanh các hoạt động chứng khoán mới bị hạn chế, các nhà đầu tư nước ngoài cũng bị hạn chế về quy mô nắm giữ chứng khoán. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng chỉ được phép nắm giữ không quá 20% , tổ chức không được nắm quá 7% còn cá nhân nước ngoài không được quá 3% trong tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành. Không chỉ có cổ phiếu mới giới hạn về tỉ lệ nắm giữ mà các trái phiếu cũng bị hạn chế. Mặc dù trái phiếu không mang lại các quyền như trong cổ phiếu nhưng nếu nắm giữ một lượng lớn các trái phiếu các nhà đầu tư có thể thâu tóm lũng đoạn thị trường. Tóm lại sự tham gia của các tổ chức hay cá nhân nước ngoài vừa đem lại cho chúng ta những yếu tố thuận lợi như về kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm. Nhưng nó lại có thể huỷ hoại thị trường của chúng ta bất cứ lúc nào dựa vào quy mô và kinh nghiệm, kỹ thuật những gì mà họ đem đến cho chúng ta. Trong thực trạng hiện nay thì hạn chế hoạt động của các tổ chức, cá nhân nước ngoài là liệu pháp thích hợp. 3. Giải pháp để phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam : Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta cần có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu trên thị trường quốc tế. Chúng ta đã thấy được sức mạnh của yếu tố nước ngoài đến thị trường chúng ta như thế nào. Trước yêu cầu cấp bách trên chúng ta cần có biện pháp phát triển các công ty chứng khoán. Một kế hoạch phát triển các công ty chứng khoán đã được Chính Phủ phê duyệt và thuộc kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 6 tháng 10 năm 2006 được Bộ Tài Chính ban hành và kế hoạch phát triển các công ty chứng khoán đã được Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước xây dựng với những mục tiêu, kế hoạch, lộ trình thực hiện cụ thể. Kế hoạch thực hiện nhằm đạt được ba mục tiêu : thứ nhất, làm tăng quy mô và nguồn lực của các công ty chứng khoán để đáp ứng nhu cầu hội nhập phát triển. Thứ hai, là áp dụng thông lệ tốt nhất về quản trị công ty đối với công ty chứng khoán. Mục tiêu thứ ba là mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết. Để có thể đạt được các mục tiêu này chúng ta cần triển khai các hoạt động cần thiết. Các hoạt động cần thực hiện gồm bốn nội dung chính. * Nội dung đầu tiên, là phải xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Chứng Khoán mới. Trong nội dung này cần thực hiện các nhiệm vụ nhỏ khác. Đó là xây dựng văn bản hướng dẫn về mức vốn pháp định đối với công ty chứng khoán và lộ trình thực hiện tăng vốn của các công ty chứng khoán. Đồng thời phải đạt được về mặt số lượng và mặt chất lượng trong việc thực hiện Luật Chứng Khoán, bằng các công cụ như sửa đổi văn bản hướng dẫn về thuế, phí và lệ phí đối với công ty chứng khoán theo hướng đưa lĩnh vực kinh doanh chứng khoán ra khỏi nghành nghề có ưu đãi đầu tư. Hoặc thông qua tăng mức lệ phí cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán. Áp dụng cơ chế cho phép trích lập và sử dụng nguồn thu từ lệ phí cấp phép kinh doanh theo hướng gắn với thu nhập và quyền lợi của người chịu trách nhiệm thẩm định cấp giấy phép và giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán. * Nội dung thứ hai, Nâng cao quy mô năng lực và chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán cung cấp, và áp dụng thông lệ tốt nhất về công ty chứng khoán. Bằng cách ban hành và áp dụng điều lệ mẫu đối với công ty chứng khoán, xây dựng và ban hành bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kinh doanh chứng khoán. Xây dựng và áp dụng chương trình đào tạo chuyên sâu cho lãnh đạo và người hành nghề kinh doanh chứng khoán của công ty. Từ đó nâng cao trình độ năng lực của lãnh đạo và toàn bộ nhân viên thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, tiếp xúc trực tiếp và quản lý tiền, chứng khoán của khách hàng thì đều phải có chứng chỉ. Đồng thời khuyến khích các công ty chứng khoán mở rộng mạng lưới hoạt động, trên cơ sở liên kết với các ngân hàng được cấp phép cung cấp các dịch vụ lưu ký chứng khoán dưới hình thức đại lý nhận lệnh hoặc phòng giao dịch. * Nội dung tiếp theo, phát triển công tác quản lý giám sát của các cơ quan quản lý công ty chứng khoán. Công tác giám sát dựa trên cơ sở giám sát đối với từng vấn đề. Giám sát hồ sơ về điều kiện cấp phép kinh doanh của các cá nhân, tổ chức. Thực hiện giám sát trước cấp phép đối với tổng giám đốc theo pháp luật. Từ đó đảm bảo được năng lực của công ty chứng khoán sau khi được thành lập. Nghiên cứu áp dụng việc giám sát công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động dựa trên các tiều chí đánh giá rủi ro. Đây là mô hình tiên tiến May_Sin dựa trên cơ sở tự đinh giá của công ty và giám sát công ty của Sở giao dịch và Ủy ban chứng khoán. Thông qua đó cung cấp cho công ty chứng khoán một cái nhìn toàn diện về chính bản thân để từ đó có thể xác định, quản lý, giám sát những rủi ro trong kinh doanh. Ngoài ra, công tác giám sát thanh tra cần tổ chức lại theo hướng có ban chuyên trách thực hiện việc giám sát tuân thủ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Ban cưỡng chế được lập ra để thực thi pháp luật, xác định phạm vi giám sát giữa các Trung tâm giao dịch chứng khoán và Sở giao dịch với các đơn vị khác trong Ủy ban chứng khoán. Cùng với các hoạt động trên là đào tạo chuyên môn cho cán bộ nhân viên của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Và bổ sung, sửa đổi chế độ kê toán trong công ty chứng khoán nhằm đảm bảo quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán một cách minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. * Nội dung cuối cùng của kế hoạch là thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế và khu vực cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam. Đó là việc ban hành văn bản hướng dẫn công ty chứng khoán nước ngoái mở chi nhánh và văn phòng đại diện tại Việt Nam. Và về góp vốn thành lập công ty chứng khoán tại Việt Nam, cùng với thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Đây là điều hoàn toàn phù hợp trong xu hướng phát triển trong tương lai. Như vậy, trong vài năm tới khi hoàn thành kế hoạch phát triển công ty chứng khoán và thị trường chứng khoán. Lúc đấy thị trường chứng khoán của chúng ta sẽ thay đổi hơn hiện tại bây giờ để đáp ứng nhu cầu hội nhập thế giới. Sau đây tôi xin trình bày những đánh giá của hoạt động TTCK 2005 và những nhiệm vụ phát triển TTCK năm 2006. Thứ nhất, những hoạt động của TTCK năm 2005: * Những kết qủa đạt được: Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2005 đã có bước phát triển khá, hoạt động thị trường tương đối sôi động, tạo niềm tin và sự hứng khởi cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, tạo cơ sở phát triển mạnh TTCK trong giai đoạn tới, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau: -Hoạt động đấu giá cổ phần hoá và phát hành cổ phiếu ra công chúng làm cho thị trường sơ cấp phát triển; đồng thời cũng tạo thêm hàng hoá mới cho thị trường thứ cấp. - Thực hiện Nghị định 187/CP về chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần, các TTGDCK đ• tổ chức đấu giá cổ phần cho 64 doanh nghiệp, thu về gần 4.574 tỷ đồng, gấp gần 1,5 lần giá trị mệnh giá và tăng hơn 527 tỷ đồng so với giá khởi điểm. Các công ty chứng khoán đã tư vấn niêm yết và tổ chức đấu giá cho trên 500 doanh nghiệp. -Trong năm 2005, có 5 công ty cổ phần phát hành cổ phiếu ra công chúng huy động 132,6 tỷ đồng; 10 công ty đã niêm yết trên TTGDCK TP Hồ Chí Minh phát hành thêm cổ phiếu huy động 661,58 tỷ đồng. - Qui mô thị trường giao dịch chứng khoán tăng với tốc độ lớn nhất trong 5 năm qua. So với năm 2004, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch (theo mệnh giá) tăng 64%; giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch tăng gấp 1,6 lần, tương đương 6,1% GDP năm 2005 (so với mức 3,9% năm 2004) trong đó cổ phiếu là 1,2% GDP; có trên 31.000 tài khoản giao dịch chứng khoán, tăng 45%, trong đó số tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài tăng gấp 2 lần. - Cùng với sự phát triển của TTGDCK TpHCM, việc ra đời của TTGDCK Hà Nội đã góp phần hoàn chỉnh mô hình TTCK Việt Nam. - TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh đã được nâng cấp hệ thống giao dịch nhằm đáp ứng qui mô giao dịch chứng khoán tăng nhanh đồng thời đã tổ chức giám sát các hoạt động giao dịch trên TTCK dảm bảo an toàn, thông suốt. - TTGDCK Hà Nội đã khai trương hệ thống đấu giá cổ phần hoá từ tháng 3/2005 và đưa hệ thống giao dịch thứ cấp vào hoạt động từ tháng 8/2005. Đến nay đã có 9 công ty đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội với giá trị vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng, vốn thị trường khoảng 1.800 tỷ đồng. Giá trị giao dịch chứng khoán bình quân 2-3 tỷ đồng/phiên. Đây là kết quả bước đầu quan trọng, trên cơ sở đó tăng thêm hàng hoá cho thị trường và hoàn chỉnh cơ chế giao dịch. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển về qui mô và chiều sâu, góp phần tích cực thúc đẩy cổ phần hoá DNNN - Trong năm có 5/13 công ty chứng khoán tăng vốn điều lệ và bổ sung nghiệp vụ, mức vốn bình quân của các công ty chứng khoán tăng 30% so với năm 2004 (từ 46,6 lên 60,5 tỷ đồng/công ty), 11/14 công ty được cấp phép hoạt động đủ 5 nghiệp vụ. Nghiệp vụ tự doanh và quản l?ý danh mục đầu tư được các công ty chứng khoán triển khai mạnh. Các công ty chứng khoán tư vấn cổ phần hoá cho 525 doanh nghiệp chiếm 76% số DNNN cổ phần hoá trong năm 2005 và trực tiếp tổ chức đấu giá thành công cho 229 công ty. Nhìn chung các công ty chứng khoán đã kinh doanh có lơi. - Trong năm 2005 đã có thêm 4 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được cấp phép thành lập và hoạt động, trong đó có 3 công ty quản lý quỹ thuộc công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ liên doanh; Các công ty đã thực hiện quản lý quỹ công chúng, uỷ thác đầu tư và quỹ thành viên lên tới 8.165 tỷ đồng. Hiện các công ty đã có kế hoạch huy động vốn thành lập các quỹ công chúng, quỹ thành viên. - Quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK năng động và hiệu quả hơn Có sự chỉ đạo quyết liệt và sát sao của Chính phủ, của Bộ Tài chính trong việc ban hành và thực thi các chính sách tạo hàng hoá cho thị trường, chính sách thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài vào TTCK Việt Nam, cụ thể là: - Quyết định 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa tích cực thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN theo cơ chế mới, đồng thời tạo thêm hàng hoá cho TTCK. Bên cạnh doanh nghiệp lớn như Vinamilk còn có nhiều doanh nghiệp đã và đang tích cực chuẩn bị niêm yết vào năm 2006. - Sau khi Quyết định 238/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của nước ngoài được Thủ tướng ban hành, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn và vai trò của UBCK là giám sát thực hiện. Qui định mới này đã tạo điều kiện cho các công ty quản lý quỹ liên doanh được thành lập, các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của công ty chứng khoán; Tăng số lượng nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK. - UBCK đã tổ chức tuyên truyền, phổ cập kiến thức với quy mô lớn nhất trong 5 năm qua. Đã có 41 lớp tập huấn nghiệp vụ, 28 lớp phổ cập kiến thức ra công chúng cho gần 6 nghìn lượt người, đặc biệt là tuyên truyền về cơ chế kết hợp cổ phần hoá với niêm yết, đăng ký giao dịch. Mặt khác, việc liên hệ với các cơ quan báo chí đ• hỗ trợ UBCK truyền tải thông tin TTCK đến với công chúng. - Bộ Tài chính đã ban hành tiêu chí tài chính đánh giá hoạt động các CTCK, công ty quản lý quỹ; UBCK đã ban hành các quy trình giám sát, thanh tra; TTGDCK Hồ Chí Minh đ• ban hành tiêu chí cảnh báo giao dịch trên Trung tâm. Các quy định này được áp dụng đã góp phần phòng ngừa những rủi ro, tăng cường giám sát từ xa đối với các hoạt động trên TTCK. * Những hạn chế: - Quy mô TTCK vẫn còn nhỏ, chưa có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia thị trường; chất lượng công bố thông tin, quản trị công ty đã được tăng cường nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường và yêu cầu của hội nhập. - Cấu trúc TTCK chưa hoàn chỉnh, hoạt động của TTGDCK Hà Nội cần được đánh giá để hoàn chỉnh dần cơ chế vận hành cho thị trường này theo hướng phi tập trung. Chưa thiết lập được một thị trường giao dịch trái phiếu riêng biệt. - Quy mô và chất lượng của các CTCK cần được mở rộng để đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường; trong đó cần chú trọng đạo đức nghề nghiệp. - Hệ thống giám sát, cưỡng chế thực thi của UBCK chưa thực sự hoàn chỉnh; cần có đổi mới về cơ chế và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết cũng như năng lực cán bộ cho công tác này. -Trình độ công nghệ thông tin của các TTGDCK, các CTCK còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển tương lai của thị trường. Thứ hai, mục tiêu và nhiệm vụ năm 2006: * Mục Tiêu Cơ Bản - Tiếp tục mở rộng quy mô TTCK; phấn đấu tổng giá trị cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch trên các TTGDCK đến cuối năm 2006 đạt 2-3% GDP; - Hoàn thiện thể chế TTCK, trên cơ sở đó cần cấu trúc lại thị trường giao dịch chứng khoán tập trung, nâng cao vai trò của các tổ chức tự quản; - Tăng cường tính minh bạch, và chất lượng hoạt động của thị trường gắn liền với công tác kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty và tăng cường công tác quản lý, giám sát thị trường, cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý Nhà nước. * Nhiêm Vụ Và Giải Pháp -> Nhiệm vụ cơ bản - Hoàn chỉnh khung pháp lý: Trình Quốc hội thông qua Luật Chứng khoán trong năm 2006 đồng thời với ban hành văn bản hướng dẫn Luật của Chính phủ và Bộ Tài chính. - Tiếp tục thực hiện các chính sách góp phần phát triển hàng hoá cho TTCK trên cơ sở kết gắn tiến trình cổ phần hóa các DNNN thông qua các hoạt động đấu giá cổ phần hóa, bán bớt phần sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đưa các doanh nghiệp có quy mô lớn vào niêm yết và đăng ký giao dịch. - Hoàn thiện các thị trường giao dịch chứng khoán và các tổ chức phụ trợ: - Đối với TTGDCK TP HCM: Cùng với nâng cấp hệ thống giao dịch hiện tại, xây dựng đề án chuyển TTGDCK Tp.HCM thành Sở Giao dịch chứng khoán trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. - Đối với TTGDCK Hà Nội đánh giá lại hoạt động của TTGDCK Hà Nội hiện tại; phối hợp với chuyên gia nước ngoài xây dựng mô hình giao dịch của TTGDCK Hà Nội theo hướng thị trường phi tập trung. - Xây dựng thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt, trước mắt là giao dịch trái phiếu Chính phủ theo hướng thị trường phi tập trung kết nối với thị trường mở. - Nghiên cứu và ban hành quy định cho phép các CTCK được tổ chức giao dịch các chứng khoán không niêm yết trên TTGDCK. - Đưa Trung tâm Lưu ký chứng khoán vào hoạt động từ quí 2/2006 trên cơ sở chuyển nghiệp vụ lưu ký, thanh toán từ TTGDCK sang TTLKCK đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch bình thường tại các TTGDCK. - Phát triển hệ thống các tổ chức tài chính trung gian: - Nghiên cứu trình Chính phủ nâng mức vốn pháp định đối với các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. - Phối hợp với Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán nghiên cứu và ban hành tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đối với các công ty chứng khoán. - Khuyến khích các tổ chức tín dụng, bảo hiểm thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ tham gia TTCK với vai trò là tổ chức trung gian và là nhà đầu tư chứng khoán có tổ chức. -> Giải Pháp cơ bản - Trình Bộ Tài chính ban hành cơ chế mới về quản trị công ty đối với các tổ chức phát hành, niêm yết trên TTCK thay thế cho quyết định số 07 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ về việc ban hành Mẫu điều lệ đối với công ty niêm yết. - Trình Bộ Tài chính ban hành chế độ thu phí của TTGDCK nhằm tạo điều kiện cho các TTGDCK tăng tính tự chủ về mặt tài chính đồng thời tạo điều kiện cho các thành viên thị trường hạch toán đầy đủ chi phí với tính cạnh tranh cao hơn. - Cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp phép niêm yết, cấp phép thành lập và hoạt động đối với công ty chứng khoán, công ty quản l?ý quỹ. - Nghiên cứu trình Bộ Tài chính hướng dẫn cho các doanh nghiệp thí điểm niêm yết cổ phiếu trên TTCK nước ngoài. - Nghiên cứu và hướng dẫn triển khai các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán như quỹ thành viên, quỹ đại chúng, nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư kết nối giữa các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ với đầu tư chứng khoán. - Xây dựng đề án phát triển công nghệ thông tin ngành chứng khoán, chỉ đạo các TTGDCK, công ty chứng khoán xây dựng và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin theo mô hình, tiêu chuẩn thống nhất. Các công ty chứng khoán chủ động xây dựng hệ thống công nghệ thông tin của mình tương thích với thị trường chung. - Hoàn chỉnh bộ giáo trình đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán; cải tiến thủ tục hành chính trong việc cấp chứng chỉ hành nghề. - UBCKNN đánh giá lại tiêu chí giám sát, cảnh báo, hoàn chỉnh cơ chế giám sát, thanh tra, xử l?ý nghiêm các sai phạm trên TTCK./. III . KẾT LUẬN Tổng kết lại ta thấy rằng thị trường chứng khoán là hướng mới trong sự phát triển của thị trường tài chính. Thị trường thực hiện việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng. Tăng thêm nguồn vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp cần vốn đầu tư và phát triển kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp chính là sự phát triển của đất nước. Điều đó nói nên rằng thị trường chứng khoán là một lựa chọn đúng đắn cho sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay. Trước yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán đòi hỏi trước hết chúng ta phải phát triển các công ty chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các công ty cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho thị trường chứng khoán có thể hoạt động được thông suốt. Đó là tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người cần vốn, cung cấp cơ chế giá cả giao dịch. Đồng thời làm tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán và góp phần điều tiết và bình ổn thị trường. Thông qua các nghiệp vụ như môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tự doanh công ty chứng khoán đã hỗ trợ cho thị trường chứng khoán và cả các chủ thể khác tham gia vào thị trường . Đó là hỗ trợ các công ty có nhu cầu phát hành chưng khoán, đồng thời cũng là người bảo lãnh phát hành cho các công ty niêm yết. Đồng thời là nơi để các nhà đầu tư có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Thông các công ty chứng khoán các nhà đầu tư có thể hoàn toàn yên tâm với các tài sản và về các quyết định của mình thông qua hoạt động quản lý tài sản và tư vấn đầu tư chứng khoán. Vậy có thể khẳng định được rằng công ty chứng khoán có vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán. Do đó trong sự phát triển của thị trường chứng khoán cần phải đi kèm với sự phát triền của các công ty chứng khoán. Bây giờ chúng ta đang thực hiện kế hoạch nhằm phát triển các công ty chứng khoán để đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc tê. Trong tương lai không xa chúng ta có thể tin rằng thị trướng chứng khoán hay các công ty chứng khoán của nước ta sẽ phát triển và lớn mạnh hơn bây giờ , trở thành đối thủ ngang hàng, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức quốc tế. Trước khi điều đó xảy ra thì bây giờ chúng ta hãy cùng nhau hoàn thiện kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán. VI. Tài Liệu Tham Khảo: 1. Giáo trình lý thuyết Tài chính-Tiền tệ_2002 TS.NGUYỄN HỮU TÀI 2. Giáo trình thị trường chứng khoán _2002 PGS.TS.NGUYỄN VĂN NAM PGS.TS.VƯƠNG TRỌNG NGHĨA 3. Tài liệu của UBCKQG 4. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính_FREDERIC S.MISHKIN 5. Thị trường chứng khoán Việt Nam mô hình và bước đi_2000 TS.NGUYỄN SƠN TS.NGUYỄN QUỐC VIỆT 6. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam_số 6, 9,11 năm 2006 7. Ngoài ra còn sử dụng tài liệu của một số báo và tạp chí khác VII. PHỤ LỤC (Một số công ty niêm yết giá trên TTCK)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0784.doc
Tài liệu liên quan