Vôi hóa
Vôi hoá thường gặp, chiếm tỉ lệ 51,4%. Theo
y văn, vôi hóa dạng đám vùng trên yên là dấu
hiệu đặc trưng của u sọ hầu(6,9). Như vậy, cấu
trúc u đặc có thành phần nang kèm vôi hoá ở
vùng tuyến yên rất có giá trị chẩn đoán, giúp
phân biệt u sọ hầu với các u não khác cùng vị trí.
Hơn nữa vôi hóa lớn vùng trên yên có thể tiên
lượng phẫu thuật lấy u khó khăn(3). Tuy MRI
giúp khảo sát mức độ xâm lấn và tình trạng phù
não tốt hơn nhưng theo kết quả của chúng tôi,
CT scan lại nhạy hơn MRI trong việc phát hiện
vôi hóa. Điều này cũng đã được đề cập đến
trong bài tổng kết của tác giả Karavitaki năm
2006(7). Vì vậy kết hợp 2 phương tiện này khi cần
thiết sẽ giúp chẩn đoán chính xác hơn.
Mô học
Trong nghiên cứu của chúng tôi, u sọ hầu
dạng u men bào chiếm đa số (83,3%). Theo y
văn, đây cũng là týp mô học thường gặp nhất(5).
U sọ hầu dạng u men bào thường gặp hơn ở
nhóm trẻ tuổi, có kích thước lớn hơn u sọ hầu
dạng u nhú tế bào gai nên thường sẽ có tiên
lượng xấu hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
vôi hóa và sừng hóa và giảm tín hiệu trên T1W
cũng là đặc điểm giúp phân biệt các týp mô học.
Theo Schefer, u dạng men bào thường vôi hóa
hơn, có thành phần nang, và hay bao lấy các
mạch máu hơn dạng u nhú tế bào gai(10). Như
vậy, nếu trên hình ảnh khối u kích thước lớn, vôi
hóa nhiều, giảm tín hiệu trên T1W và người
bệnh tương đối trẻ tuổi có thể nghĩ nhiều đến u
sọ hầu dạng u men bào. Một số nghiên cứu cho
thấy u sọ hầu dạng u nhú tế bào gai có tỉ lệ vị trí
trên yên cao hơn so với dạng men bào, đồng
thời cũng gặp cấu trúc mô đặc nhiều hơn(10). Tuy
nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi lại không
ghi nhận mối liên hệ có ý nghĩa giữa vị trí, cấu
trúc u với týp mô học. Vì vậy, cần phải nghiên
cứu thêm để làm sáng tỏ điều này.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối liên hệ đặc điểm hình ảnh học – giải phẫu bệnh 36 trường hợp u sọ hầu tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 606
KHẢO SÁT MỐI LIÊN HỆ ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH HỌC – GIẢI PHẪU BỆNH
36 TRƯỜNG HỢP U SỌ HẦU TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Minh Thông*, Phan Thị Tường Vân*
TÓM TẮT
Tổng quan: U sọ hầu thường gặp ở người bệnh tuổi nhỏ có tế bào tồn dư của túi Rathke, tạo nên khối choán
chỗ vùng tuyến yên, ảnh hưởng đến chức năng tuyến yên và mô não chức năng kế cận. U liên quan chặt chẽ đến
giao thoa thị giác và trục hạ đồi tuyến yên. Dựa trên triệu chứng lâm sàng thường khó chẩn đoán phân biệt các u
nội sọ khác. Ngày nay, tiến bộ của hình ảnh học đã giúp phát hiện u sớm và gợi mở được thành phần cấu tạo mô
u, chẳng hạn u dạng đặc, nang hoặc vôi hóa và đặc biệt đo được kích thước mô u. Hình ảnh học cho biết đại thể
mô u nhưng bản chất u cần được quan sát mô học. Sự quan sát các mẫu bệnh phẩm từ sinh thiết, phẫu thuật lấy
u hoặc từ các mẫu tử thiết đã giúp các nhà giải phẫu bệnh chia u sọ hầu thành ba týp gồm u sọ hầu dạng u men
bào, u sọ hầu dạng u nhú tế bào gai và týp hỗn hợp. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào tuổi, kích thước u, và týp mô
học. Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu đã xác định mối liên hệ giữa đặc điểm hình ảnh như vị trí, cấu
trúc, hình dạng u, tính chất vôi hóa với kết quả vi thể của mô u.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên hệ đặc điểm hình ảnh học – giải phẫu bệnh của u sọ hầu.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu hồ sơ 36 người bệnh u sọ hầu nhập viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2008 đến
tháng 12/2010 có đầy đủ kết quả phim CT scan hoặc MRI sọ não trước mổ, kết quả giải phẫu bệnh sau mổ.
Kết quả: 36 người bệnh gồm 23 nam và 13 nữ từ 2‐69 tuổi trong đó có 2 đỉnh thường gặp là 5‐10 tuổi và
50‐55 tuổi. Lý do đến khám thường nhất là đau đầu 66,7%. Kích thước u trung bình là 3,6 cm; u lớn hơn ở
nhóm dưới 20 tuổi (p 0,04). Vị trí u chủ yếu ở vùng trên yên (65,7%); kế đến là vị trí trong và trên yên (31,4%).
U có cấu trúc hỗn hợp mô đặc nang dịch chiếm tỉ lệ 72,4%. Phần lớn u giảm tín hiệu trên T1W và tăng tín hiệu
trên T2W. Trên hình ảnh, u sọ hầu thường vôi hoá (51,4%) và có biểu hiện chèn ép mà nhiều nhất là chèn ép
giao thoa thị giác (63,3%). Về mô học, u sọ hầu dạng u men bào chiếm đa số 83,3%. Týp mô học này thường gặp
ở lứa tuổi nhỏ hơn so với u sọ hầu dạng u nhú tế bào gai (p 0,09). Không có sự khác biệt về vị trí hoặc cấu trúc u
trong các týp mô học. Tuy nhiên, u sọ hầu dạng men bào thường giảm tín hiệu trên T1W, có kích thước to hơn
và vôi hóa nhiều hơn so với dạng u nhú tế bào gai.
Kết luận: U sọ hầu thường gặp nhất ở nhóm 5‐10 tuổi. U có kích thước trung bình là 3,6 cm và thường to
hơn ở nhóm dưới 20 tuổi. Vị trí u chủ yếu ở vùng trên yên. U thường có cấu trúc đặc‐nang kèm theo vôi hoá. Về
mô học, u sọ hầu dạng u men bào chiếm tỉ lệ khá cao. Một số đặc điểm hình ảnh có thể giúp phân biệt các týp mô
học trước mổ. Cụ thể, u gặp ở trẻ em, kích thước lớn, giảm tín hiệu trên T1W và vôi hóa gợi ý nhiều đến u dạng
men bào. Ngược lại u sọ hầu dạng u nhú tế bào gai thường gặp ở lứa tuổi lớn hơn, kích thước u nhỏ hơn, thường
tăng tín hiệu trên T1W, và ít gặp tình trạng vôi hóa.
Từ khoá: U sọ hầu, U sọ hầu dạng u men bào, U sọ hầu dạng u nhú tế bào gai.
* Khoa Giải phẫu bệnh, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Minh Thông, ĐT: 0918202941, Email: tranmthong2003@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 607
ABSTRACT
A STUDY OF RELATIONS BETWEEN IMAGING AND HISTOLOGIC FINDINGS OF 36
CRANIOPHARYNGIOMA CASES AT CHORAY HOSPITAL
Tran Minh Thong, Phan Thi Tuong Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 606 ‐ 612
Background: Craniopharyngiomas are derived from remnants of Rathke pouch and often occupy the sellar
region. They affect mainly children and young adults. These tumors have anatomical proximity to essential brain
structures like hypothalamic‐pituitary axis and optic chiasm. Clinical manifestations alone can hardly
differentiate craniopharyngiomas from other intracranial tumors. Nowadays, advances in imaging studies have
given much information about the actual size and consistency of tumors as well as calcification, which make
diagnosis more accurate and earlier. However, besides precious macroscopic features revealed by imaging, the
exact cause of the tumor need to be determined by histologic studies. Through examining biopsy and autopsy
specimens, histopathologists have classified craniopharyngiomas into three types: adamantinomatous
craniopharyngioma, squamous papillary craniopharyngioma and mixed type. The prognosis depends on age,
tumor’s size, and histological type. Recent researchers have found certain correlations between histological type
and some imaging features such as tumor’s site, shape, consistency and calcification.
Objective: To evaluate the relation between imaging and histopathological features of craniopharyngiomas.
Methods and materials: Retrospective study of 36 craniopharyngioma cases diagnosed at Cho Ray
Hospital from January 2008 to December 2010 with imaging and histopathological data.
Results: This study group comprises 23 males and 13 females with ages ranging from 2 to 69 years. There
are 2 peaks: 5‐10 and 50‐55 year‐old patients. The most frequent chief complaint was headache 66.7%. The mean
size of craniopharyngiomas in our sample was 3.6 cm; young patients often had larger tumor than others (p
0.04). On imaging studies, tumors were mainly suprasellar masses (65.7%). 31.4% tumors were found in both
intrasellar and suprasellar regions. Solid‐cystic craniopharyngiomas account for 72.4% of cases. Most tumors
were hypointense on T1W and hyperintense on T2W. Craniopharyngiomas were commonly manifested by
calcification (51.4%) and compression signs (63.3%), especially at the optic chiasm region (63.3%).
Adamantinomatous craniopharyngioma was the main histological type (83.3%) and they were usually
hypointense on T1W. This type of tumor is also associated with younger age, larger size, and more calcification
than those in squamous papillary craniopharyngioma. However, no relationship was found between tumor’s site,
consistency and histological type.
Conclusion: Craniopharyngioma was most often diagnosed in 5‐10 year‐old group. Mean tumor’s size was
3.6 cm. Tumor was mainly suprasellar mass of mixed consistency with calcification. Among histological types,
adamantinomatous group was most commonly seen. There may be some characteristic imaging findings which
help distinguish different histological types. Young age, large‐sized tumor and hypointensity on T1W may
suggest adamantinomatous craniopharyngioma. In contrast, squamous papillary subtype was mainly noted in
older age and the tumor usually had smaller size with less calcification.
Keywords: Craniopharyngioma, Adamantinomatous craniopharyngioma, Squamous papillary
craniopharyngioma.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U sọ hầu xuất phát tế bào tồn dư của ống sọ
hầu, vị trí ở chỗ tiếp giáp giữa cuống phễu và
tuyến yên(5). Đây là u não vùng trên yên thường
gặp nhất ở trẻ em(1). Ở bệnh viện Chợ Rẫy, u
chiếm 54% tất cả các u trên yên ở trẻ em và 20%
ở người lớn(13). Trên mô học, u sọ hầu không có
biểu hiện ác tính nhưng do vị trí liên quan đến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 608
các cấu trúc não quan trọng như vùng hạ đồi
tuyến yên, giao thoa thị giác, mạch máu lớn và
các não thất nên biểu hiện lâm sàng phức tạp
gồm tăng áp lực nội sọ, rối loạn thị giác, thay đổi
về nội tiết và thiếu sót thần kinh(5). U phát hiện
trễ sẽ rất khó điều trị, để lại nhiều hậu quả, di
chứng nặng nề(4). Tuổi, vị trí u, mức độ xâm lấn
và týp mô học đều có liên quan đến tiên lượng.
Vôi hóa nhiều là một trong những nguyên nhân
gây mổ khó và không lấy hết u(4,7).
Nhằm hiểu biết sâu sắc hơn về bệnh, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu mối liên hệ đặc điểm
hình ảnh học‐giải phẫu bệnh để góp phần chẩn
đoán, điều trị và tiên lượng u sọ hầu tốt hơn từ
đó cải thiện chất lượng cuộc sống của người
bệnh, đặc biệt là trẻ em.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu hồ sơ bệnh án 36 người bệnh u sọ
hầu đã được chẩn đoán xác định bằng giải phẫu
bệnh tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2008 đến
2010. Các phần mềm Word 2007, Excel 2007,
Stata 10 dùng để nhập, xử lý số liệu, và trình bày
kết quả nghiên cứu. Phép kiểm Chi bình
phương, Fisher exact và T test được sử dụng để
so sánh tỉ lệ phần trăm hoặc giá trị trung bình
giữa các nhóm. Giá trị p <0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Các đặc điểm chung
Giới
Trong 36 người bệnh có 23 nam (63,9%) và
13 nữ (36,1%). Tỉ lệ nam/nữ = 1,8 tuy nhiên sự
khác biệt này là không có ý nghĩa thống kê với p
= 0,09 > 0,05.
Tuổi
Người bệnh từ 2‐69 tuổi, trung bình là 31,6 ±
20,9. Có 2 đỉnh thường gặp từ 5‐10 tuổi và từ 50‐
55 tuổi. Nhóm trẻ em (≤ 20 tuổi) gồm 14 người
bệnh, chiếm 38,9%.
1
8
3
1
3
2
1 1
3 3
4
3
2
1
0
2
4
6
8
0 20 40 60 80
Biểu đồ 1. Phân bố u sọ hầu theo tuổi
Triệu chứng lâm sàng
Hai lý do đến khám thường gặp nhất là đau
đầu và mờ mắt chiếm tỉ lệ 66,7% và 19,4%. Các
lý do khác bao gồm co giật, mê lú lẫn, nói khó
Đặc điểm khối u
Vị trí
Trên phim, nhiều nhất là u trên yên với tỉ lệ
65,7%, nhiều trường hợp u nằm trong não thất
III. Kế đến là vị trí trong và trên yên (hỗn hợp)
chiếm 31,4%. U sọ hầu trong yên ở 2,9% người
bệnh. Một trường hợp u nằm ở nhu mô não
thuỳ trán (T). Một trường hợp u xâm lấn góc cầu
tiểu não. Trong 26 trường hợp ghi nhận được vị
trí u trên phim và trong lúc mổ thì 23 trường
hợp cho kết quả tương đồng (88,5%), 3 trường
hợp không tương đồng (11,5%).
Bảng 1. So sánh vị trí u trên phim và lúc mổ
Vị trí lúc mổ
Tr
ên
p
hi
m
Trong
yên
Trên
yên
Hỗn hợp Tổng
Trong yên 1 0 0 1
Trên yên 0 17 1 18
Hỗn hợp 0 2 5 7
Tổng 1 9 6 26
Kích thước
U có kích thước trung bình 3,6 cm ± 1,3. U
lớn trên 4 cm chiếm tỉ lệ 53,6%; u từ 2–4 cm
chiếm tỉ lệ 42,9%; u nhỏ hơn 2 cm chỉ chiếm tỉ lệ
3,6%. Kích thước trung bình ở nhóm dưới 20
tuổi là 4,2 cm lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm còn lại là 3,2 cm (p = 0,04).
Cấu trúc u
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 609
Trên phim, u có cấu trúc hỗn hợp mô đặc và
nang dịch chiếm đa số với tỉ lệ 72,4%. U dạng
nang và u dạng đặc đơn thuần chiếm tỉ lệ lần
lượt là 27,6% và 10,3%. Trong 23 trường hợp ghi
nhận được cấu trúc u trên phim và trong lúc mổ
thì 20 trường hợp cho kết quả tương đồng (87%),
3 trường hợp không tương đồng (13%).
Bảng 2. So sánh cấu trúc u trên phim và lúc mổ
Lúc mổ
Tr
ên
p
hi
m
Đặc Nang Hỗn hợp Tổng
Đặc 3 0 0 3
Nang 0 4 1 5
Hỗn hợp 0 2 13 15
Tổng 3 6 14 23
Tín hiệu trên phim MRI
Trong 23 trường hợp được chụp MRI trước
mổ, phần lớn u giảm tín hiệu trên phim T1W và
tăng tín hiệu trên T2W, hơn 30% u có tín hiệu
hỗn hợp tăng và giảm. Có 86,4% trường hợp bắt
thuốc tương phản từ phần mô đặc và vách nang.
Bảng 3. Tín hiệu trên phim MRI
N = 23 Tăng Giảm Hỗn hợp
T1W 3 (13%) 12 (52,2%) 8 (34,8%)
T2W 12 (52,2%) 2 (8,7%) 9 (39,1%)
Chèn ép
Chèn ép giao thoa thị giác, chèn ép não thất,
đẩy lệch đường giữa, tổn thương hố yên chiếm
tỉ lệ lần lượt là 63,3%; 61,3%; 13,3%;và 6,7%. So
sánh theo tuổi chúng tôi ghi nhận được chèn ép
não thất gặp nhiều hơn trong nhóm dưới 20 tuổi
(91,7% so với 42,1%, p = 0,008).
Vôi hoá
Trên đại thể 51,4% u sọ hầu có vôi hóa. So
sánh với kết quả đại thể, độ nhạy của CT scan
trong việc phát hiện vôi hóa là 66,7% cao hơn so
với MRI là 58,3%.
Bảng 4. Khả năng phát hiện vôi hóa trên phim
Độ nhạy Độ đặc hiệu
CT scan 66,7% 66,7%
MRI 58,3% 83,3%
Hình 1. Hình ảnh minh họa u sọ hầu trên phim MRI
(bệnh nhân Cao M.T., nam, 6 tuổi)
Mô học
U sọ hầu dạng u men bào là týp mô học
thường gặp nhất 83,3%. U sọ hầu dạng u nhú tế
bào gai và u sọ hầu dạng hỗn hợp chiếm tỉ lệ
13,9% và 2,9%. Ổ sừng hóa ghi nhận được trong
82,9% trường hợp và thường gặp hơn trong u sọ
hầu dạng u men bào (93,3%) so với u sọ hầu
dạng u nhú tế bào gai (20%) (p = 0,001). Dạng u
men bào thường gặp ở người bệnh trung bình
28,7 tuổi, trẻ hơn so với dạng u nhú tế bào gai là
45,6 tuổi (p = 0,09).
Hình 2. HE x 400: U sọ hầu dạng u men bào,
MSGPB D5520
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 610
Mối liên hệ đặc điểm hình ảnh học‐giải phẫu
bệnh
Bảng 5. Mối liên hệ đặc điểm hình ảnh học‐giải phẫu
bệnh
Đặc điểm hình
ảnh
Dạng u men
bào/hỗn hợp
Dạng u nhú tế
bào gai P
Vị trí
-Trong yên 1 (3,3%) -
1 -Trên yên 20 (66,7%) 3 (60%)
-Trong,
trên yên 9 (30%) 2 (40%)
Kích thước 3,7 cm ± 1,3 2,7 cm ± 0,7 0,18
Cấu
trúc
-Đặc 3 (12%) -
1 -Nang 4 (16%) 1 (25%)
-Đặc, nang 18 (72%) 3 (75%)
T1W
-Tăng 1 (5%) 2 (55,7%)
0,02 -Giảm 12 (60%) -
-Hỗn hợp 7 (35%) 1 (30,3%)
T2W
-Tăng 9 (45%) 3 (100%)
0,42 -Giảm 2 (10%) -
-Hỗn hợp 9 (45%) -
Vôi hóa 17 (56,7%) 1 (20%) 0,17
Không ghi nhận mối liên hệ giữa vị trí, cấu
trúc u và týp mô học. Trên phim T1W, tỉ lệ giảm
tín hiệu cao hơn có ý nghĩa thống kê ở u sọ hầu
dạng men bào so với dạng u nhú tế bào gai. Ở u
sọ hầu dạng u men bào tỉ lệ vôi nhiều hơn dạng
u nhú tế bào gai (56,7% so với 20%) tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa khi thực hiện phép
kiểm Fisher với p = 0,17. U dạng men bào cũng
có kích thước trung bình to hơn u sọ hầu dạng u
nhú tế bào gai.
BÀN LUẬN
Tuổi
Tuổi trung bình là 31,6 lớn hơn có ý nghĩa
thống kê so với nghiên cứu của Nguyễn Quốc
Điền là 16 ở bệnh viện Ung Bướu, p = 0,0001(8).
Điều này có thể do sự khác biệt về đặc điểm
nhóm người bệnh nhập viện. Ở nghiên cứu của
chúng tôi người bệnh đến để phẫu thuật lấy u
lần đầu, còn ở bệnh viện Ung bướu là những
người bệnh được chuyển đến để xạ trị sau khi
đã phẫu thuật do khả năng tái phát cao(8). Chính
vì vậy, trẻ em là nhóm dễ tái phát sẽ chiếm tỉ lệ
cao hơn.
Trong lô nghiên cứu, có 2 đỉnh tuổi cao nhất
là từ 5 ‐ 10 tuổi và từ 50 ‐ 55 tuổi. Trong phân
loại u não của WHO, tác giả Rushing và cs cũng
kết luận 2 đỉnh tuổi thường gặp nhất là từ 5‐15
tuổi và 40‐55 tuổi(9). Như vậy kết quả của chúng
tôi không khác biệt với y văn thế giới.
So với u ngoài trục khác vùng hố yên, tuổi
mắc bệnh cũng là điểm đặc trưng của u sọ hầu.
Khác với u sọ hầu, u tuyến yên phần lớn gặp ở
nhóm 30 ‐ 50 tuổi(13).
Giới
Trong 36 người bệnh có 23 nam và 13 nữ, tỉ
lệ nam/nữ=1,8. Ngược lại, trong nghiên cứu của
Nguyễn Quốc Điền ở bệnh viện Ung Bướu thì
nữ chiếm tỉ lệ cao hơn(8). Trong lô nghiên cứu
của chúng tôi, không có sự khác biệt ý nghĩa về
giới, giới không liên quan đến tỉ lệ mắc bệnh.
Điều này hoàn toàn phù hợp với y văn(5).
Triệu chứng lâm sàng
Theo y văn, biểu hiện lâm sàng của người
bệnh u sọ hầu là không đặc hiệu, chủ yếu bao
gồm triệu chứng tăng áp lực nội sọ, rối loạn thị
giác (62‐84%) và rối loạn nội tiết (52‐87%)(9).
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, các triệu
chứng đau đầu và mờ mắt là 2 lý do thường gặp
nhất khiến người bệnh nhập viện. Từ đó, người
bệnh được chụp phim MRI hoặc CT scan giúp
phát hiện u. Theo một số nghiên cứu trong và
ngoài nước, đau đầu và mờ mắt cũng là những
triệu chứng thường gặp ở người bệnh u sọ
hầu(11,12).
Đặc điểm khối u
Vị trí
Phần lớn u ở trên yên 65,7%; kế đến là vị trí
trong và trên yên 31,4%. Vị trí trong yên chỉ gặp
ở 2,9% người bệnh. Tuy nhiên theo Drevelegas,
u sọ hầu có thể gặp ở bất cứ đâu từ vùng hạ đồi
ở sàn não thất III đến hạnh nhân hầu (2). Do đó
cần cẩn thận khi u nằm ngoài các vị trí thường
gặp. Thật vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi
có 1 trường hợp u nằm trong nhu mô não trán
(T) và 1 trường hợp xâm lấn góc cầu tiểu não. Có
sự tương đồng khá cao trong việc xác định vị trí
u trên hình ảnh và đại thể lúc mổ (88,5%). Vì vậy
phim CT scan hoặc MRI trước mổ rất hữu ích
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 611
giúp hoạch định chính xác đường mổ thích hợp
cho từng vị trí.
Kích thước
Theo như báo cáo của Karavitaki năm 2006,
14‐20% u lớn hơn 4 cm ; 58‐76% u từ 2‐4cm; và 4‐
28% u nhỏ hơn 2 cm(7). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, phần lớn u trên 4 cm (53,6%); u < 2 cm
chỉ chiếm 3,6%. Như vậy tỉ lệ u > 4 cm trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với y văn
(p < 0,05). U lớn nên gây khó khăn cho việc điều
trị, thường không thể phẫu thuật lấy hoàn toàn
u. Đặc biệt, u ở trẻ em thường to hơn so với
nhóm còn lại. Chúng tôi nghĩ do khó khăn khi
khai thác triệu chứng ở trẻ em, đặc biệt là ở giai
đoạn sớm. Điều này cho thấy việc chẩn đoán u
bằng phương tiện hình ảnh ngay khi có biểu
hiện lâm sàng gợi ý ở nhóm đối tượng này là vô
cùng cần thiết.
Tín hiệu, cấu trúc, chèn ép
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, chủ yếu
u có cấu trúc u hỗn hợp mô đặc và nang. Do có
dịch trong khối u nên phần lớn trường hợp giảm
tín hiệu trên T1W và tăng tín hiệu trên T2W,
phù hợp với y văn(10). Kết quả cấu trúc u trên
hình ảnh khá tương đồng với kết quả đại thể
(87%). U sọ hầu lành tính về mô học nhưng do
tính chất tiết dịch nang nhiều làm u có kích
thước tương đối lớn và gây chèn ép cấu trúc não
lân cận. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chèn
ép giao thoa thị giác gặp nhiều nhất 63,3% dẫn
đến biểu hiện lâm sàng là giảm thị lực, giới hạn
thị trường. Tuy nhiên tỉ lệ chèn ép giao thoa thị
ghi nhận được trên phim có phần thấp hơn tỉ lệ
rối loạn thị giác trên lâm sàng là 69,4%. Điều này
có thể giải thích do một số trường hợp bộ máy
thị giác chưa bị chèn ép trên hình ảnh nhưng
tình trạng phù não xung quanh dây thần kinh
thị giác cũng làm ảnh hưởng đến khả năng nhìn
của người bệnh(4,7).
Vôi hóa
Vôi hoá thường gặp, chiếm tỉ lệ 51,4%. Theo
y văn, vôi hóa dạng đám vùng trên yên là dấu
hiệu đặc trưng của u sọ hầu(6,9). Như vậy, cấu
trúc u đặc có thành phần nang kèm vôi hoá ở
vùng tuyến yên rất có giá trị chẩn đoán, giúp
phân biệt u sọ hầu với các u não khác cùng vị trí.
Hơn nữa vôi hóa lớn vùng trên yên có thể tiên
lượng phẫu thuật lấy u khó khăn(3). Tuy MRI
giúp khảo sát mức độ xâm lấn và tình trạng phù
não tốt hơn nhưng theo kết quả của chúng tôi,
CT scan lại nhạy hơn MRI trong việc phát hiện
vôi hóa. Điều này cũng đã được đề cập đến
trong bài tổng kết của tác giả Karavitaki năm
2006(7). Vì vậy kết hợp 2 phương tiện này khi cần
thiết sẽ giúp chẩn đoán chính xác hơn.
Mô học
Trong nghiên cứu của chúng tôi, u sọ hầu
dạng u men bào chiếm đa số (83,3%). Theo y
văn, đây cũng là týp mô học thường gặp nhất(5).
U sọ hầu dạng u men bào thường gặp hơn ở
nhóm trẻ tuổi, có kích thước lớn hơn u sọ hầu
dạng u nhú tế bào gai nên thường sẽ có tiên
lượng xấu hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
vôi hóa và sừng hóa và giảm tín hiệu trên T1W
cũng là đặc điểm giúp phân biệt các týp mô học.
Theo Schefer, u dạng men bào thường vôi hóa
hơn, có thành phần nang, và hay bao lấy các
mạch máu hơn dạng u nhú tế bào gai(10). Như
vậy, nếu trên hình ảnh khối u kích thước lớn, vôi
hóa nhiều, giảm tín hiệu trên T1W và người
bệnh tương đối trẻ tuổi có thể nghĩ nhiều đến u
sọ hầu dạng u men bào. Một số nghiên cứu cho
thấy u sọ hầu dạng u nhú tế bào gai có tỉ lệ vị trí
trên yên cao hơn so với dạng men bào, đồng
thời cũng gặp cấu trúc mô đặc nhiều hơn(10). Tuy
nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi lại không
ghi nhận mối liên hệ có ý nghĩa giữa vị trí, cấu
trúc u với týp mô học. Vì vậy, cần phải nghiên
cứu thêm để làm sáng tỏ điều này.
KẾT LUẬN
U sọ hầu gặp nhiều ở trẻ em. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, người bệnh từ 2‐69 tuổi,
trong đó có 2 đỉnh thường gặp nhất là 5‐10 tuổi
và 50‐55 tuổi. Người bệnh thường nhập viện vì
đau đầu, mờ mắt. Đây là những gợi ý để nghĩ
đến khối choán chỗ nội sọ từ đó làm thêm xét
nghiệm hình ảnh học chẩn đoán trước mổ. Trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 612
phim, cấu trúc hỗn hợp mô đặc nang dịch kèm
vôi hoá vùng trên yên là biểu hiện thường gặp
nhất. U sọ hầu dạng u men bào là týp mô học
chủ yếu. Giữa u sọ hầu dạng u men bào và dạng
u nhú tế bào gai có sự chênh lệch về tuổi mắc
bệnh, kích thước u, tín hiệu trên phim T1W và tỉ
lệ vôi hóa, sừng hóa. Một vài sự khác biệt chưa
đủ ý nghĩa thống kê, điều này đòi hỏi các nghiên
cứu mới với cở mẫu lớn hơn giúp xác định rõ
mối liên hệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berger M.S., Prados,M.D. (2005), Textbook of Neuro‐oncology,
Elsevier Saunders, Philadelphia, Pennsylvania.
2. Drevelegas, A. (2011), Imaging of Brain Tumors with
Histological Correlations (2nd ed.), Springer, Heidelberg.
3. Du R., McDermott, M.W., Gupta, N. (2005).
Craniopharyngioma. In M.S. Berger, M.D. Prados (Eds.),
Textbook of Neuro‐oncology (pp. 710‐718). Elsevier Saunders:
Philadelphia, Pennsylvania.
4. Elwatidy, S.M., Jamjoom, Z.A., Jamjoom, A.B., Yakoub, A.O.
(2002), ʺCraniopharyngioma. Analysis of factors that affect the
outcomeʺ. Saudi Med J, 23(1), 34‐38.
5. Imbach, P., Kuhne, T., Arceci, R. (2004), Pediatric Oncology A
Comprehensive Guide, Springer, New York.
6. Kanno, T. (2005). Craniopharyngioma. In M.S. Berger, M.D.
Prados (Eds.), Textbook of Neuro‐oncology (pp. 385‐387). Elsevier
Saunders: Philadelphia, Pennsylvania.
7. Karavitaki, N., Cudlip, S., Adams, C.B., Wass, J.A. (2006),
ʺCraniopharyngiomasʺ. Endocr Rev, 27(4), 371‐397.
8. Nguyễn Quốc Điền, Hồ Văn Trung, Phạm Lương Giang, Cung
Thị Tuyết Anh (2005), ʺBướu sọ hầu: Lâm sàng và điều trịʺ. Y
Học TP. Hồ Chí Minh, 9, 172‐178.
9. Rushing, E.J., Giangaspero, F., Paulus, W., Burger, P.C. (2007).
Craniopharyngioma. In D.N. Louis, H. Ohgaki, O.D. Wiestler,
W.K. Cavenee (Eds.), WHO Classification of Tumours of the
Central Nervous System (1 ed., pp. 238‐240). International
Agency for Research on Cancer: Lyon.
10. Schefer, S.S., Wichmann, W., Aguzzi, A., Valavanis, A. (1997),
ʺMR Differentiation of Adamantinous and Squamous ‐
Papillary Craniopharyngiomasʺ. Am J Neuroradiol, 18, 77‐87.
11. Trần Minh Thông (2010), ʺKhảo sát đặc điểm lâm sàng‐giải
phẫu bệnh 127 trường hợp u sọ hầuʺ. Y Học TP. Hồ Chí Minh,
14(2), 361‐366.
12. Trần Minh Thông, Phan Thị Tường Vân (2011), ʺĐặc điểm lâm
sàng ‐ giải phẫu bệnh của u sọ hầu tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ
năm 2008 đến 2010ʺ. Tạp chí Ung thư học Việt Nam(2), tr. 28‐
32.
13. Trương Văn Việt, Nguyễn Kim Chung. (2002). U sọ hầu.
Chuyên Đề Ngoại Thần Kinh (tr. 266‐278). Nhà Xuất Bản Y
Học: TP. Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_moi_lien_he_dac_diem_hinh_anh_hoc_giai_phau_benh_36.pdf