Kết luận: Kinh tế phi chính thức (Khu vực
KTPCT và việc làm phi chính thức) tồn tại lâu
dài và khách quan trong tất cả các nền kinh tế,
quy mô và phạm vi của khu vực này tùy thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
(các nước phát triển quy mô của khu vực
KTPCT nhỏ và ngược lại). Ở Việt Nam, khu
vực KTPCT và việc làm phi chính thức cũng
phát triển tuân theo những quy luật chung đó.
Hiện nay, ở nước ta khu vực KTPCT đang tồn
tại và phát triển mạnh mẽ nhưng chưa được
thừa nhận một cách chính thức về mặt pháp lý,
hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh tế phi
chính thức được thực hiện bằng công cụ pháp
luật, chính sách gián tiếp thông qua hệ thống
pháp luật dân sự, lao động, bảo hiểm; các chính
sách xóa đói giảm nghèo, dạy nghề tạo việc
làm, tín dụng cho người nghèo, đối tượng
chính sách và một số biện pháp hành chính
khác. Bản thân các cơ quan quản lý nhà nước
còn có những nhận thức khác nhau về khu vực
KTPCT nên chưa có những chính sách hiệu
quả để quản lý và định hướng cho khu vực kinh
tế này phát triển phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia, ở khía cạnh quản lý có
thể nói các cơ quan nhà nước chưa thực sự
quản lý được khu vực KTPCT. Do đó, để tạo
hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp đồng thời
có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực
KTPCT phát triển, Nhà nước cần cần công
nhận bằng pháp luật tại Việt Nam khái niệm
khu vực KTPCT; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến các quy định của pháp luật liên quan cho
các chủ thể (người lao động) của khu vực
KTPCT; Chính thức hóa khu vực KTPCT
thông qua việc thực thi các quy định về đăng
ký kinh doanh đơn giản, đồng bộ đối với tất cả
doanh nghiệp tư nhân và ở cấp độ quốc gia;
tăng cường hỗ trợ đào tạo đối với người lao
động trong khu vực KTPCT; triển khai thực
hiện chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện
phù hợp với nhu cầu của khu vực kinh tế phi
chính thức.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
29
HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đào Lộc Bình1
Nguyễn Hải Ngân2
Tóm tắt: Hiện nay, Việt Nam vẫn là một quốc gia nông nghiệp với 66,9% dân số sống ở
nông thôn3 và khoảng 44,3% lao động xã hội làm nông nghiệp4. Quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đã và đang
tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho khu vực kinh tế phi chính thức phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên
hiện nay, khu vực kinh tế này cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ nhiều
bất cập cần được tập trung giải quyết về mặt quản lý nhà nước và chính sách. Vậy cơ chế, chính
sách nào để bảo đảm quyền lợi pháp lý cho khu vực kinh tế này? Hành lang pháp lý cho khu vực
kinh tế phi chính thức (KTPCT) hiện nay? Nội dung bài viết tập trung phân tích, đánh giá về
hành lang pháp lý và một số chính sách quản lý nhà nước hiện nay nhằm tạo hành lang pháp
lý cho khu vực KTPCT hoạt động, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm hành lang
pháp lý thuận lợi cho hoạt động cũng như sự quản lý của Nhà nước đối với khu vực KTPCT.
Từ khóa: Khu vực kinh tế phi chính thức; quản lý nhà nước; doanh nghiệp; đơn vị sản xuất
kinh doanh; hộ sản xuất kinh doanh
Nhận bài: 06/3/2017; Ngày hoàn thành biên tập: 18/4/2017; Ngày duyệt đăng: 23/5/2017
Abstract: Now, Viet Nam is still an agriculture country with 66,9% of the total population
living in the rural areas and about 44,3% of the laborers working in the agricultural field. The
process of transformation to the market economy and promotion of industrialization,
modernization in rural agriculture has been creating favorable chances for the unofficial
economic area to develop strongly. However, this economic area now is facing lots of challenges
and difficulties and showing lots of shortcomings to be solved regarding to state management
and policy. So, which policy is applied to ensure legal rights and interests for this economic
area? What is the legal ground for the unofficial economic area nowadays? The article
concentrates on analyzing, assessing current legal mechanism and some state management
policies to ensure favorable legal ground for the operation as well as state management with the
unofficial economic area.
Keywords: Unofficial economic area; state management; enterprise; units operating in
production and business; households operating in production and business;
Date of receipt: 06/3/2017; Date of revision: 18/4/2017; Date of approval: 23/5/2017.
1. Quan điểm về khu vực kinh tế phi
chính thức
* Quan điểm của các tổ chức quốc tế về
khu vực kinh tế phi chính thức
Thuật ngữ “Khu vực kinh tế phi chính thức”
đầu tiên do Hart (1973) đề xuất để mô tả một
khu vực kinh tế truyền thống ở các nền kinh tế
đang phát triển. Nguyên gốc, sự phân biệt giữa
khu vực kinh tế chính thức và KTPCT là dựa
trên sự phân biệt giữa lao động được trả lương
và lao động tự làm. Để có khái niệm chính xác
thế nào là việc làm phi chính thức cần phải xét
đến nhiều đặc điểm như: chế độ bảo hiểm và
phúc lợi xã hội, hợp đồng thành văn, bảng
lương, bồi thường thất nghiệp v.v... Xét theo các
định nghĩa này, có thể thấy việc làm phi chính
thức bao gồm hai loại chính riêng rẽ, đó là việc
làm trong khu vực phi chính thức (đơn vị sản
xuất phi chính thức) và việc làm không có bảo
hiểm trong khu vực chính thức.
1 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
2 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Luật và Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.
3 Kết quả Điều tra Dân số và nhà ở giữa kỳ tại thời điểm 01/4/2014:
tuc/item/25116102-dan-so-viet-nam-dat-gan-90-5-trieu-nguoi.html.
4 Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
30
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Để có thể nhận dạng các đơn vị sản xuất phi
chính thức, Hội nghị Quốc tế các nhà Thống kê
Lao động (ICLS) lần thứ 15 năm 1993 (gọi tắt
là ICLS 15) đã đưa ra khuyến nghị về việc sử
dụng ba tiêu chí bao gồm: (1) “doanh nghiệp”
(đơn vị sản xuất) không thực hiện đăng ký; (2)
có quy mô nhỏ xét theo số lượng lao động; (3)
không thực hiện việc đăng ký lao động5. Trong
đó, các đơn vị sản xuất thuộc khu vực phi chính
thức được phân biệt bao gồm hai nhóm: (1)
doanh nghiệp phi chính thức của lao động tự
làm việc cho bản thân và không sử dụng lao
động làm thuê thường xuyên; (2) doanh nghiệp
của các chủ sử dụng lao động phi chính thức sử
dụng lao động làm thuê có tính chất thường
xuyên. Đến ICLS 17 năm 2003 đã đề cập đến
phân đoạn chi tiết hơn đối với các hộ kinh doanh
bao gồm ba nhóm: (1) các doanh nghiệp khu
vực chính thức, (2) các doanh nghiệp khu vực
phi chính thức và (3) các hộ gia đình. Cách phân
loại này được kết hợp với phân loại theo loại
hình công việc để hình thành một lược đồ biểu
diễn về kinh tế phi chính thức bao gồm cả lao
động trong khu vực phi chính thức và lao động
phi chính thức ngoài khu vực phi chính thức.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy một
khái niệm bao trùm cả khu vực KTPCT và việc
làm phi chính thức xuất hiện ở cả hai khu vực
KTPCT và chính thức là quan niệm được Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra vào năm
2003 như sau: khu vực phi chính thức và việc
làm phi chính thức tạo nên cái mà chúng ta gọi
là kinh tế phi chính thức6, thể hiện qua công
thức: Kinh tế phi chính thức = Khu vực
KTPCT + Việc làm phi chính thức.
Khái niệm của ILO đưa ra hai khả năng mở
cho việc xác định khu vực KTPCT đó là: tiêu
chuẩn không đăng ký kinh doanh và tiêu chuẩn
quy mô tối đa (ngưỡng số người nhiều nhất
làm việc trong hộ SXKD). Trong nỗ lực áp
dụng khuyến nghị của ILO, Nhóm Delhi đã
khuyến nghị là coi các hộ SXKD có dưới 5
người làm công ăn lương là hộ sản xuất kinh
doanh (SXKD) phi chính thức.
* Quan điểm của Việt Nam: Viện Khoa
học thống kê đưa ra khái niệm khu vực KTPCT
như sau: Khu vực KTPCT là tất cả các doanh
nghiệp không có tư cách pháp nhân, sản xuất
ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch vụ
để bán hoặc trao đổi, không đăng ký kinh
doanh (không có giấy phép kinh doanh) và
không thuộc ngành nông, lâm nghiệp và thủy
sản” (gọi tắt là ngành nông nghiệp). Các doanh
nghiệp như vậy được gọi là “các hộ SXKD phi
chính thức”. Việc loại hoạt động SXKD trong
lĩnh vực nông nghiệp ra khỏi khái niệm là do
đặc trưng hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp có sự khác nhau, ví dụ như tính thời vụ,
tổ chức lao động, mức thu nhập và công cụ
điều tra khác nhau ở cả hai khu vực này. Các
hộ SXKD có đăng ký kinh doanh thuộc vào
khu vực kinh tế chính thức7.
Tóm lại, khu vực KTPCT với mục tiêu chủ
yếu nhằm tạo ra công ăn việc làm và thu nhập
cho những người có liên quan. Khu vực KTPCT
đóng vai trò giải tỏa căng thẳng trên thị trường
lao động, đặc biệt nhờ số lượng việc làm tạo ra
trong khu vực này tăng lên, ngoài ra tỉ lệ người
lao động kết hợp làm nhiều công việc cũng tăng
lên. Khu vực này đã trở thành một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế của tất cả các nước trên
thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
2. Hành lang pháp lý cho hoạt động của
khu vực kinh tế phi chính thức hiện nay
Hiện nay ở nước ta mặc dù chưa chính thức
thừa nhận thuật ngữ “kinh tế phi chính thức”
trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng
5 Khu vực phi chính thức trong thống kê tài khoản quốc gia: Một số vấn đề về phương pháp luận, Website:
thuc/485-khu-vuc-phi-chinh-thuc-trong-thong-ke-tai-khoan-quoc-gia-mot-so-van-de-ve-phuong-phap-luan
6 Jean-Pierre Cling, Đỗ Hoài Nam, Stéphane Lagrée, Mireille Razafindrakoto, François Roubaud, Kinh tế phi chính
thức tại các nước đang phát triển, Nxb. Tri thức, H.2013, tr.12
7 Lý Quỳnh Anh, Vài nét về kinh tế phi chính thức, Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia:
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
31
hệ thống pháp luật cũng đã có những quy định
tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động này.
Hiến pháp 2013 có quy định về quyền sở hữu
tư nhân, quyền tự do kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật không cấm, quyền được bảo
đảm an sinh xã hội và quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc8.
Các đạo luật quan trọng như: Bộ luật dân
sự năm 2005 có những quy định về các quyền
của cá nhân như quyền lao động, tự do lựa
chọn việc làm, nghề nghiệp; quyền tự do kinh
doanh, cá nhân có quyền lựa chọn hình thức,
lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh
nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động
và các quyền khác phù hợp với quy định của
pháp luật9. Bộ luật dân sự 2015 tiếp tục ghi
nhận và bảo vệ các quyền dân sự đó của công
dân. Bộ luật lao động 2012 xác định“Việc làm
là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà
không bị pháp luật cấm”10 và người lao động
có quyền “Làm việc, tự do lựa chọn việc làm,
nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề
nghiệp và không bị phân biệt đối xử”11.Luật
việc làm 2013 xác định “Việc làm là hoạt động
lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp
luật cấm”12. Theo các quy định này việc làm
trong khu vực KTPCT cũng được pháp luật
công nhận và bảo vệ.
Luật bảo hiểm y tế và Luật bảo hiểm xã hội
đã tạo những điều kiện pháp lý thuận lợi cho
các chủ thể trong khu vực KTPCT tham gia và
được hưởng các chế độ bảo hiểm. Cụ thể: Luật
Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) đã quy định xây dựng chế độ “Bảo hiểm
y tế toàn dân”13. Theo đó, Luật quy định các
nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế trong
đó có đối tượng thuộc khu vực KTPCT (có việc
làm không chính thức) bao gồm: Nhóm do
người lao động và người sử dụng lao động đóng
gồm: Người lao động làm việc theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên; nhóm
được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng là
người thuộc hộ gia đình cận nghèo; nhóm tham
gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình gồm những
người thuộc hộ gia đình14. Những quy định này
sẽ góp phần làm giảm việc làm không chính
thức trong khu vực chính thức, đồng thời tạo
hành lang pháp lý cơ bản cho khu vực KTPCT
hoạt động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
người lao động làm việc tại khu vực KTPCT.
Mặc dù hiện nay, các chính sách của Nhà
nước để hỗ trợ cho khu vực này vẫn chưa được
đề cập trong các văn bản một cách chính thức
nhưng Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách
hỗ trợ mà đối tượng được thụ hưởng là những
người lao động trong khu vực KTPCT. Có thể
khái quát một số chính sách cụ thể trong thời
gian qua như: Nghị quyết số 120/HĐBT ngày
11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về chủ trương, phương hướng và
biện pháp giải quyết việc làm, chủ trương:
“Nhà nước tạo những điều kiện cần thiết
thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp và hỗ
trợ một phần về tài chính để khuyến khích các
tổ chức, đơn vị kinh tế và người lao động ở
mọi thành phần kinh tế tự giải quyết việc làm
và tạo việc làm mới”. Tiếp đến là một số chính
sách như: chính sách “Về tín dụng đối với
người nghèo và các đối tượng chính sách
khác” theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP
ngày 04/10/2002 của Chính phủ; Đề án “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020” ban hành theo Quyết định số 1956/QĐ-
TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủđây là những chính sách nhằm giúp cho
các đối tượng nghèo, khó khăn trong đó có
những lao động trong khu vực KTPCT có cơ
hội được tiếp cận các nguồn vốn cũng như
được hỗ trợ đào tạo nghề.
8 Xem Điều 32, 33, 34, 35 Hiến pháp 2013.
9 Xem Điều 49, 50, 51 Bộ luật Dân sự 2005.
10 Khoản 1, Điều 9 Bộ luật Lao động 2012.
11 Điểm a, khoản 1, Điều 5 Bộ luật Lao động 2012.
12 Khoản 2, Điều 3 Luật Việc làm 2013.
13 Xem Khoản 2, Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014).
14 Xem điểm a, khoản 1, điểm a, khoản 4, khoản 5 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014).
32
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Cùng với đó, có thể kể đến nhóm các chính
sách xóa đói giảm nghèo như:
Nhóm chính sách giảm nghèo toàn diện: Đó
là các chính sách tổng hợp, nhằm mục tiêu cải
thiện toàn diện các khía cạnh đời sống của các
hộ nghèo, bao gồm các dự án tiếp cận dịch vụ,
kết cấu hạ tầng; hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy sản
xuất hàng hóa và liên kết thị trường, đào tạo
nghề, tạo điều kiện phát triển các mặt của đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân
tộc (Chương trình 135, Chương trình 30a;
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo...)
Nhóm các chính sách có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp nâng cao đời sống nhân dân
mang tầm quốc gia. Các chính sách này với các
chủ trương tiếp cận theo mục tiêu, tập trung
vào một số lĩnh vực cụ thể, thiết thực đặt ra từ
thực tế đời sống kinh tế, xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số (chương trình mục tiêu quốc
gia về nước sạch; giáo dục đào tạo, giải quyết
việc làm; dân số, kế hoạch hóa gia đình;
chương trình xây dựng nông thôn mới...).
Những chính sách nêu trên khi thực hiện đã
có những tác động tích cực đối với sự phát
triển của khu vực KTPCT, giúp các cơ sở sản
xuất kinh doanh phi chính thức có điều kiện
tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát
triển sản xuất. Tuy nhiên, các chính sách này
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của khu
vực KTPCT bởi được áp dụng chủ yếu các đối
tượng chính sách và người nghèo. Trong khi
đó các chủ thể sản xuất kinh doanh phi chính
thức nhiều trường hợp lại không nằm trong
nhóm đối tượng này do đó khi vay vốn để đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh họ thường
thiếu tài sản thế chấp để vay ngân hàng, nên
các cơ sở phi chính thức thường tìm đến các tổ
chức cho vay tài chính hoặc các cá nhân cho
vay với lãi suất cao. Điều này dẫn tới nhiều hệ
lụy không mong muốn đối với hoạt động quản
lý nhà nước cũng như đối với người lao động
trong khu vực KTPCT như hiện tượng cho vạy
nặng lãi, tín dụng đen, lừa đảo... mà khi xảy ra
các cơ quan nhà nước rất khó can thiệp để bảo
vệ cho khu vực KTPCT.
Hơn nữa, các cơ sở sản xuất kinh doanh
thuộc khu vực KTPCT thường không đăng ký
nên trong hoạt động của mình, các cơ sở này
không nhận được sự bảo hộ về mặt pháp lý.
Thực tế, các cơ quan quản lý nhà nước ở các
địa phương vẫn quản lý đối với các cơ sở này
và thực hiện thu một số các loại phí do địa
phương quy định. Tuy nhiên hoạt động quản lý
nhà nước đối với khu vực KTPCT cũng có
nhiều bất cập bởi trước hết như trên đã đề cập
là các cơ quan nhà nước thiếu thông tin về khu
vực KTPCT dẫn đến việc chưa có những chính
sách quản lý phù hợp đối với khu vực KTPCT
nên đã có những trường hợp ngay tại một địa
phương mà chính sách quản lý nhà nước đối
với khu vực KTPCT cũng đã xuất hiện những
mâu thuẫn15. Do không đăng ký với các cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, không
nhận được sự bảo hộ của pháp luật nên khu vực
KTPCT còn phải đối mặt với hiện tượng nhũng
nhiễu của một bộ phận công chức trong bộ máy
quản lý nhà nước, phải bỏ ra những chi phí
không chính thức để tồn tại. Trong khi đó từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước, chính sách
hỗ trợ cũng như công tác quản lý nhà nước
không đạt được yêu cầu đặt ra, khu vực
KTPCT vẫn hoạt động và phát triển một cách
tự phát nằm ngoài sự quản lý, điều chỉnh của
nhà nước. Hay nói một cách khác là các cơ
quan quản lý nhà nước vẫn chưa quản lý được
khu vực KTPCT.
Bên cạnh đó, một số chính sách của nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục còn có những bất
cập như chính sách định hướng nghề nghiệp
cho người học khiến người học chỉ muốn học
cao để làm việc trong khu vực kinh tế chính
thức, đã tạo ra sự mất cân đối trong việc đào
tạo nguồn nhân lực dẫn đến tình trạng “thừa
15 Một số địa phương có chính sách cho các đối tượng nghèo ở thành phố vay vốn đầu tư mua xe đẩy hàng để kinh
doanh dịch vụ ăn uống (hình thức chủ yếu là bán hàng rong trên phố), nhưng thời gian sau đó để thực hiện chủ
trương xây dựng thành phố văn minh trật tự, kỷ cương thì chính quyền các địa phương này lại có chính sách cấm
các loại hình dịch vụ bán hàng rong trên các tuyến phố.
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
33
thầy, thiếu thợ”, nhân lực lao động làm việc
trong khu vực KTPCT thiếu trình độ, tay nghề
để phát triển sản xuất, kinh doanh. Các chính
sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo dành cho các đối
tượng chính sách và người nghèo ở khu vực
nông thôn có những nội dung chưa phù hợp và
chưa thiết thực đối với khu vực KTPCT nhất là
những lao động phi chính thức ở đô thị. Có thể
nói khu vực KTPCT đã được hưởng lợi nhưng
chưa nhiều từ những chính sách chung của nhà
nước về giáo dục, đào tạo.
3. Đề xuất một số giải pháp
Theo quy luật khu vực KTPCT sẽ dần thu
hẹp lại khi kinh tế phát triển (như ở các nước
phát triển) nhưng dù vậy khu vực KTPCT vẫn
sẽ còn tồn tại dù ở quy mô nhỏ. Do đó, từ yêu
cầu của thực tiễn nhà nước cần phải có sự nhìn
nhận khách quan và ứng xử phù hợp đối với
khu vực KTPCT nhất là trong bối cảnh Chính
phủ nước ta đang khuyến khích và tạo điều
kiện cho phong trào khởi nghiệp của người
dân. Để xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ
cho hoạt động của khu vực KTPCT đồng thời
có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho kinh tế
phi chính thức phát triển phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế chung của đất nước tác
giả đề xuất một số nội dung sau:
Thứ nhất, về mặt nhận thức, các cơ quan
quản lý nhà nước cần nhận thức đúng đắn về
vai trò, vị trí của khu vực KTPCT trong nền
kinh tế) để hiện thực hóa nhận thức này trước
hết cần công nhận bằng pháp luật khái niệm
khu vực KTPCT (khu vực kinh tế và việc làm
phi chính thức. Khái niệm này cần được xác
định trong văn bản pháp lý phù hợp (luật, nghị
định, thông tư, v.v.) và được các cơ quan chủ
chốt như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
và Tổng cục Thống kê triển khai thực hiện, tạo
cơ sở cho các tổ chức và doanh nghiệp tham
chiếu. Việc công nhận chính thức về mặt pháp
lý này sẽ là một động lực mạnh mẽ cho người
lao động thuộc khu vực phi chính thức. Khi đó,
họ sẽ có đầy đủ các quyền, tạo điều kiện cho sự
xuất hiện của các hiệp hội nghề nghiệp. Các
hiệp hội này có khả năng đại diện cho tiếng nói
trong các cuộc đàm phán chính thức và trong
các cuộc đối thoại xã hội và thực hiện chính
sách hỗ trợ mục tiêu hiệu quả hơn. Như vậy sẽ
thiết lập “mắt xích bị thiếu” hiện đang không
hiện diện trong các chính sách phát triển và xóa
đói giảm nghèo, v.v. Đối với cơ quan quản lý
nhà nước việc công nhận về mặt pháp lý sẽ tạo
điều kiện để các cơ quan nhà nước thực sự có
thể quản lý được khu vực KTPCT bằng các
công cụ mà pháp luật quy định.
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
các quy định của pháp luật liên quan cho các
chủ thể của khu vực KTPCT. Bởi hiện nay, tình
trạng thiếu hiểu biết về các quy định liên quan
đến đăng ký kinh doanh và nộp thuế, ranh giới
không rõ ràng giữa các công ty tư nhân chính
thức với cơ sở tư nhân phi chính thức và sự
thiếu minh bạch tạo ra một vùng tối cho phi
chính thức phát triển, sự mặc cả và thậm chí cả
tham nhũng. Việc thiết lập các quy tắc minh
bạch, rõ ràng và được tất cả mọi người hiểu
biết sẽ giúp giảm sự tùy tiện trong các quyết
định và sách nhiễu của công chức, đồng thời
giúp các cơ quan có thẩm quyền thực thi luật
một cách chặt chẽ hơn.
Thứ ba, chính thức hóa khu vực KTPCT
thông qua việc thực thi các quy định về đăng
ký kinh doanh đơn giản, đồng bộ đối với tất cả
doanh nghiệp tư nhân và ở cấp độ quốc gia.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 đã được ban
hành với các thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp đơn giản dễ dàng, do đó trong thời gian
tới Chính phủ cần bổ sung thêm các chính sách
khuyến khích để khu vực KTPCT đăng ký
chuyển sang khu vực kinh tế chính thức trong
đó, một cách hiệu quả để khuyến khích việc
chính thức hóa là cải thiện tính minh bạch và
công tác truyền thông về các quy định. Việc
chính thức hóa khu vực KTPCT là yêu cầu tất
yếu của quản lý nhà nước, điều này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước
đối với khu vực này (về đánh giá thống kê, nộp
thuế, quy hoạch...) đồng thời cũng tạo thuận lợi
cho các chủ thể trong khu vực KTPCT được
tiếp cận đối với các nguồn vốn chính thức từ
các chính sách hỗ trợ của nhà nước.
34
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Các quy định về khuyến khích đăng ký đối
với các cơ sở SXKD phi chính thức (doanh
nghiệp tư nhân) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng chính sách ưu đãi thuế và phù
hợp với đặc thù của khu vực này. Hai quá trình
này bổ sung cho nhau: một mặt, để các chủ cơ
sở sản xuất kinh doanh chấp nhận đóng thuế
thì cần thực hiện các chính sách hỗ trợ cho họ
và các chính sách này, trong một chừng mực
nào đó, chính là bù đắp lại việc cho đóng thuế,
mặt khác, tất cả các khoản thuế thu từ các công
ty tư nhân đương nhiên cần được sử dụng một
phần để tài trợ cho các chính sách này. Được
như vậy về mặt quản lý nhà nước đối với khu
vực KTPCT sẽ đạt được hiệu quả mong muốn
và nhà nước sẽ thu được các khoản thuế từ khu
vực KTPCT.
Thứ tư, tăng cường hỗ trợ đào tạo đối với
người lao động trong khu vực KTPCT, theo đó
nhà nước cần xây dựng các chương trình đào
tạo mục tiêu nhắm đến chủ cơ sở quy mô rất
nhỏ và người lao động trong khu vực phi chính
thức. Việc xây dựng các chương trình đào tạo
kế toán, tài chính và rộng hơn là đào tạo nghề
phù hợp với khu vực này sẽ góp phần nâng cao
hiệu suất hoạt động (hiện nay mới có chính
sách đào tạo nghề cho một số đối tượng như:
hộ nghèo, nông dân, thanh niên).
Thứ năm, triển khai thực hiện chương trình
bảo hiểm xã hội tự nguyện phù hợp với nhu
cầu của khu vực kinh tế phi chính thức. Trước
mắt triển khai thực hiện tốt Luật bảo hiểm xã
hội 2014 và Luật bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ
sung năm 2014 (phần bảo hiểm tự nguyện)
trong thực tế để các đối tượng thuộc khu vực
KTPCT thuận lợi tham gia. Việc luật đưa khu
vực kinh tế phi chính thức vào chương trình
bảo hiểm xã hội sẽ làm giảm sự bấp bênh và
tính dễ bị tổn thương của người lao động trong
khu vực này.
Kết luận: Kinh tế phi chính thức (Khu vực
KTPCT và việc làm phi chính thức) tồn tại lâu
dài và khách quan trong tất cả các nền kinh tế,
quy mô và phạm vi của khu vực này tùy thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
(các nước phát triển quy mô của khu vực
KTPCT nhỏ và ngược lại). Ở Việt Nam, khu
vực KTPCT và việc làm phi chính thức cũng
phát triển tuân theo những quy luật chung đó.
Hiện nay, ở nước ta khu vực KTPCT đang tồn
tại và phát triển mạnh mẽ nhưng chưa được
thừa nhận một cách chính thức về mặt pháp lý,
hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh tế phi
chính thức được thực hiện bằng công cụ pháp
luật, chính sách gián tiếp thông qua hệ thống
pháp luật dân sự, lao động, bảo hiểm; các chính
sách xóa đói giảm nghèo, dạy nghề tạo việc
làm, tín dụng cho người nghèo, đối tượng
chính sách và một số biện pháp hành chính
khác. Bản thân các cơ quan quản lý nhà nước
còn có những nhận thức khác nhau về khu vực
KTPCT nên chưa có những chính sách hiệu
quả để quản lý và định hướng cho khu vực kinh
tế này phát triển phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia, ở khía cạnh quản lý có
thể nói các cơ quan nhà nước chưa thực sự
quản lý được khu vực KTPCT. Do đó, để tạo
hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp đồng thời
có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực
KTPCT phát triển, Nhà nước cần cần công
nhận bằng pháp luật tại Việt Nam khái niệm
khu vực KTPCT; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến các quy định của pháp luật liên quan cho
các chủ thể (người lao động) của khu vực
KTPCT; Chính thức hóa khu vực KTPCT
thông qua việc thực thi các quy định về đăng
ký kinh doanh đơn giản, đồng bộ đối với tất cả
doanh nghiệp tư nhân và ở cấp độ quốc gia;
tăng cường hỗ trợ đào tạo đối với người lao
động trong khu vực KTPCT; triển khai thực
hiện chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện
phù hợp với nhu cầu của khu vực kinh tế phi
chính thức.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đồng thời xây dựng một khu vực KTPCT
phù hợp với các quy định của pháp luật và
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước góp phần vào sự phát triển của đất nước./.
Tài liệu tham khảo
1. Lý Quỳnh Anh, Vài nét về kinh tế phi
chính thức, Trung tâm thông tin và dự báo kinh
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
35
tế xã hội quốc gia:
s i tes /en/Pages/vainetvekinhtephi-nd-
16603.html.
2. Lý Quỳnh Anh, Khu vực kinh tế phi chính
thức ở Việt Nam và tác động chính sách của
Nhà nước, Trung tâm thông tin và dự báo kinh
tế xã hội quốc gia:
vuckinhtephichinh-nd-16608.html
3. Nguyễn Hữu Chí,Nguyễn Thị Thu Huyền
(TCTK), Mireille Raza.findrak.oto và François
Roubaud (IRD-DIAL), Thị trường lao động và
kinh tế phi chính thức ở Việt Nam trong thời
gian khủng hoảng và phục hồi 2007-2009, Một
số nét chủ yếu từ cuộc Điều tra Lao động và
Việc làm, Báo cáo tóm lýợc chính sách, Dự án
TCTK /IRD-DIAL, Tháng 12/2010.
4. Khu vực phi chính thức trong thống kê tài
khoản quốc gia: Một số vấn đề về phương
pháp luận, Website:
thong-tin-khoa-hoc/chuyen-san/110-nam-2008
-chuyen-san-thong-ke-khu-vuc-phi-chinh-
thuc/485-khu-vuc-phi-chinh-thuc-trong-thong
-ke-tai-khoan-quoc-gia-mot-so-van-de-ve-
phuong-phap-luan.
5. Jean-Pierre Cling, Đỗ Hoài Nam, Stéphane
Lagrée, Mireille Razafindrakoto, Francois
Roubaud, Kinh tế phi chính thức tại các nước
đang phát triển, Nxb. Tri thức, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, H.2013.
6. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) và
Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp (IRD), Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế, Khu vực và việc làm phi
chính thức, Phương pháp thống kê, tác động
kinh tế và chính sách công, Hà Nội 5/2010.
Bốn là, CCV đề nghị cơ quan có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận nhà, đất xác nhận
số lượng thành viên HGĐ tại thời điểm giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất;
nhận chuyển quyền sử dụng đất và/hoặc nhà.
Năm là, theo trình tự thủ tục chung, khi
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất thì thường phải thông qua
UBND cấp xã (đặc biệt là đối với đất nông
nghiệp được điều chỉnh theo Nghị định 64/CP
ngày 27/09/1993 của Chính phủ). Vì vậy, CCV
có thể gửi công văn đề nghị UBND cấp xã có
thẩm quyền căn cứ vào hồ sơ lưu để xác nhận
số lượng thành viên HGĐ tại thời điểm giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất.
4. Kiến nghị
Từ pháp luật thực định đến thực tiễn áp
dụng pháp luật đối với chủ thể HGĐ, chúng tôi
kiến nghị những biện pháp để giải quyết những
vướng mắc nêu trên, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận cần liệt kê số lượng thành viên
HGĐ trên Giấy chứng nhận hoặc trong Giấy
chứng nhận ghi việc cấp nhà, đất cho HGĐ theo
quyết định; bản án; hoặc sổ hộ khẩu cụ thể.
Thứ hai, cần bổ sung hoặc làm rõ HGĐ
được sở hữu nhà ở tại Luật Nhà ở có tương tự
như HGĐ tại Luật Đất đai hay không, bởi tại
BLDS năm 2015 chỉ xác định chủ thể của quan
hệ dân sự có sự tham gia của HGĐ sử dụng đất
được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai
mà không nhắc đến HGĐ sở hữu nhà ở tại Luật
Nhà ở.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền cần có
hướng dẫn cụ thể hơn đối với việc định đoạt
tài sản chung của thành viên HGĐ theo Điều
212, BLDS năm 2015 bởi cụm từ “trừ trường
hợp luật có quy định khác”trong thực tiễn vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Thứ tư, trên cơ sở liệt kê, khảo sát, cần
tổng hợp các vụ án dân sự về HGĐ qua đó xây
dựng án lệ liên quan đến chủ thể đặc thù này
nhằm tạo thuận lợi cho CCV cũng như cá nhân,
cơ quan tổ chức có thẩm quyền khác áp dụng
pháp luật trên cơ sở thống nhất, rõ ràng và
minh thị./.
HỘ GIA ĐÌNH - GÓC NHÌN CHỦ THỂ TỪ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
(Tiếp theo trang 22)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hanh_lang_phap_ly_cho_hoat_dong_kinh_te_phi_chinh_thuc_o_vie.pdf