Trên cơ sở tham khảo quy định về
CTBT trong TTHS một số nước, có thể rút
ra một số kinh nghiệm, định hướng cho
việc hoàn thiện quy định về CTBT trong
TTHS Việt Nam như sau:
- Cần hoàn thiện quy định về chủ thể
TTHS nói chung, CTBT nói riêng theo
hướng phân định rành mạch giữa các
nhóm chủ thể, đảm bảo bình đẳng giữa
bên buộc tội và bên bào chữa, tránh chồng
chéo giữa việc thực hiện chức năng bào
chữa và chức năng xét xử.
- Với đặc điểm của TTHS Việt Nam
thiên về thẩm vấn, vai trò buộc tội của
CQĐT được thể hiện một cách rõ nét.
Vấn đề có thể học hỏi từ pháp luật
TTHS của các nước là quy định về mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS/Viện Công
tố trong đó Viện Công tố/VKS giữ vai
trò chỉ đạo, định hướng điều tra nhằm
phục vụ cho mục tiêu chung là thực
hiện chức năng buộc tội;
- Có thể học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong việc trao nhiều “thực quyền”
hơn cho Công tố viên, ĐTV - những người
trực tiếp thực hiện các hoạt động điều tra,
truy tố - để họ có thể chủ động trong công
việc của mình đồng thời tránh sự chồng
chéo nhiều người cùng chịu trách nhiệm
về một việc nhưng khi xảy ra sai phạm thì
rất khó quy trách nhiệm (như trường hợp
của Trung Quốc);
- Về quyền buộc tội của bị hại, có thể
học hỏi được nhiều điểm từ pháp luật
TTHS của Liên bang Nga để bị hại có thể
bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đặc biệt là trong các vụ án
được khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự một số nước và kinh nghiệm đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
1. Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình
sự một số nước
1.1 Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình
sự ở một số nước theo mô hình tố tụng
tranh tụng
* Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, cả chính phủ liên bang
và các bang đều có thẩm quyền truy tố
tội phạm hình sự. Chính phủ liên bang
và mỗi tiểu bang có các đạo luật hình sự,
hệ thống tòa án, Công tố viên và cơ quan
cảnh sát riêng. Trách nhiệm điều tra, truy
tố tội phạm ở Hoa Kỳ thuộc nhánh quyền
lực hành pháp. Tất cả các Công tố viên của
Hoa Kỳ đều thuộc Bộ Tư pháp.
Nhiệm vụ chính của cơ quan công
tố/Công tố viên là tiếp nhận và nghiên
cứu kết quả điều tra từ CQĐT và trình
bày chứng cứ buộc tội trước đại bồi thẩm
đoàn. Công tố viên đại diện cho Hoa Kỳ
trong mọi vụ TTHS của Tòa án Liên bang,
phải có mặt tại tòa và tham gia tích cực vì
quyền lợi của Hoa Kỳ trong mỗi giai đoạn
tố tụng; ra quyết định về các vấn đề: có
truy tố không, truy tố về tội danh gì đối
với các tội đại hình (nghiêm trọng), tuy
nhiên việc truy tố phải được đại bồi thẩm
đoàn phải đồng ý. Đại bồi thẩm đoàn bao
gồm 16 - 23 thành viên có trách nhiệm
xem xét mọi tình tiết, chứng cứ đưa ra để
bỏ phiếu thông qua quyết định buộc tội.
Theo quy định, để truy tố một người, ít
nhất 12 thành viên của Đại bồi thẩm đoàn
phải nhất trí là có đủ tình tiết, chứng cứ
chứng tỏ bị can đã phạm tội. Theo Hiến
pháp, người bị khởi tố về tội có mức hình
* Thạc sĩ, Phó trưởng khoa, phụ trách khoa Khoa Đào
tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư
– Học viện Tư pháp
CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC VÀ
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LÊ THỊ THÚY NGA *
Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào mô hình TTHS, truyền thống pháp luật
mà việc xác định chủ thể buộc tội (CTBT) có sự khác biệt. Có thể nghiên cứu
về vấn đề này ở một số quốc gia điển hình cho ba nhóm nước theo các mô
hình TTHS khác nhau: mô hình TTHS tranh tụng, mô hình TTHS thẩm vấn
và mô hình TTHS chuyển đổi. Việc nghiên cứu về CTBT trong tố tụng hình
sự một số nước sẽ rất hữu ích cho việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ khóa: Chủ thể buộc tội, tố tụng hình sự.
In some nations, it depends on the model of criminal proceedings
and legal traditions to identify the differences between the accused
subjects. It can be researched under three categories of nations with the
different models of criminal proceedings including the litigation model,
the interrogation model, and the transformation model. The research
will play a very crucial role in improving some regulations of the Civil
Procedure Code of Vietnam.
Keywords: Accused subjects, criminal proceedings.
LÊ THỊ THÚY NGA
59Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phạt từ một năm tù trở lên có quyền được
quyết định truy tố bởi Đại bồi thẩm đoàn.
Đại bồi thẩm đoàn không có quyền phán
quyết một người nào đó có tội hay vô tội.
Việc đó chỉ được thực hiện tại phiên toà
xét xử chính thức sau này.(1) Công tố viên
phải đảm bảo thực thi công lý ngay cả khi
điều này đòi hỏi phải hủy bỏ lời buộc tội
(nghĩa là phải đảm bảo sự khách quan, vô
tư) bởi lẽ “nhiệm vụ về mặt pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp của Công tố viên
là thực thi công lý và tìm ra sự thật, chứ
không phải để buộc tội”(2).
Công tố viên Hoa Kỳ có quyền tùy
nghi truy tố rộng lớn. Một Công tố viên
liên bang có thể quyết định không truy tố
một tội phạm, nếu thấy vụ việc quá nhỏ
để truy tố theo thẩm quyền liên bang. Khi
đó, cơ quan điều tra (liên bang) có thể
chuyển vụ việc cho một Công tố viên của
bang (nếu vụ việc đó có thể bị truy tố ở toà
án bang) và Công tố viên của bang cũng
có toàn quyền truy tố hay không truy tố.
Tương tự, Công tố viên liên bang có thể
không truy tố một tội phạm ít nghiêm
trọng nếu cho rằng, có giải pháp khác thay
thế, chẳng hạn bị cáo đồng ý bồi thường
cho nạn nhân(3).
Công tố viên cũng có vai trò quan
trọng trong thủ tục “thỏa thuận nhận tội”
(plea bargaing). Đây là thủ tục cho phép
Công tố viên đàm phán với bên bào chữa
1 Guide to Criminal Prosecutions in the United States,
https://www.oas.org/juridico/mla/en/usa/en_usa-int-
desc-guide.html
2 “Nhiệm vụ của Công tố viên là tìm kiếm công lý chứ
không phải chỉ để buộc tội” Tiêu chuẩn Công lý Hình sự
của Đoàn Luật sư Hoa Kỳ: Chức năng Công tố, § 3-1.2(c),
tham khảo tại địa chỉ
publications/criminal_justice_section_archive/crimjust_
standards_pfunc_blk.html#1.2
3 Guide to Criminal Prosecutions in the United States,
https://www.oas.org/juridico/mla/en/usa/en_usa-int-
desc-guide.html
để bị can nhận một tội nào đó và qua đó
đình chỉ thủ tục tố tụng đối với vụ án
hình sự đang diễn ra. Công tố viên có thể
sử dụng thoả thuận nhận tội để có được
lời khai từ những kẻ phạm tội ít nghiêm
trọng trong vụ án, để có chứng cứ kết tội
những kẻ phạm tội nghiêm trọng hơn.
Trong TTHS Hoa Kỳ, chức năng điều
tra của các cơ quan điều tra là chức năng
độc lập và không chỉ là một phần của
chức năng Công tố. Trong quá trình điều
tra do cơ quan điều tra tiến hành, Công
tố viên thường đóng vai trò rất nhỏ.
Ngay cả sau khi có cáo buộc hình sự tại
tòa, Công tố viên cũng không có quyền
ra lệnh cho ĐTV phải thực hiện bất cứ
bước điều tra nào để hỗ trợ chuẩn bị xét
xử. Tuy nhiên, thực tế việc ra lệnh cũng
không cần thiết vì cả ĐTV và Công tố
viên đều có mối quan tâm như nhau, đó
là họ đều muốn việc truy tố diễn ra thành
công. Vì thế, ĐTV sẽ rất nhiệt tình hỗ trợ
bất cứ hoạt động điều tra bổ sung nào mà
Công tố viên yêu cầu.
Người bị hại (nạn nhân) trong tố tụng
hình sự Hoa Kỳ không có quyền hay vai
trò nào như một nạn nhân có thể có; họ
tham gia tố tụng với vai trò như một nhân
chứng. Nếu nạn nhân thuê luật sư thì luật
sư này cũng không có vai trò chính thức
gì trong quy trình xét xử. Cả nạn nhân
và luật sư của nạn nhân đều không được
phép đặt câu hỏi cho bất cứ ai trong phiên
tòa. Tuy nhiên, tại một số Tòa án ở Hoa
Kỳ (ví dụ: Arkansas, Kentucky, North
Carolina và Tennesee) người bị hại vẫn có
thể thực hiện tư tố nhưng phải chịu mọi
phí tổn(4).
*Vương quốc Anh
4 Nguyễn Văn Tuân (2015), Một số vấn đề về luật
TTHS Việt Nam, tr.168
CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...
60 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
Mô hình TTHS của Anh cũng là mô
hình tố tụng tranh tụng điển hình, có
nhiều nét tương đồng với Hoa Kỳ. Trong
mô hình tố tụng tranh tụng nổi tiếng tại
Anh, các chức năng buộc tội, bào chữa và
xét xử có sự phân định rạch ròi, được ví
như là ba đỉnh của một tam giác cân, trong
đó vị trí, vai trò của chức năng buộc tội
và chức năng bào chữa là hai đỉnh ngang
nhau, đỉnh còn lại là chức năng xét xử với
vai trò của Thẩm phán như một trọng tài
không thiên vị(1). Chủ thể thực hiện chức
năng buộc tội trong TTHS Vương quốc
Anh là cơ quan cảnh sát và Cơ quan Công
tố Hoàng gia Anh. Cảnh sát của Vương
quốc Anh thực hiện nhiệm vụ điều tra.
Theo luật, mọi cảnh sát viên phải chịu
trách nhiệm cá nhân cho việc quyết định
sử dụng quyền pháp lý và thực thi nghĩa
vụ pháp lý đó trên thực tế. Hầu hết các vụ
việc hình sự do cảnh sát tiến hành. Trong
trường hợp cảnh sát quyết định buộc tội
thì họ chuyển hồ sơ cho Công tố viên để
quyết định có truy tố hay không. Cơ quan
Công tố Hoàng gia Anh, theo Bộ luật về
Công tố viên, trong TTHS Công tố viên
Hoàng gia có quyền tự quyết định những
vấn đề: Có khởi tố hay không, nếu đã khởi
tố thì có thể tiến hành tiếp tục tố tụng
không, quyết định việc truy tố người bị
cáo buộc ra tòa (trừ các vụ án không quan
trọng), chuẩn bị hồ sơ truy tố ra tòa án,
trình bày, bảo vệ cáo trạng tại tòa, đưa ra
yêu cầu về cách thức xét xử. Công tố viên
phải chịu trách nhiệm cá nhân về thẩm tra
chứng cứ cũng như việc thực hiện tố tụng
tại phiên toà.
1 Trần Thị Hương (2018), Luận án tiến sĩ luật học, Chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.69
1.2 Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình
sự ở một số nước theo mô hình tố tụng
thẩm vấn
* Cộng hoà Italia
Cộng hòa Italia là đất nước theo
truyền thống luật dân sự Châu Âu lục
địa, tuy nhiên, việc thực hiện Luật Tố tụng
hình sự bắt đầu từ năm 1988 đã dẫn đến
sự bổ sung nhiều yếu tố tranh tụng vào
mô hình TTHS thẩm vấn truyền thống.
Chủ thể buộc tội trong TTHS Italia là cơ
quan cảnh sát và cơ quan Công tố trong
đó cơ quan Công tố giữ vai trò chủ chốt.
Cơ quan cảnh sát Italia được tổ chức
ở nhiều bộ ngành khác nhau, bao gồm lực
lượng cảnh sát quốc gia thuộc Bộ Nội vụ,
cảnh sát hiến binh thuộc Bộ Quốc phòng,
các bộ phận cảnh sát chuyên trách đặt
tại các cơ quan khác nhau trong bộ máy
nhà nước. Các lực lượng cảnh sát này có
nhiệm vụ giữ gìn trật tự xã hội, phát hiện
bắt giữ tội phạm và thực thi các nhiệm vụ
điều tra theo sự chỉ đạo của Công tố viên.
Trong quá trình TTHS, cảnh sát điều tra
luôn song hành và chịu sự chỉ đạo của
Công tố viên(2).
Cơ quan Công tố: Tại Italia, Văn phòng
Công tố có “độc quyền truy tố tội phạm
trong cả nước”(3). Italia không tổ chức cơ
quan Công tố độc lập theo cấp hành chính
mà cơ quan này nằm ngay trong toà án
các cấp; cơ quan Công tố chịu trách nhiệm
chính trong hoạt động điều tra và chỉ đạo
điều tra. Tại Toà án tối cao có Tổng Công
tố viên trưởng, tại toà án cấp phúc thẩm
và sơ thẩm có các văn phòng Công tố nhà
2 TS. Marco Fabro, Mô hình tố tụng hình sự của Cộng
hòa Italia, Sách chuyên khảo Những mô hình tố tụng
hình sự điển hình trên thế giới, Nxb Hồng Đức, tr.229
3 TS. Marco Fabro, Tlđd, tr.229.
LÊ THỊ THÚY NGA
61Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
nước. Văn phòng Công tố là nơi tiếp nhận
chủ yếu tin báo về tội phạm, lập hồ sơ hình
sự đồng thời hồ sơ Công tố viên trong
việc tham gia TTHS. Sau khi hồ sơ được
lập, vụ án được giao cho một Công tố viên
phụ trách. Công tố viên này sẽ “dẫn dắt
cuộc điều tra, truy tố người phạm tội một
cách công bằng và hiệu quả, đưa vụ án ra
trước tòa, thực thi các biện pháp phòng
ngừa và bản án cuối cùng mà Tòa án đưa
ra”(1). Hiến pháp Italia quy định nguyên
tắc “truy tố bắt buộc”, theo đó nếu có đủ
bằng chứng buộc tội thì Công tố viên bắt
buộc phải truy tố chứ không thể tự ý bỏ
qua tội phạm. Như vậy, có thể thấy Viện
Công tố là chủ thể buộc tội chủ yếu trong
TTHS Italia, là cơ quan tố tụng duy nhất
“tham gia một cách tích cực vào tất cả các
các công đoạn của quy trình TTHS”(2) và
được xem là “công cụ chủ yếu để trừng
phạt hành vi phạm tội, thực hiện chính
sách hình sự và kiểm soát tội phạm của
Italia”(3). Tuy nhiên, với vai trò tìm kiếm
công lý chứ không phải là buộc tội đơn
thuần, Công tố viên vẫn phải có trách
nhiệm điều tra các điều kiện và hoàn cảnh
mà có thể gỡ tội hoặc có lợi cho bị cáo.
Về vai trò của người bị hại, trong
TTHS Italia người bị hại được coi là người
bị thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần
bởi hành vi phạm tội. Pháp luật Italia
phân biệt người bị hại nói chung và người
bị thiệt hại về thân thể do hành vi phạm
tội gây ra(4). Vai trò của người bị hại trong
TTHS Italia khá khiêm tốn, chủ yếu thông
qua sự tác động tới hoạt động của Công
tố viên. Người bị hại có thể xuất hiện với
tư cách nguyên đơn dân sự tại phiên tòa(5).
1,2,3 TS. Marco Fabro, Tlđd, tr.230.
4,5 TS. Marco Fabro, Tlđd, tr.242.
Pháp luật Italia cũng quy định một số tội
chỉ có thể bị khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại, tuy nhiên, ngay cả trong
những trường hợp này thì người bị hại
cũng không trở thành bên Công tố, không
thể thay thế vai trò và chức năng của Viện
Công tố.
* Cộng hòa Liên bang Đức
Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình
sự Cộng hòa liên bang Đức gồm cơ quan
cảnh sát điều tra, Viện Công tố và người
bị hại.
Cơ quan cảnh sát đóng vai trò chính
trong quá trình điều tra. Họ có quyền và
nghĩa vụ “khởi động” TTHS, hành động
thay mặt Công tố viên và luôn được coi
là “cánh tay nối dài” của cơ quan Công
tố. Về nguyên tắc, Công tố viên là người
chỉ đạo hoạt động điều tra và đưa ra các
mệnh lệnh cho cảnh sát nhưng trên thực
tế cảnh sát thường chủ động tiến hành
các hoạt động điều tra. Chỉ trong những
trường hợp phức tạp và nghiêm trọng thì
cảnh sát điều tra mới chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của Công tố viên. Khi cảnh sát hoàn
thành việc điều tra, hồ sơ sẽ được chuyển
cho viện Công tố để quyết định việc truy
tố. Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý đối với
tất cả các hoạt động điều tra vẫn thuộc về
viện Công tố.
Viện Công tố: Cả cơ quan Công tố
Liên bang và cơ quan Công tố cấp bang
đều được tổ chức theo ngành dọc, song
song với hệ thống tòa án. Ở từng bang, cơ
quan Công tố được đặt song song tại tất
cả các cấp tòa án và thuộc quyền quản lý
của Bộ Tư pháp, mỗi cấp tòa án đều có các
cơ quan Công tố hoạt động độc lập (Điều
141, 147 Luật Tổ chức Tòa án Liên bang
CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...
62 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
Đức). Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền
ra các mệnh lệnh bắt buộc cho cơ quan
Công tố, lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan Công
tố nhưng ít khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp
thực hiện quyền này mà chỉ trong một số
trường hợp ngoại lệ. Trong giai đoạn tiền
xét xử (giai đoạn điều tra và truy tố), cơ
quan Công tố đóng vai trò trung tâm của
quá trình tố tụng và được coi là cơ quan có
trách nhiệm trong lĩnh vực tư pháp hình
sự, chịu trách nhiệm đối với tất cả các hoạt
động điều tra trong giai đoạn tiền xét xử.
Các cơ quan cảnh sát điều tra hình sự có
trách nhiệm thực hiện theo yêu cầu hay
mệnh lệnh của cơ quan Công tố (Điều 161
BLTTHS Đức). Trong giai đoạn xét xử vụ
án, Công tố viên có chức năng, nhiệm vụ
buộc tội. Công tố viên là người quyết định
truy tố người phạm tội ra toà và có trách
nhiệm đưa các chứng cứ tài liệu chứng
minh hành vi phạm tội, người phạm tội tại
phiên toà.
Người bị hại là nạn nhân của tội
phạm trước đây có vai trò không đáng
kể trong TTHS Đức, vai trò của họ
đơn thuần chỉ là nguyên đơn kiện bồi
thường về các thiệt hại dân sự. Địa vị
pháp lý của người bị hại đã được cải
thiện một cách đáng kể với sự ra đời
của Luật Bảo vệ nạn nhân năm 1986 mà
theo đó Luật TTHS cũng đã được sửa
đổi. Sự tham gia của người bị hại trong
tiến trình tố tụng được quy định thành
một phần riêng (Phần V) trong BLTTHS.
Người bị hại của các tội phạm nghiêm
trọng được bảo vệ tốt hơn và được bổ
sung một số quyền của một bên tham
gia tố tụng: quyền được thông tin về
tiến trình tố tụng (Điều 406), quyền tiếp
cận hồ sơ (Điều 406e), quyền được trợ
giúp pháp lý (Điều 406f), quyền khởi tố
lại và quyền được bồi thường thiệt hại
do tội phạm gâyra. Người bị hại của
tội phạm nghiêm trọng có thể tham gia
tích cực vào tiến trình tố tụng với vai trò
phụ cho Công tố viên. Người bị hại có
thể đưa ra yêu cầu truy tố các tội phạm
(quyền tư tố) mà không cần phải nhờ
cơ quan Công tố truy tố. Công tố viên
không bắt buộc phải tham gia vào thủ
tục tư tố. Nếu người bị hại có đại diện
theo pháp luật thì quyền yêu cầu tư tố
sẽ do họ thực hiện.
1.3 Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình
sự một số nước theo mô hình tố tụng chuyển
đổi
* Trung Quốc
Trong TTHS Trung Quốc, việc thực
hiện chức năng buộc tội thuộc về cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, người bị hại và
Tòa án cũng thực hiện một số hoạt động
thuộc về chức năng buộc tội. Cơ quan
điều tra đóng vai trò chính trong việc
phát hiện, khám phá tội phạm. Theo quy
định tại Điều 3 và Điều 18 Luật TTHS
Trung Quốc thì hầu hết việc điều tra
các vụ án hình sự do CQĐT tiến hành.
Riêng đối với một số tội phạm như: tội
tham ô, hối lộ, thiếu trách nhiệm của cán
bộ nhà nước, các tội xâm phạm quyền
cá nhân của công dân như giam giữ trái
phép, bức cung, dùng nhục hình, trả
thù, mưu hại, khám xét trái phép và tội
xâm phạm quyền dân chủ của công dân
do cán bộ nhà nước lợi dụng chức năng
và quyền hạn để thực hiện hoặc các tội
nghiêm trọng do cán bộ nhà nước thực
hiện bằng việc lợi dụng chức năng và
quyền hạn thuộc thẩm quyền điều tra
của Viện kiểm sát.
LÊ THỊ THÚY NGA
63Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Viện kiểm sát ở Trung Quốc được tổ
chức thành một hệ thống độc lập. Viện
kiểm sát nắm quyền Công tố, có quyền
điều tra và quyền giám sát thủ tục TTHS.
Việc thực thi quyền Công tố độc lập là
của toàn thể VKS chứ không phải của
mỗi KSV. Vì thế, KSV có quyền đề đạt ý
kiến và Viện trưởng quyết định sau khi
đã được trưởng phòng xem xét. Cơ chế
này gây khó khăn cho việc triển khai
công việc trong thực tế, khi sai sót thì
trách nhiệm dàn trải, khó có thể quy cho
ai(1). Nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn
điều tra là tiến hành điều tra các vụ án
thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc khởi tố
của CQĐT; phê chuẩn hoặc quyết định
bắt giữ, truy tố người phạm tội ra trước
toà án để xét xử. Trong đoạn xét xử, VKS
có trách nhiệm luận tội, đưa ra mức hình
phạt, giám sát hoạt động xét xử của tòa
án, bảo đảm làm rõ sự thật một cách
chính xác và kịp thời, vận dụng đúng
đắn pháp luật.
Tòa án: Trong mô hình TTHS Trung
Quốc, tòa án không chỉ thực hiện chức
năng xét xử mà còn thực hiện một số việc
của chức năng buộc tội như tham gia vào
quá trình điều tra, thẩm vấn tại phiên tòa,
trực tiếp xét hỏi và kiểm tra nhân chứng,
chứng cứ. Tuy nhiên, vai trò buộc tội của
hội đồng xét xử ở mức độ hạn chế hơn vì
luật TTHS Trung Quốc không đặt trách
nhiệm chứng minh tại tòa thuộc về hội
đồng xét xử mà đề cao vai trò buộc tội do
KSV thực hiện tại phiên tòa.
Người bị hại trong TTHS Trung Quốc
được coi là một bên tham gia tố tụng, từ
1 GS.Liling Yue, Mô hình tố tụng hình sự của Trung Quốc,
Sách chuyên khảo Những mô hình tố tụng hình sự điển
hình trên thế giới, Nxb Hồng Đức, tr.104
đó được hưởng hầu hết các quyền tố tụng
như những bên khác. Theo đó, ở giai đoạn
đầu của TTHS, người bị hại có quyền tố
cáo tội ác với công an, cơ quan Công tố
hoặc toà án (Điều 84 BLTTHS). Sau khi
công an, KSV hoặc thẩm phán xem xét đơn
tố giác tội phạm, họ có thể ra quyết định
không khởi tố điều tra, và với tư cách là
người tố giác tội phạm thì người bị hại có
quyền khiếu nại quyết định này (Điều 86,
BLTTHS). Tuy nhiên, người bị hại không
có quyền trực tiếp kháng cáo. Nếu người
bị hại và người đại diện hợp pháp không
đồng ý với bản án, họ chỉ có quyền kiến
nghị với cơ quan Công tố để kháng nghị
trong vòng năm ngày sau khi toà sơ thẩm
tuyên bố bản án. Cơ quan Công tố phải
xem xét kiến nghị và quyết định xem có
nên gửi đơn kháng nghị hay không.
* Liên bang Nga
Bộ luật TTHS Liên bang Nga hiện
hành phân chia các chủ thể tố tụng thành
các nhóm: Tòa án (Mục 5, Chương II), các
chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên buộc
tội gồm KSV, dự thẩm viên, thủ trưởng
cơ quan điều tra dự thẩm, cơ quan điều
tra ban đầu, ĐTV, người bị hại, tư tố viên,
nguyên đơn dân sự, người đại diện của
người bị hại, nguyên đơn dân sự (Mục
6, Chương II); các chủ thể tham gia tố
tụng thuộc bên bào chữa như người bị
tình nghi, bị can, người bào chữa (Mục
7, Chương II) và các chủ thể khác tham
gia TTHS như người làm chứng, người
phiên dịch (Mục 8, Chương II). Bộ
luật TTHS Liên bang Nga coi tòa án là
chủ thể trung tâm; KSV, dự thẩm viên,
thủ trưởng cơ quan điều tra dự thẩm, cơ
quan điều tra ban đầu, ĐTV chỉ là một
bên tham gia tố tụng. Điều này thể hiện
CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...
64 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
Liên bang Nga đã có những thay đổi căn
bản trong việc xác lập vị trí, vai trò của
các chủ thể tố tụng, chuyển đổi mạnh mẽ
từ mô hình thiên về thẩm vấn trước đây
sang mô hình thiên về tranh tụng.
Phạm vi các chủ thể thực hiện chức
năng buộc tội cũng như các quyền được
trao cho chủ thể buộc tội trong TTHS Liên
bang Nga khá rộng, tương ứng với việc
ghi nhận cả ba hình thức buộc tội: Công
tố, tư tố và công tư tố. Thẩm quyền thực
hiện chức năng buộc tội được giao cho
các cá nhân chứ không phải các cơ quan,
cụ thể chủ thể thuộc bên buộc tội gồm
dự thẩm viên (đối với điều tra dự thẩm),
thủ trưởng cơ quan điều tra dự thẩm,
cơ quan điều tra ban đầu, ĐTV (đối với
điều tra ban đầu), Kiểm sát viên, người
bị hại, tư tố viên, nguyên đơn dân sự,
người đại diện của người bị hại, nguyên
đơn dân sự.
2. Một số nhận xét và kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Từ việc nghiên cứu về CTBT của một số
quốc gia điển hình thuộc cả ba nhóm nước
theo các mô hình TTHS khác nhau cho phép
rút ra một số kết luận nổi bật như sau:
Thứ nhất, ở phần lớn các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia theo mô hình TTHS
tranh tụng, các chủ thể được phân định rõ
ràng theo chức năng cơ bản của TTHS mà
chủ thể đó tham gia thực hiện. Sự phân
định rành mạch này không chỉ thể hiện ở
việc phân nhóm các chủ thể TTHS mà còn
thể hiện ở quy định về địa vị pháp lý của
các chủ thể, về trình tự, thủ tục giải quyết
vụ án. Về cơ bản, tính độc lập của Tòa án,
sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào
chữa được đề cao.
Thứ hai, những quốc gia theo mô
hình tố tụng thiên về thẩm vấn có phạm
vi các CTBT rộng hơn so với các quốc gia
theo mô hình tố tụng thiên về tranh tụng.
Theo đó, tại các quốc gia theo mô hình
tố tụng thiên về tranh tụng, CTBT chủ
yếu là Công tố viên hoặc Công tố viên
và ĐTV với sự chỉ đạo sát sao của Công
tố viên đối với hoạt động điều tra; tại các
quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn,
bên cạnh Công tố viên, ĐTV, pháp luật tố
tụng hình sự còn quy định vai trò buộc
tội của người bị hại (người bị thiệt hại do
tội phạm gây ra) và người đại diện hợp
pháp của họ; mỗi chủ thể buộc tội được
trao các quyền và nghĩa vụ với mức độ
tham gia buộc tội trong quá trình tố tụng
khác nhau.
Thứ ba, vai trò buộc tội của Viện
Công tố/VKS được thừa nhận trong
TTHS của tất cả các quốc gia. Dù có sự
khác biệt về tổ chức (Viện Công tố/VKS
thuộc nhánh hành pháp hay tư pháp; là
hệ thống cơ quan độc lập hay trực thuộc
Bộ Tư pháp, trực thuộc tòa án tối cao)
song hoạt động của Viện Công tố/VKS
đều có tính độc lập nhất định. Ở các
quốc gia theo mô hình TTHS tranh tụng,
Viện Công tố chỉ thực hiện duy nhất
chức năng buộc tội trong khi ở một số
quốc gia khác như Trung Quốc bên cạnh
chức năng buộc tội VKS còn có chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ tư, về vai trò buộc tội của ĐTV/
cơ quan điều tra, phần lớn các quốc gia
thừa nhận vai trò buộc tội của chủ thể
này đồng thời với việc quy định mối
quan hệ chặt chẽ mang tính chỉ đạo,
giám sát của Công tố viên/Viện công tố/
Viện kiểm sát với hoạt động điều tra.
LÊ THỊ THÚY NGA
65Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Tuy nhiên, một số quốc gia như Hoa Kỳ,
cơ quan điều tra thực hiện chức năng
điều tra, tương đối độc lập và không
chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan
Công tố.
Thứ năm, việc thực hiện chức năng
buộc tội đối với các chủ thể đại diện cho nhà
nước phần lớn được trao theo chức trách,
chức danh tố tụng như ĐTV, Công tố viên/
Kiểm sát viên chứ không trao cho cơ quan
điều tra, cơ quan Công tố. Các chức danh
quản lý (chức vụ) như thủ trưởng cơ quan
điều tra, thủ trưởng cơ quan Công tố được
xác định là chủ thể TTHS ở một số quốc gia
như Trung Quốc, Liên bang Nga với thẩm
quyền cao hơn so với ĐTV, Công tố viên
thông thường. Ở các quốc gia khác, các chủ
thể quản lý này không phải là chủ thể tố
tụng hình sự, khi tham gia tố tụng hình sự
họ sẽ tham gia với tư cách và có các quyền,
nghĩa vụ như ĐTV, Công tố viên không có
chức vụ.
Trên cơ sở tham khảo quy định về
CTBT trong TTHS một số nước, có thể rút
ra một số kinh nghiệm, định hướng cho
việc hoàn thiện quy định về CTBT trong
TTHS Việt Nam như sau:
- Cần hoàn thiện quy định về chủ thể
TTHS nói chung, CTBT nói riêng theo
hướng phân định rành mạch giữa các
nhóm chủ thể, đảm bảo bình đẳng giữa
bên buộc tội và bên bào chữa, tránh chồng
chéo giữa việc thực hiện chức năng bào
chữa và chức năng xét xử.
- Với đặc điểm của TTHS Việt Nam
thiên về thẩm vấn, vai trò buộc tội của
CQĐT được thể hiện một cách rõ nét.
Vấn đề có thể học hỏi từ pháp luật
TTHS của các nước là quy định về mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS/Viện Công
tố trong đó Viện Công tố/VKS giữ vai
trò chỉ đạo, định hướng điều tra nhằm
phục vụ cho mục tiêu chung là thực
hiện chức năng buộc tội;
- Có thể học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong việc trao nhiều “thực quyền”
hơn cho Công tố viên, ĐTV - những người
trực tiếp thực hiện các hoạt động điều tra,
truy tố - để họ có thể chủ động trong công
việc của mình đồng thời tránh sự chồng
chéo nhiều người cùng chịu trách nhiệm
về một việc nhưng khi xảy ra sai phạm thì
rất khó quy trách nhiệm (như trường hợp
của Trung Quốc);
- Về quyền buộc tội của bị hại, có thể
học hỏi được nhiều điểm từ pháp luật
TTHS của Liên bang Nga để bị hại có thể
bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đặc biệt là trong các vụ án
được khởi tố theo yêu cầu của bị hại./.
Tài liệu tham khảo:
1. Tô Hòa (chủ biên) (2012), Sách
chuyên khảo Những mô hình tố tụng hình sự
điển hình trên thế giới, Nxb Hồng Đức.
2. ThS Trần Đại Thắng (2009), Mô
hình tố tụng hình sự thẩm cứu và đề xuất
hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam,
Tài liệu Hội thảo khoa học Mô hình luật tố
tụng hình sự Việt Nam do Viện KSNDTC
và Dự án DANIDA phối hợp tổ chức.
3. Nguyễn Văn Tuân (2015), Một số
vấn đề về luật TTHS Việt Nam, Nxb Tư
pháp.
4. Trần Thị Hương (2018), Luận án tiến
sĩ luật học, Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chu_the_buoc_toi_trong_to_tung_hinh_su_mot_so_nuoc_va_kinh_n.pdf