Ghép thực nghiệm mảnh san hô mang nguyên bào xương để tái tạo khuyết hổng xương: Mô hình thực nghiệm trên thỏ

Một tháng sau khi ghép mẫu san hô đối chứng, mạch máu bắt đầu xâm nhập vào bên trong khối san hô, tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy có rất ít mạch máu tân tạo xuất hiện bên trong khối san hô. Cấu trúc và chất nền khoáng của mẫu san hô vẫn còn, quá trình hủy và tạo xương diễn ra trên khối san hô tốt ở hai bên đầu xương, nơi tiếp xúc giữa khối san hô và phần thân xương ghép. Ba tháng sau khi ghép, bắt đầu xuất hiện các bè xương nơi khối san hô ghép cùng với sự xâm nhập của mạch máu tân tạo. Các bè xương được tạo ra trên chính khối san hô ghép. Tuy nhiên, không có nhiều bè xương được thay thế trên chính khối san hô. Quá trình hủy và tạo xương vẫn diễn ra tốt hơn ở nơi tiếp xúc giữa khối san hô và phần đầu xương. Năm tháng sau khi ghép, các bè xương ngày càng được tạo ra nhiều hơn, mạch máu bắt đầu xâm nhập vào khối san hô nhiều hơn. Các bè xương thay thế dần khối san hô, bè xương ngày càng to hơn. Sáu tháng sau khi ghép, mảnh san hô đã được thay thế gần như hoàn toàn thành xương tự thân, các bè xương to, có các tế bào xương nằm bên trong các bè xương cũng như các nguyên bào xương bám trên bề mặt các bè xương. Tuy nhiên, các bè xương chưa kết dính cũng như lắng đọng chất nền xương cùng với nhau để tạo thành màng xương hoàn chỉnh của thân xương.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 114 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ghép thực nghiệm mảnh san hô mang nguyên bào xương để tái tạo khuyết hổng xương: Mô hình thực nghiệm trên thỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học 9 GHÉP THỰC NGHIỆM MẢNH SAN HÔ MANG NGUYÊN BÀO XƯƠNG ðỂ TÁI TẠO KHUYẾT HỔNG XƯƠNG: MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM TRÊN THỎ Huỳnh Duy Thảo*, Ciro Gargiulo**, Trần Thị Thanh Thủy*, Nguyễn Khánh Hòa*, Lê Thanh Hùng***, Trần Công Toại* TÓM TẮT ðặt vấn đề: Nhu cầu ghép xương để điều trị cho các khuyết hõng xương lớn do bệnh lý hoặc tai nạn lao động ngày càng tăng cao nhưng số lượng mô xương ghép lại hạn chế, không cung cấp đủ nhu cầu cho người bệnh. Từ đó, nhóm chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích sử dụng san hô Porites lutea để mang các tế bào gốc được thu nhận từ tủy xương thỏ và kích thích biệt hóa các tế bào gốc này thành các nguyên bào xương để tạo ra vật liệu sinh học dùng để ghép thay xương không những là một giá thể để thay thế cấu trúc xương mà còn bổ sung thêm yếu tố tế bào để giúp quá trình liền xương diễn ra nhanh hơn và chất lượng lành xương hiệu quả hơn. ðối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thỏ được chia làm hai nhóm nghiên cứu. Một nhóm ghép san hô có mang nguyên bào xương và chỉ có ghép san hô (mẫu đối chứng). Kết quả ghép được đánh giá bằng hình ảnh học (X-Quang) và nhuộm mô học H&E. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm ghép san hô có mang nguyên bào xương thì quá trình liền xương xảy ra nhanh hơn và chất lượng lành xương là tốt hơn so với nhóm đối chứng. Kết luận: Với kết quả đạt được thì đây sẽ một mô hình nghiên cứu rất tốt khi có những bước tiến hành nghiên cứu trên người. Từ khóa: Tế bào gốc trung mô, tủy xương thỏ, giá thể san hô, khuyết hổng xương. ABSTRACT RABBIT MODEL OSTEOBLAST FROM BONE MARROW CULTURE AND DIFFERENTIATE ON CORAL AUTOGRAFT FOR BONE DEFECTED Huynh Duy Thao, Ciro Gargiulo, Tran Thi Thanh Thuy, Nguyen Khanh Hoa, Le Thanh Hung, Tran Cong Toai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - No 1 - 2013: 9 - 15 Introduction: Demand bone graft for the treatment of large bone defects due to pathology or accident are increasing but the amount of bone grafts are limited, do not supply the needs of the patient. Since then, Our group studied the subject for the purpose of using coral Porites lutea to bring stem cells derived from rabbit bone marrow and stimulates the differentiation of this stem cell into osteoblasts to produce biomaterial used for bone graft replacement not only a scaffold to replace the bone structure but also have brought cells to help the bone healing process takes place faster and more effective healing of bone quality. Materials and methods: Rabbits were divided into two groups. A group of coral transplants bring osteoblasts and only coral transplantation (control samples). Results of transplantation was assessed by imaging (X-ray) and histological staining H & E. * Bộ môn Mô-Phôi-Di truyền, ðH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch ** University of Western Autralia School of Anatomy and Human Biology, Perth, Australia *** Khoa Răng-Hàm-Mặt, ðH Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS Lê Thanh Hùng, ĐT: 0918.686.151, Email: ranghammat@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 10 Results: Research results showed that coral transplantation group brings osteoblasts, the bone healing process occurs faster and the quality of bone healing is better than the control group. Conclusion: With the results obtained, this will be a good research model when conducting research on human. Keywords: Mesenchymal Stem Cells, Rabbit Bone Marrow, Coral Scaffold, Bone Defect. ðẶT VẤN ĐỀ Mô xương có khả năng tự lành trong các trường hợp khuyết xương nhỏ. Tuy nhiên, trong các trường hợp mất xương dẫn đến khuyết hụt xương lớn do các tai nạn hoặc bệnh lý thì mô xương không có khả năng tự sửa chửa. ðể có thể điều trị hiệu quả trong các trường hợp này thì phải tiến hành ghép xương để lắp đầy các chổ hổng khuyết(17). Xương ghép có thể thu từ chính cơ thể người bệnh (ghép xương tự thân) hoặc từ người hiến (ghép xương đồng loại) hoặc có nguồn gốc không phải từ người (ghép xương dị loại). Có nhiều loại vật liệu thay thế xương có nguồn gốc từ kim loại, gốm, sứ, các loại polymer sinh học hoặc tổng hợp... Bên cạnh đó, để cải thiện chất lượng mảnh ghép các nhà nghiên cứu tạo ra các mảnh ghép có mang các tế bào xương hay tế bào tiền thân tạo xương để tạo ra một mô ghép xương vừa có các đặc tính cơ học của mô xương vừa mang các tế bào để giúp quá trình tái tạo và sửa chữa mô xương diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn(3,7,9). Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng san hô Porites lutea để sử dụng làm giá thể ghép có mang các nguyên bào xương thu từ tế bào gốc tủy xương tạo ra mô hình thực nghiệm ghép xương sử dụng giá thể san hô mang các nguyên bào xương tự thân trên đối tượng thỏ để thay thế các khuyết hổng xương được tạo ra trên thân xương đùi(1,2,3,4,8,9,11,12,15,17). Từ đó, nghiên cứu hoàn thiện quy trình ghép mảnh san hô thay xương trên thỏ để làm cơ sở cho các bước tiến hành nghiên cứu trên người trong các nghiên cứu tiếp theo của nhóm chúng tôi. ðỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thỏ Thỏ sử dụng trong nghiên cứu này là loại thỏ nâu, thu từ các trang trại ở Việt Nam. Thỏ trong nhóm nghiên cứu là các thỏ đực, khỏe mạnh, trong lượng từ 2,0 - 2,5 kg. ðược nuôi và chăm sóc trong các điều kiện nuôi nhốt như nhau. Thu nhận tủy xương Thỏ được tiến hành gây mê bằng Zoletil 50 (VIRBAC Lboratories, France). Sau đó, cắt lông phần đầu khớp xương gối, sử dụng Betadine (Zuellig Pharma) để sát trùng vùng lấy tủy. Sử dụng bơm và đầu kim 18G (Vihanmedico, HN, VN) để chọc hút dịch tủy. Mỗi lần thu nhận khoảng 2ml dịch tủy xương. Sau đó cho nhanh vào tube 15ml vô trùng (Corning, USA) và chuyển nhanh về phòng thí nghiệm. Tất cả các thao tác được tiến hành tại Trung tâm phẫu thuật thực nghiệm, ðH Y Dược TP. HCM, các bước tiến hành được đảm bảo tối đa yêu cầu về vô trùng. Phân lập tế bào gốc Tế bào gốc được thu nhận theo phương pháp lắng dựa vào tỉ trọng bằng dung dịch Ficoll- Hypaque (Amersham, Germany). Tủy xương được pha loãng với dung dịch PBS (Gibco, USA) theo tỉ lệ 1:2 (1 tủy xương: 2 PBS, v/v). Sau đó, đặt hỗn hợp dịch tủy xương trên lớp dịch Ficoll theo tỉ lệ 1:2 (1 dịch tủy xương: 2 Ficoll, v/v). Tiến hành quay ly tâm với tốc độ 2000 vòng/phút trong 20 phút. Thu nhận lớp tế bào đơn nhân nằm giữa lớp Ficoll và lớp huyết tương. Nuôi cấy tế bào với mật độ khoảng 105 tế bào/ml vào chai cấy 25 cm2 (Nunc, Wiesbaden, Germany) và đem ủ trong tủ ủ ấm ở nhiệt độ 370C, 5% CO2. Sau 3 ngày thay môi trường mới. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học 11 Biệt hóa tế bào gốc thu từ tủy xương thành nguyên bào xương Biệt hóa thành các nguyên bào xương bằng hỗn hợp môi trường cảm ứng tạo xương gồm DMEM/F12, 10% FBS, Dexamethasone 10-8M (Sigma), 10 mM/ml β-Glycerol phosphate (Sigma), 50 ng/ml Acid ascorbic (Sigma), 10ng/ml FGF-9 (Sigma), 10-7M Vitamin D2 (MekomPharma, HCM City, VN) và Pen/strep (100UI/0,1mg/ml). Môi trường cảm ứng tạo xương được thay mới mỗi 3 ngày. Sau khoảng thời gian nuôi từ 14-21 ngày tiến hành xác định tế bào sau biệt hóa bằng phương pháp nhuộm mô học bởi Alizarin Red, Von kossa và alkaline phosphatase. Chuyển tế bào gốc lên giá thể san hô San hô sử dụng trong nghiên cứu là loài Porites lutea lấy từ Phòng thí nghiệm Vật liệu sinh học, Bộ môn Mô-Phôi-Di truyền, Trường ðại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. San hô được thu nhận, xử lý và vô trùng theo quy trình của phòng thí nghiệm vật liệu sinh học để tạo ra giá thể dùng để mang các tế bào gốc thu nhận từ tủy xương thỏ. Tế bào gốc được chuyển lên giá thể san hô có kích thước 0,5 x 0,5 x 0,5 cm với mật độ tế bào 1 x 105 tế bào/ml. Tế bào được chuyển lên giá thể san hô dựa vào phương pháp ly tâm. Mảnh san hô sau khi quay ly tâm được đặt vào chai nuôi, bổ sung môi trường DMEM/F12, 10%FBS, kháng sinh và ủ ở 370C, 5% CO2. Sau một ngày nuôi tiến hành thay môi trường nuôi mới bằng môi trường cảm ứng tạo xương. Tiếp theo thay mới môi trường nuôi mỗi 3 ngày. Đánh giá sự phát triển và biệt hóa của tế bào trên giá thể san hô ðể đánh giá khả năng phát triển, tăng trưởng và biệt hóa của tế bào gốc thành nguyên bào xương trên giá thể san hô. Tiến hành nhuộm mô học H&E, chụp SEM để khảo sát sự phát triển, bám dính của tế bào trên vùng bề mặt của khối san hô. ðể đánh giá khả năng biệt hóa của tế bào gốc thành nguyên bào xương tiến hành nhuộm alkaline phosphatase. Ghép thực nghiệm in vivo mảnh san hô mang nguyên bào xương tự thân trên thỏ Từ kết quả nghiên cứu in vitro, tiến hành lấy tủy xương thỏ, nuôi cấy và biệt hóa các tế bào gốc tủy xương thành nguyên bào xương trên giá thể san hô. Sau đó, sẽ tiến hành phẫu thuật ghép tự thân các mẫu san hô này trở lại cho thỏ. Thí nghiệm được chia làm hai nhóm: Nhóm 1: ghép tự thân nguyên bào xương thỏ trên giá thể san hô. Nhóm 2: chỉ ghép san hô trên thỏ. Thỏ được theo dõi tại các thời điểm 1, 3 và 6 tháng. Tại các mốc thời gian này, thỏ sẽ được đánh giá bằng hình ảnh học (chụp X-Quang) và thu nhận mẫu mô để làm mô học H&E. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Kết quả nuôi cấy tế bào gốc tủy xương thỏ Kết quả cho thấy, đây là các tế bào bám dính, có hình dạng giống với các nguyên bào sợi, đó là những tế bào có hình dạng thon dài, hoặc hình thoi, bầu dục (Hình 1). Khả năng biệt hóa in vitro tế bào gốc tủy xương thành nguyên bào xương Các tế bào gốc từ tủy xương thỏ được biệt hóa thành các nguyên bào xương. Sau khoảng thời gian nuôi cấy từ 14-21 ngày, đánh giá các tế bào sau biệt hóa là các nguyên bào xương bằng các phương pháp nhuộm mô học như Alirazin Red, Von kossa và đánh giá sự biểu hiện của enzyme alkaline phosphatase(10,13,15,16). Từ kết quả nhuộm cho thấy đã biệt hóa thành các nguyên bào xương in vitro. Khả năng biệt hóa, bám dính và phát triển của tế bào trên giá thể san hô Kết quả nhuộm Giemsa và H&E Mẫu san hô mang nguyên bào xương được xử Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 12 lý trong dung dịch cố định (Neutral Buffer Formalin 10%-NBF 10%) và nhuộm với thuốc nhuộm Giemsa và H&E (Hình 2). Hình 1: Kết quả nuôi cấy tế bào gốc thu nhận từ tủy xương thỏ. (A). Sau 3 ngày nuôi(10X). (B). Sau một tuần nuôi cấy(10X). (C). Tế bào được nhuộm Giemsa sau một tuần nuôi cấy. Hình 2: Nhuộm Giemsa và H&E cho tế bào gốc tủy xương nuôi trên khối san hô. (A). Hình chụp khối san hô nhuộm H&E. (B). Hình chụp khối san hô nhuộm Giemsa. Kết quả đánh giá sự biểu hiện enzyme alkaline phosphatase Nhuộm khối san hô với thuốc nhuộm Fast Red violet LB salt (sigma), nếu các tế bào gốc trung mô (MSC) biệt hóa được thành các nguyên bào xương thì các tế bào này sẽ phản ứng lại với thuốc nhuộm và trong bào tương xuất hiện màu hồng, do sự hoạt động của enzyme alkaline phosphatase (Hình 3). Các tế bào này hoàn toàn đã biệt hóa thành nguyên bào xương sau thời gian nuôi cấy và kích thích biệt hóa thành nguyên bào xương với môi trường biệt hóa phù hợp. Hình 3: Mảnh san hô mang nguyên bào xương được nhuộm Fast Red Violet LB salt. (A). Tế bào gốc tủy xương thỏ biệt hóa thành nguyên bào xương trên khối san hô nhuộm alkaline phosphatase (4X) (B). Nguyên bào xương bắt màu hồng đậm do hoạt tính của enzyme alkaline phosphatase phản ứng với thuốc nhuộm Fast Red Violet LB salt (10X). A B A B A B C Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học 13 ðánh giá dựa vào hình ảnh học (X-Quang) Nhóm 1: Thỏ ghép san hô có mang nguyên bào xương tự thân Kết quả ghép san hô có mang nguyên bào xương tự thân theo thời gian 1, 3 và 6 tháng được đánh giá bằng hình ảnh học (X-Quang) và mô học H&E. Kết quả chụp X-Quang cho thấy, 2 tuần sau khi ghép chưa thấy cal xương vào mảnh ghép. Sau 4 tuần ghép, kết quả X-Quang cho thấy bắt đầu có cal xương. Sau 8 tuần ghép, quá trình lành xương diễn ra có cal xương khá hơn. Sau 12 tuần, nơi khối san hô ghép bắt đầu diễn ra quá trình thay thế xương chủ gần hoàn toàn. Sau 18 tuần ghép, còn thấy ít san hô. Sau 24 tuần ghép. Vị trí nơi ghép đã hoàn toàn được thay thế bằng mô xương chủ. Nhóm 2: Thỏ chỉ được ghép san hô (mẫu đối chứng). Kết quả ghép san hô theo thời gian 1, 3 và 6 tháng được đánh giá bằng hình ảnh học (X- Quang) và mô học H&E. Dựa vào kết quả chụp X-Quang cho thấy, 2 tuần sau khi ghép chưa có cal xương. Sau 4 tuần ghép, kết quả X-Quang cho thấy, bắt đầu có cal xương. Sau 8 tuần ghép, quá trình lành xương diễn ra tốt, san hô bị thay thế dần. Sau 12 tuần, nơi khối san hô ghép thay thế dần bởi xương chủ Sau 18 tuần ghép, sự thay thế chưa hoàn toàn kết thúc. Sau 24 tuần ghép. Mảnh san hô ghép đã thay thế dần thành màng xương của mô xương chủ. ðánh giá dựa vào cấu trúc mô học Nhóm 1: Thỏ ghép san hô có mang nguyên bào xương tự thân. Kết quả ghép san hô có mang nguyên bào xương tự thân theo thời gian 1, 3 và 6 tháng được đánh giá bằng nhuộm mô học H&E (Hình 4). Hình 4: Kết quả đánh giá hình ảnh nhuộm H&E trên thỏ ghép san hô có mang nguyên bào xương tự thân. (A). Kết quả ghép sau 1 tháng. (B). Kết quả ghép sau 3 tháng. (C). Kết quả ghép sau 5 tháng. (D). Kết quả ghép sau 6 tháng. Một tháng sau khi ghép mẫu san hô có mang nguyên bào xương thỏ tự thân, mạch máu xâm nhập vào bên trong khối san hô, quá trình hủy và tạo xương trên khối san hô diễn ra đều khắp trên khối san hô (xảy ra ở hai đầu xương nơi tiếp giáp với mảnh ghép san hô và trên khối san hô). A B C D Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 14 Ba tháng sau khi ghép, bắt đầu xuất hiện các bè xương nơi khối san hô ghép cùng với sự xâm nhập của mạch máu tân tạo. Các bè xương được tạo ra trên chính khối san hô ghép. Năm tháng sau khi ghép, các bè xương ngày càng được tạo ra nhiều hơn, bè xương to hơn do quá trình lắng đọng và tích tụ chất nền xương. Các bè xương đã thay thế gần như hoàn toàn trên mảnh ghép san hô. Sáu tháng sau khi ghép, mảnh san hô đã được thay thế hoàn toàn thành xương tự thân, các bè xương to, có các tế bào xương nằm bên trong các bè xương cũng như các nguyên bào xương bám trên bề mặt các bè xương. Các bè xương có khuynh hướng kết tụ vào nhau để tạo ra màng xương của thân xương đùi (do quá trình điều chỉnh xương). Nhóm 2: Thỏ ghép san hô đối chứng. Kết quả ghép san hô đối chứng theo thời gian 1, 3 và 6 tháng được đánh giá bằng nhuộm mô học H&E (Hình 5). Hình 5: Kết quả đánh giá hình ảnh nhuộm H&E trên thỏ ghép san hô đối chứng. (A). Kết quả ghép sau 1 tháng. (B). Kết quả ghép sau 3 tháng. (C). Kết quả ghép sau 5 tháng. (D). Kết quả ghép sau 6 tháng. Một tháng sau khi ghép mẫu san hô đối chứng, mạch máu bắt đầu xâm nhập vào bên trong khối san hô, tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy có rất ít mạch máu tân tạo xuất hiện bên trong khối san hô. Cấu trúc và chất nền khoáng của mẫu san hô vẫn còn, quá trình hủy và tạo xương diễn ra trên khối san hô tốt ở hai bên đầu xương, nơi tiếp xúc giữa khối san hô và phần thân xương ghép. Ba tháng sau khi ghép, bắt đầu xuất hiện các bè xương nơi khối san hô ghép cùng với sự xâm nhập của mạch máu tân tạo. Các bè xương được tạo ra trên chính khối san hô ghép. Tuy nhiên, không có nhiều bè xương được thay thế trên chính khối san hô. Quá trình hủy và tạo xương vẫn diễn ra tốt hơn ở nơi tiếp xúc giữa khối san hô và phần đầu xương. Năm tháng sau khi ghép, các bè xương ngày càng được tạo ra nhiều hơn, mạch máu bắt đầu xâm nhập vào khối san hô nhiều hơn. Các bè xương thay thế dần khối san hô, bè xương ngày càng to hơn. A B C D Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học 15 Sáu tháng sau khi ghép, mảnh san hô đã được thay thế gần như hoàn toàn thành xương tự thân, các bè xương to, có các tế bào xương nằm bên trong các bè xương cũng như các nguyên bào xương bám trên bề mặt các bè xương. Tuy nhiên, các bè xương chưa kết dính cũng như lắng đọng chất nền xương cùng với nhau để tạo thành màng xương hoàn chỉnh của thân xương. KẾT LUẬN Kết quả ghép mẫu san hô có mang tế bào thì thời gian liền xương và chất lượng lành xương tốt hơn và nhanh hơn so với nhóm chứng (chỉ được ghép san hô). ðối với mẫu san hô có mang tế bào, sau khi ghép mạch máu nhanh chóng xâm nhập vào bên trong khối san hô và quá trình hủy san hô và thay thế xương diễn ra theo nhiều hướng, khắp bề mặt cũng như bên trong khối san hô. Trong khi đó, trên mẫu san hô đối chứng thì có ít mạch máu xâm nhập vào khối san hô hơn và quá trình thay xương diễn ra rất nhanh ở phần hai đầu mép san hô so với phần còn lại của khối san hô. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen F et al (2002), Bone graft in the shape of human mandibular condyle reconstruction via seeding marrow- derived osteoblast into porous coral in a nude mice model, Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 60: 1155-1159. 2. Chen F et al (2004), Marrow derived osteoblasts seeded into porous natural coral to prefabricate a vascularized bone graft in the shape of human mandibular ramus: experimental study in rabbits, Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 42: 532- 537. 3. Chen F et al (2007), Segmental bone tissue engineering by seeding osteoblast precursor cells into titaniummesh-coral composites scaffolds, Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 36: 822-827. 4. Chun Y et al (2009), A comparative study of the physical and mechanical properties of three natural corals based on the criteria for bone-tissue engineering scaffold, J. Mater. Sci. Mater Med, 20: 1273-1280. 5. Deans R (2009), Bringing mesenchymal stem cells into the clinic, Emerging technology platforms for stem cells, John Wiley & Sons, Canada, 25: 463-483. 6. Deepak M. Gupta, Nicholas J. Panetta, and Michael T. Longaker (2011), Osteogenic differentiation of human multipotent mesenchymal stromal cells, Mesenchymal Stem Cell Assays and Applications, Humana Press, UK, 16: 201-215. 7. Gregory CA (2008), Mesenchymal stem cells: from culture to clinic, Stem Cell Repair and Regeneration, Imperial College Press, Singapore, 2: 21-45. 8. Guigui P, Plais PY, Flautre B, Viguier E, Blary MC, Chopin D, Lavaste F, Hardouin P (1994), Experimental model of posteriolateral spinal arthrodesis in sheep. Application of the model: evaluation of vertebral fasion obtained with coral (porities) or with biphasic ceramic (friosite), Spine, 19(24): 2793-2803. 9. Holmes RE (1979), Bone regenaration within a coralline hydroxyapatite implant, Plastic and Reconstructive Surgery, 63:626-633. 10. Major AK, Boehm CA, Nitto H, Midura RJ, Muschler GF (1997), Characterization of human bone marrow stromal cells with respect to osteoblastic differentiation, J. Orthop Research, 15(4): 546-577. 11. Marchac D, Sandor G (1994), Use of coral granules in the craniofacial skeleton, Journal of Craniofacial Surgery, 5(4): 213- 217. 12. Nguyễn Trí Dũng, Trịnh ðình Vũ Linh (2004), Khảo sát diễn biến lành xương ở vết thương thực nghiệm nhỏ ở xương hàm dưới có dung san hô Porites lutea. Tạp chí Y học TP.HCM, 8(1): 28-32. 13. Rickard DJ, Kassem M, Hefferan T.E, Srkan G, Spelsbergm TC, Riggs BL (1996), Isolation and characterization of osteoblast precursor cells from human bone marrow, Journal Bone and Mineral Research, 11(3):312-24. 14. Trần Công Toại, Cao Thỉ (2009), Cấy tủy xương để đánh giá số lương tế bào gốc trung mô thông qua các đơn vị tạo khúm nguyên bào sợi (CFU-FS), Y học Tp. HCM, 13(1): 488-490. 15. Tran Cong Toai, Ciro Gargiulo, Huynh Duy Thao, Tran Thi Thanh Thuy, Huynh Minh Tuan, and Luis Filgueira, et al (2011), Culture and differentiation of osteoblasts on coral scaffold from human bone marrow mesenchymal stem cells, Cell and Tissue Banking, 12(4): 247-261. 16. Tran Cong Toai, Huynh Duy Thao, Nguyen Phuong Thao, Ciro Gargiulo and Phan Kim Ngoc, et al (2010), In vitro culture and differentiation of osteoblasts from human umbilical cord blood, Cell and Tissue Banking, 11 (3): 269-280. 17. Trần Công Toại, Trương ðình Kiệt (2003), Nghiên cứu sử dụng san hô vùng biển Việt Nam làm vật liệu sinh học thay xương trong y học, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học Công nghệ, Sở Khoa học-Công nghệ TP.HCM. Ngày nhận bài: 15/1/2013 Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/1/2013 Ngày bài báo được đăng: 31/01/2013

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfghep_thuc_nghiem_manh_san_ho_mang_nguyen_bao_xuong_de_tai_ta.pdf
Tài liệu liên quan