Thứ tư, đối với Viện kiểm sát nhân dân
Với vị trí hiến định trong bộ máy nhà
nước, VKSND cần được xác lập rõ vị trí
với tư cách là một cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Về
chức năng của VKSND, vẫn giữ nguyên
chức năng như Hiến pháp năm 2013,
tuy nhiên cần sửa lại cụm từ “thực hành”
quyền công tố thành “thực hiện” quyền
công tố để phù hợp, tương thích với
hình thức minh định trong cơ chế quyền
lực nhà nước: Quốc hội thực hiện quyền
lập hiến, lập pháp; Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp; Tòa án thực hiện quyền
tư pháp. Theo đó, cần sửa đổi khoản 1
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 thành: Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tóm lại, quá trình thi hành Hiến pháp
năm 2013 đã mang lại nhiều chuyển biến
tích cực trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội
nhập quốc tế hiện nay. Bộ máy nhà nước
luôn giữ vị trí trung tâm, có vai trò chủ
đạo trong quản lý mọi mặt của đời sống
xã hội. Việc phát huy tối đa hiệu lực, hiệu
quả của từng cơ quan trong bộ máy nhà
nước tạo nền tảng quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội cho
nhân dân. Hiến pháp là đạo luật cơ bản
nhất, có vị trí quan trọng để thể chế hóa
những quy định trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của hiến pháp năm 2013 về bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH...
CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013 VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LÊ NGỌC DUY* - BÙI THỊ THANH HUYỀN**
Bài viết tập trung phân tích, đánh giá một số quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN)
Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số quy định về các cơ quan trong bộ máy nhà
nước CHXHCN Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013, góp phần hoàn thiện Hiến pháp năm 2013.
Từ khóa: Các cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 2013.
Ngày nhận bài: 21/4/2020; Biên tập xong: 09/6/2020; Duyệt đăng: 12/8/2020
The article concentreates on analyzing and evaluating some regulations in the 2013
Constitution on organization and operation of the State agencies in the Vietnamese
state apparatus. Then, recommendations to perfect provisions on those agencies and
the 2013 Constitution are presented.
Keywords: State agencies, state apparatus, the 2013 Constitution.
Hiến pháp năm 2013 sau một thời gian triển khai thi hành đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể, bước đầu lan tỏa những tư tưởng, tinh
thần, giá trị cốt lõi, tạo tiền đề quan trọng
thực hiện công cuộc xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay và
trong thời gian tới. Trong quá trình thi hành
Hiến pháp năm 2013, bộ máy nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã bộc lộ nhiều vướng
mắc, bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến
nền tảng chính trị, hiệu quả hoạt động của
nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi cá nhân, tổ chức. Vì vậy, việc
tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam
theo Hiến pháp năm 2013 là nhiệm vụ cấp
bách, cần thiết.
1. Tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến
pháp năm 2013
1.1. Quốc hội
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo
Hiến pháp năm 2013 về cơ bản đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan
trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, bởi
vai trò của Quốc hội có sự tác động, ảnh
hưởng đến toàn thể các cơ quan còn lại
trong bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, để
bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả,
nhiệm vụ đầu tiên là phải đổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu từ thực trạng pháp luật, thực
tiễn áp dụng pháp luật, so sánh đối chiếu
với Hiến pháp và pháp luật nước ngoài của
Quốc hội Việt Nam, chúng tôi nhận thấy về
tổ chức và hoạt động của Quốc hội vẫn bộc
lộ một số hạn chế, tồn tại như sau: 1
* Thạc sĩ, Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc
tế, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
* Tiến sĩ, Phó Trưởng khoa Lý luận chính trị, Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH...
48 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
- Theo quy định, Quốc hội hoạt động
không thường xuyên, mỗi năm Quốc hội
họp 2 kỳ, trừ trường hợp họp bất thường
theo quy định tại khoản 2 Điều 83 Hiến
pháp năm 2013. Do vậy, hoạt động của
Quốc hội được thực hiện thông qua các
cơ quan chuyên trách, đặc biệt là cơ quan
thường trực - Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH). Theo chúng tôi, việc quy định
Quốc hội họp một năm 2 kỳ không còn phù
hợp với thực tiễn hiện nay mà chỉ phù hợp
với thời kỳ đất nước có chiến tranh. Mặc
dù đã có nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi quy
định này, Quốc hội nên chuyển sang chế độ
làm việc thường xuyên, liên tục, nhưng kiến
nghị này vẫn chưa được chấp nhận qua
nhiều lần sửa đổi toàn diện các bản Hiến
pháp gần đây. Chúng tôi cho rằng, việc
sửa đổi chuyển chế độ làm việc của Quốc
hội từ 2 kỳ họp trong năm sang chế độ làm
việc thường xuyên cần phải tiến hành ngay
trong lần sửa đổi hoặc ban hành Hiến pháp
mới trong thời gian tới. Yêu cầu thực tiễn
hiện nay đòi hỏi Quốc hội phải làm việc
thường xuyên, liên tục, thậm chí Quốc hội
không thể dồn hết mọi việc cho UBTVQH.
- Với quy định pháp luật hiện hành,
số lượng Đại biểu Quốc hội không quá
500 người, bao gồm đại biểu hoạt động
chuyên trách và đại biểu hoạt động không
chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách ít nhất là 35%
tổng số đại biểu Quốc hội (Điều 23 Luật
tổ chức Quốc hội năm 2014). Như vậy, số
lượng Đại biểu chuyên trách không quá
175 người. Số lượng này so với khối lượng
công việc đồ sộ mà Quốc hội phải giải
quyết rõ ràng là không tương xứng, có thể
dẫn đến kết quả không đạt yêu cầu. Trong
khi đó, số Đại biểu không chuyên trách
hoạt động không đúng năng lực, không
hết trách nhiệm vì nhiều lý do, bởi chính
cơ chế kiêm nhiệm đã vô tình tạo ra. Theo
quy định tại Điều 24 Luật tổ chức Quốc hội
năm 2014, Đại biểu không chuyên trách
phải dành ít nhất 1/3 thời gian làm việc
trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, vì
hoạt động của đại biểu Quốc hội không
phải là hoạt động chính của họ, họ vẫn
còn công việc chuyên môn nên khó có thể
phát huy hết khả năng, tâm huyết. Thậm
chí, nhiều đại biểu còn ngại va chạm nên
không quyết tâm đến cùng, một số đại
biểu thì coi trọng lợi ích của ngành mình
đang công tác nên công việc của Quốc hội
còn né tránh, thực hiện qua loa.
- Chất lượng đại biểu Quốc hội còn
chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới. Thực hiện tốt chức năng lập
hiến, lập pháp, đưa ra quyết định sáng
suốt về vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của
nhà nước một cách hiệu quả là giá trị cốt
lõi trong hoạt động của Quốc hội. Trong
hoạt động lập hiến, lập pháp, cần tăng
cường số lượng đại biểu chuyên trách và
nâng cao chất lượng đại biểu trong công
tác xây dựng pháp luật. Khi thực hiện
chức năng giám sát đối với hoạt động của
các cơ quan nhà nước, Quốc hội cần tiếp
tục nâng cao ý thức trách nhiệm của các
đại biểu, xây dựng cơ chế giám sát hiệu
quả hơn như ban hành quy trình chất vấn
(phải có chế tài để xử lý), bổ sung thêm
các hoạt động giám sát mới như tổ chức
phiên điều trần, bỏ phiếu bất tín nhiệm...
Trong hoạt động giám sát, Quốc hội chủ
yếu tập trung giám sát về mặt chính trị đối
với các cơ quan khác. Do đó, việc giám sát
về mặt chuyên môn vẫn nên giao cho các
cơ quan chuyên trách. Chính vì vậy, việc
thành lập các thiết chế hiến định độc lập
như mô hình ở các quốc gia hiện nay để
LÊ NGỌC DUY - BÙI THỊ THANH HUYỀN
49Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
thực hiện hoạt động giám sát là cần thiết
như cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra,
cơ quan kiểm toán, Hội đồng hiến pháp...
Đặc biệt, việc xây dựng mô hình bảo hiến
ở Việt Nam đang rất cấp bách bởi đây là
cơ quan có thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật do Quốc hội ban hành.
1.2. Chính phủ
Quy định về Chính phủ trong bộ máy
nhà nước CHXHCN Việt Nam theo Hiến
pháp năm 2013 đã có sự bổ sung, hoàn
thiện tương đối đầy đủ, đặc biệt trong cơ
chế thực hiện quyền lực nhà nước, đã quy
định rõ Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng cần xác định rõ mối quan hệ trong
cơ chế tổ chức quyền lực giữa Chính phủ
với Quốc hội và Chính quyền địa phương.
- Mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc
hội thể hiện qua quy định Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội (Điều 94 Hiến
pháp năm 2013). Quy định này cho thấy sự
lệ thuộc ở mức độ cao của Chính phủ với
Quốc hội, làm mất đi sự chủ động, tính độc
lập của Chính phủ trong cơ chế quyền lực
nhà nước. Nhu cầu xây dựng một Chính
phủ mạnh luôn đòi hỏi sự linh hoạt và chủ
động trong hoạt động quản lý để Chính
phủ điều hành mọi hoạt động thuộc chức
năng hành pháp. Đặc biệt, trong hoạt động
quản lý kinh tế, với sự vận động không
ngừng đời sống xã hội, kinh tế thị trường,
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập
toàn cầu đòi hỏi Chính phủ phải thích ứng
với xu thế đó. Vì vậy, cần tăng cường tính
chủ động của Chính phủ trong đề xuất và
triển khai hoạch định chính sách, điều hành
kinh tế để Chính phủ thực hiện chức năng
hành pháp một cách hiệu quả. Nếu Chính
phủ bị ràng buộc, phụ thuộc quá nhiều vào
Quốc hội thì sẽ mất đi tính năng động, chủ
động và tính chịu trách nhiệm. Do đó, trong
mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội,
nên bỏ quy định Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội. Tuy nhiên, cần tăng
cường chất lượng hoạt động giám sát của
Quốc hội đối với Chính phủ, bằng việc đổi
mới hình thức, nội dung, phương thức giám
sát để hoạt động giám sát đạt hiệu quả.
- Mối quan hệ giữa Thủ tướng và thành
viên Chính phủ cũng cần phân định rõ
ràng, đặc biệt làm rõ đâu là trách nhiệm
cá nhân, đâu là trách nhiệm tập thể. Theo
quy định tại Hiến pháp năm 2013, Chính
phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Chính phủ
làm việc theo chế độ tập thể, quyết định
theo đa số (khoản 1 Điều 95). Tuy nhiên,
mối quan hệ giữa Thủ tướng và thành
viên Chính phủ, đặc biệt là Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ còn được
xác lập trên cơ sở: Thủ tướng Chính phủ
là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách
nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của
Chính phủ và những nhiệm vụ được giao
(khoản 2 Điều 95). Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá
nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính
phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được
phân công phụ trách, cùng các thành viên
khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập
thể về hoạt động của Chính phủ (khoản
4 Điều 95). Như vậy, chế độ làm việc của
Chính phủ vẫn là chế độ tập thể, quyết
định theo đa số nhưng Thủ tướng lại chịu
trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội, còn
Bộ trưởng vừa chịu trách nhiệm cá nhân
trước Thủ tướng, vừa chịu trách nhiệm cá
nhân trước Quốc hội. Thực tế, có trường
hợp mâu thuẫn về quản lý, Bộ trưởng nên
thực hiện theo lãnh đạo của Thủ tướng
hay hành động độc lập để thực hiện trách
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH...
50 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
nhiệm trước Quốc hội. Điều này gây ra
sự không rõ ràng về trách nhiệm và hành
động của Bộ trưởng. Bên cạnh đó, với quy
định trên, vai trò của Thủ tướng cũng bị
khuất bóng bởi chế độ tập thể, nhiều vấn
đề Thủ tướng không tự mình quyết định
mà lấy ý kiến tập thể, nhưng hậu quả xảy
ra thì Thủ tướng chịu trách nhiệm cá nhân
trước Quốc hội. Điều này dẫn đến việc có
những sai sót, vi phạm trong hoạt động
của Chính phủ trong nhiều trường hợp
khó xác định rõ là thuộc về ai. Vì vậy, để
giải quyết các mâu thuẫn này, nên xác lập
chế độ thủ trưởng trong tổ chức Chính
phủ. Đây cũng là xu hướng tổ chức Chính
phủ ở nhiều nước trên thế giới1. Khi đó,
Chính phủ sẽ không quyết định tập thể
các vấn đề quan trọng, mà áp dụng chế
độ thủ trưởng, tức là Thủ tướng sẽ quyết
định và chịu trách nhiệm cá nhân (giống
như chế độ làm việc của Bộ hay của Viện
kiểm sát nhân dân hiện nay).
1.3. Tòa án nhân dân
Thiết chế Tòa án nhân dân (TAND)
trong Hiến pháp năm 2013 đã có sự hoàn
thiện trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà
nước; theo đó, Tòa án là cơ quan xét xử
của nước CHXHCN Việt Nam và thực
hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 102).
Về cơ cấu tổ chức, theo Điều 102 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 3 Luật tổ chức
TAND năm 2014, tổ chức TAND gồm:
TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương; Tòa án quân sự. Như
vậy, mô hình xây dựng tòa án khu vực
theo tinh thần cải cách tư pháp vẫn chưa
1 Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Sửa đổi, bổ
sung hiến pháp năm 1992 – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn. Tập 1: Những vấn đề chung về Hiến pháp và bộ máy
nhà nước, NXB Hồng Đức, 2012, Hà Nội, tr.524.
được triển khai thực hiện. Theo chúng
tôi, việc xây dựng tòa án khu vực vẫn rất
cần thiết và không ngoài mục đích đảm
bảo sự độc lập đối với tòa án. Thiết nghĩ,
nhiệm vụ cải cách tư pháp giai đoạn sau
năm 2020 sẽ tiếp tục triển khai xây dựng
mô hình tòa án khu vực. Tất nhiên, nếu
có tổ chức Tòa án khu vực thì việc điều
chỉnh pháp luật cũng chỉ nằm trong Luật
tổ chức TAND chứ không cần sửa đổi quy
định trong Hiến pháp. Một vấn đề mà
chúng tôi cho rằng là sự thiếu sót, không
quy định trong Hiến pháp là “nguyên tắc
các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo
thẩm quyền xét xử”. Đây là một nguyên tắc
tổ chức của Tòa án hiện mới chỉ được quy
định tại Điều 5 Luật Tổ chức TAND năm
2014. Đây là một trong những nguyên
tắc quan trọng bậc nhất trong tổ chức và
hoạt động của tòa án, cùng với nguyên
tắc:“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Hai nguyên
tắc trên là cơ bản và cốt lõi trong tổ chức
và hoạt động của Tòa án, từ đó tiếp tục
đặt ra các nguyên tắc khác như quy định
tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6, 7 Điều 103 Hiến
pháp năm 2013 và một số nguyên tắc
trong Luật tổ chức TAND năm 2014. Tòa
án được tổ chức độc lập theo thẩm quyền
xét xử cũng là cơ sở để xây dựng tòa án
khu vực, không phụ thuộc vào cấp đơn vị
hành chính, không theo cấp chính quyền
địa phương. Chỉ khi tổ chức như vậy, Tòa
án mới thật sự độc lập, tòa án độc lập thì
công lý mới tỏa sáng. Đây cũng là yêu cầu,
mục đích, nhiệm vụ của Tòa án mà khoản
3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã quy
định: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
LÊ NGỌC DUY - BÙI THỊ THANH HUYỀN
51Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Một vấn đề khác trong hoạt động của
Tòa án là cần duy trì và tăng cường cơ chế
giám sát hoạt động xét xử bằng thiết chế
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Hiện
nay, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng, trong
hoạt động xét xử nên bỏ chức năng kiểm
sát hoạt động xét xử vì nó ảnh hưởng đến
nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Tuy nhiên, từ lý luận đến thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay, kiểm sát hoạt động xét xử
luôn cần thiết và không thể không giám
sát hoạt động xét xử. Về mặt lý luận khoa
học pháp lý, quyền lực luôn có xu hướng
và nguy cơ bị lạm dụng, lạm quyền, tha
hóa, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
vi phạm, tham nhũng. Do đó, quyền lực
phải được kiểm soát, ngăn chặn bằng
chính quyền lực, đó cũng là biện pháp
hữu hiệu nhất. Tòa án cũng không phải
là ngoại lệ trong trường hợp này, hoạt
động xét xử cần phải được kiểm soát,
giám sát chặt chẽ mới thật sự phát huy
hiệu quả, đảm bảo công bằng. Về thực
tiễn, hàng năm VKSND và TAND cấp
trên đã ban hành nhiều kháng nghị, kiến
nghị vi phạm trong hoạt động xét xử để
điều chỉnh hoạt động xét xử được đúng
đắn, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Đây chính là minh chứng rõ nét nhất qua
số liệu thực tế công tác ngành Kiểm sát
và Tòa án về sự cần thiết của cơ chế kiểm
soát, giám sát hoạt động xét xử, đặc biệt
bằng thiết chế VKSND.
1.4. Viện kiểm sát nhân dân
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận
VKSND có vị trí hiến định, là một cơ quan
của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam,
thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thiết chế
VKSND càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết, bởi VKSND chính là cơ quan bảo
vệ pháp luật của nhà nước, được ví như
thanh bảo đao của Đảng và Nhà nước
trong bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, công cuộc đấu tranh chống
tham nhũng trở thành quyết tâm chính trị
của Đảng ta nhằm xây dựng bộ máy lãnh
đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh,
khắc phục một trong những nguy cơ lớn
đe dọa sự sống còn của chế độ ta21, việc duy
trì và đổi mới hoạt động mô hình VKS là
hoàn toàn phù hợp bởi lý do sau đây:
Một là, xét về vị trí, VKS nằm ở vị trí
hiến định, có ưu thế nhất định, vì không
thuộc nhánh hành pháp (Chính phủ),
cũng không nằm trong nhánh tư pháp
(Tòa án). VKS là một thiết chế được tổ
chức và hoạt động độc lập, Viện trưởng
VKS cấp dưới chỉ chịu sự lãnh đạo của
VKS cấp trên và của Viện trưởng VKSND
tối cao. Viện trưởng VKSND tối cao do
Quốc hội bầu, chỉ chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Quốc hội. Đồng thời,
trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước, để tăng cường hoạt động giám sát
của nhánh quyền lập pháp với hành pháp
và tư pháp, giải pháp đúng đắn là hoàn
thiện mô hình VKSND, để VKSND thực
sự là chỗ dựa đáng tin cậy của Quốc hội
trong thực hiện quyền lập pháp và giám
sát tối cao của mình.
Hai là, xét về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, VKS có nhiều khả năng phòng ngừa,
răn đe và chủ động trong đấu tranh chống
tội phạm chứ không phải Viện công tố. Chủ
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH...
52 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
trương của Đảng về xây dựng một nền công
tố mạnh trong thiết chế VKSND đã và đang
được VKSND triển khai thực hiện có hiệu quả.
Điều này càng chứng tỏ rằng VKS vẫn tập
trung thực hiện tốt chức năng công tố mạnh
một cách hiệu quả. Như vậy, lý thuyết chuyển
VKS thành Viện công tố với mong muốn xây
dựng nền công tố mạnh, chỉ tập trung vào
hoạt động công tố, nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống tội phạm liệu có cần nữa không?
Việc VKS vừa thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp, vừa thực hiện chức năng công tố sẽ làm
tăng khả năng theo sát vụ việc. Hai chức năng
vừa độc lập, vừa hỗ trợ cho nhau, cùng hướng
đến mục đích chứng minh sự thật khách quan
vụ án, đảm bảo không oan, sai, không bỏ lọt
đối với tội phạm nói chung và tội phạm về
tham nhũng nói riêng. Trong công tác đấu
tranh chống tham nhũng, VKS có điều kiện
thuận lợi nhất để chống tham nhũng, bởi vì
tham nhũng cũng là một loại tội phạm nằm
trong nhóm các tội phạm mà VKS có trách
nhiệm phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và
xét xử.
Như vậy, trong thời gian tới, trong bộ
máy nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn
cần thiết duy trì và đổi mới tổ chức và hoạt
động thiết chế VKSND. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện khẩn
trương nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động
của VKSND là xây dựng một nền công tố
mạnh trong thiết chế VKSND. Theo đó, cần
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra; mở rộng thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong
điều tra một số tội phạm về tham nhũng,
chức vụ; nâng cao chất lượng truy tố và
tranh tụng tại phiên tòa... Bên cạnh đó, cần
đổi mới phương thức, hình thức, nội dung
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm sát, từ đó xây dựng chức năng kiểm
sát trở thành một thành tố không thể thiếu
của VKSND để giám sát hoạt động tư pháp.
Trong tương lai, nghiên cứu mở rộng thẩm
quyền thực hiện chức năng kiểm sát trong
lĩnh vực hành chính, để thiết chế VKSND
trở thành cánh tay nối dài của Quốc hội
nhằm kiểm soát quyền lực đối với nhánh
quyền hành pháp, tư pháp.Về cơ cấu tổ
chức, để đảm bảo sự đồng bộ như bên hệ
thống cơ quan hành chính và hệ thống cơ
quan xét xử, cần thiết tăng thẩm quyền
cho VKS cấp dưới, thu hẹp bộ máy VKS
cấp trên. Mặt khác, cần đảm bảo tổ chức
bộ máy tương ứng với cơ quan điều tra các
cấp và Tòa án các cấp (đặc biệt nếu Tòa án
tổ chức theo mô hình tòa án khu vực).
2. Kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở phân tích ở nội dung trên,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung
một số quy định về các cơ quan nhà nước
trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt
Nam theo Hiến pháp năm 2013 như sau:
Thứ nhất, đối với Quốc hội
Trước mắt, Quốc hội chỉ có đại biểu
chuyên trách, cần xóa bỏ đại biểu không
chuyên trách; đồng thời, thay đổi chế độ làm
việc từ không thường xuyên (một năm 2 kỳ
họp) sang làm việc thường xuyên. Do đó,
Hiến pháp năm 2013 nên sửa đổi như sau:
Điều 79
...
4. Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên
trách, tổng số đại biểu Quốc hội không quá hai
trăm người.
Điều 83
...
LÊ NGỌC DUY - BÙI THỊ THANH HUYỀN
53Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
2. Quốc hội làm việc thường xuyên, theo
chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Với xu thế vận động của cơ chế tổ chức
quyền lực nhà nước, mô hình bảo hiến đã
tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới,
đã đến lúc ở nước ta cần phải có thiết chế
bảo hiến với mô hình Hội đồng hiến pháp.
Do vậy, Hiến pháp năm 2013 khi sửa đổi,
bổ sung cần bổ sung thêm thiết chế Hội
đồng hiến pháp, với tư cách là thiết chế hiến
định độc lập, xếp cùng chương với Hội
đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà
nước. Hội đồng hiến pháp có vị trí hiến
định, là cơ quan do Quốc hội thành lập,
thực hiện chức năng bảo vệ Hiến pháp,
phán xét các hành vi vi hiến, đảm bảo tính
tối cao của Hiến pháp.
Trong thời gian tới, cần xem xét bãi bỏ
chế định UBTVQH khi Quốc hội đã đi vào
hoạt động thường xuyên, ổn định. Mặt
khác, khi thành lập được Hội đồng Hiến
pháp, cần bãi bỏ các quy định về thẩm
quyền Quốc hội, UBTVQH tại khoản 10
Điều 70 và khoản 4 Điều 74 Hiến pháp
năm 2013 và chuyển giao thẩm quyền đó
cho Hội đồng Hiến pháp.
Thứ hai, đối với Chính phủ
- Cần xóa bỏ quy định Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội. Theo đó,
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 nên sửa đổi
thành: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp.
- Cần xóa bỏ quy định Chính phủ làm
việc theo chế độ tập thể, quyết định theo
đa số trong khoản 1 Điều 95, chuyển thành
quy định: Chính phủ làm việc theo chế độ thủ
trưởng, những vấn đề quan trọng của Chính
phủ được thảo luận tập thể, do Thủ tướng
quyết định và chịu trách nhiệm.
Thứ ba, đối với Tòa án nhân dân
Theo phân tích ở trên, chúng tôi kiến
nghị bổ sung vào Điều 103 Hiến pháp
năm 2013 nội dung nguyên tắc các Tòa án
nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử.
Thứ tư, đối với Viện kiểm sát nhân dân
Với vị trí hiến định trong bộ máy nhà
nước, VKSND cần được xác lập rõ vị trí
với tư cách là một cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Về
chức năng của VKSND, vẫn giữ nguyên
chức năng như Hiến pháp năm 2013,
tuy nhiên cần sửa lại cụm từ “thực hành”
quyền công tố thành “thực hiện” quyền
công tố để phù hợp, tương thích với
hình thức minh định trong cơ chế quyền
lực nhà nước: Quốc hội thực hiện quyền
lập hiến, lập pháp; Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp; Tòa án thực hiện quyền
tư pháp. Theo đó, cần sửa đổi khoản 1
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 thành: Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tóm lại, quá trình thi hành Hiến pháp
năm 2013 đã mang lại nhiều chuyển biến
tích cực trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam và hội
nhập quốc tế hiện nay. Bộ máy nhà nước
luôn giữ vị trí trung tâm, có vai trò chủ
đạo trong quản lý mọi mặt của đời sống
xã hội. Việc phát huy tối đa hiệu lực, hiệu
quả của từng cơ quan trong bộ máy nhà
nước tạo nền tảng quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội cho
nhân dân. Hiến pháp là đạo luật cơ bản
nhất, có vị trí quan trọng để thể chế hóa
những quy định trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_hoan_thien_mot_so_quy_dinh_cua_hien_phap_nam_2013.pdf