Một là, Hiến pháp nên có những quy
định cụ thể về thẩm quyền giải thích pháp
luật và sau đó là Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật nên quy định rõ các nguyên
tắc giải thích và giới hạn của việc áp dụng
các nguyên tắc này. Theo đó, Hiến pháp và
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
nên quy định rõ thẩm quyền của Toà án nhân
dân, đặc biệt là của Toà án nhân dân tối cao
trong việc “giải thích - hướng dẫn” cách
hiểu và áp dụng thống nhất các quy phạm
pháp luật còn chưa rõ nghĩa.
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu và áp
dụng có chọn lọc các nguyên tắc giải thích
pháp luật phổ biến trên thế giới, các cơ quan
hữu quan cần bổ sung quy định về trình tự,
thủ tục giải thích, các nguyên tắc giải thích
luật, pháp luật mà Toà án cũng như các cơ
28 Stephen G. Breyer, Judicial review: A Practicing Judge’s Perspective, It is constitution we are expounding - American
Constitution Society for Law and Policy, 2009, pp.189-195.
29 Trần Vang Phủ, Vấn đề lựa chọn và áp dụng pháp luật tại Việt Nam - bất cập và kiến nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 5/2018, tr. 17.
quan được trao quyền khác phải tuân thủ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, vụ
án hình sự, hành chính Chẳng hạn như,
có thể tham khảo quan điểm của Stephen
Gerald Breyer (Giáo sư Luật học và là Thẩm
phán Toà án tối cao Hoa Kỳ) về sáu bước
để xác định, giải thích ý nghĩa của một quy
định nào đó vào giải quyết một vụ việc cụ
thể, các bước được áp dụng lần lượt theo
trình tự sau28: (i) xem xét câu chữ, ngôn
ngữ của chính văn bản đang được áp dụng -
language; (ii) xem xét cấu trúc của toàn văn
bản - structure; (iii) xem xét lịch sử xây dựng
và ban hành quy định đó - history; (iv) xem
xét tiền lệ pháp (gồm cả án lệ) - precedent;
(v) xem xét mục đích ban hành quy định đó
là gì - purpose; và (vi) xem xét kết quả giải
quyết sẽ tác động như thế nào đến chủ thể
đang bị áp dụng pháp luật, đến xã hội, đến
nhà nước nói chung - consequences29.
Ba là, xác định rõ những loại văn bản
nào, cơ quan nào có thẩm quyền giải thích
những loại văn bản đó, hiệu lực pháp lý của
việc giải thích và giải quyết như thế nào
trong trường hợp có nhiều cách giải thích
khác nhau giữa các cơ quan có liên quan đế
vấn đề hay lĩnh vực đó
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nguyên tắc giải thích pháp luật trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TRÊN THẾ GIỚI
VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Tóm tắt:
Trong thực tiễn, giải thích pháp luật giữ vai trò quan trọng đối
với việc ban hành, áp dụng các quy định pháp luật. Trong khoa
học pháp lý, giải thích pháp luật là một lĩnh vực nghiên cứu thu
hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Việc nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước trong giải thích pháp luật sẽ mang đến cho
Việt Nam những gợi mở cần thiết trong việc áp dụng các nguyên
tắc giải thích pháp luật phổ biến trên trên thế giới.
Trần Vang Phủ*
* Giảng viên Khoa Luật - Đại học Cần Thơ.
Abstract
In practice, statutory interpretation plays an important role in the
promulgation and enforcement of the legal regulations. In legal
science, statutory interpretation is a field of studies that attracts
the scientists' attention. That the studies of the foreign countries'
experiences in law interpretation might provide Vietnam with the
necessary suggestions in common law interpretation principles in
the world.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giải thích pháp luật, áp dụng
pháp luật, thông luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/6/2018
Biên tập : 12/12/2018
Duyệt bài : 21/12/2018
Article Infomation:
Keywords: statutory interpretation, law
enforcement, common law
Article History:
Received : 26 Jun 2018
Edited : 12 Dec. 2018
Approved : 21 Dec. 2018
1. Đặt vấn đề
“Giải thích pháp luật” - statutory
interpretation, là thuật ngữ dùng để chỉ một
quá trình xác định ý nghĩa đúng của một
văn bản luật/pháp luật. Đây là một quy trình
được thực hiện bởi chủ yếu là cơ quan tư
pháp, trên nền tảng một số nguyên tắc nhất
định, nhằm xác định ý nghĩa của một quy
định pháp luật và áp dụng vào giải quyết
một vụ việc cụ thể, trong trường hợp quy
1 Oxford, Dictionary of Law, Oxford University Press, 2013, p. 294.
2 Australia Government, Amalgamated society of Engineers v Adelaide Steamship Co Ltd (1920) 28 CLR 129, https://
www.ato.gov.au/law/view/document?DocID=JUD/28CLR129/00004, accessed March 7, 2018.
định đó chưa rõ nghĩa1.
Theo Terence John Higgins, “Giải
thích luật là đi tìm ý định của Nghị viện trên
cơ sở xem xét ngôn từ được sử dụng”2.
Giải thích pháp luật là một hoạt động
quan trọng trong khoa học pháp lý, hoạt
động này giữ vai trò quan trọng trong việc
ban hành, áp dụng và nghiên cứu các quy
định pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 6(382) T3/2019
được xây dựng dựa trên nền tảng luật thành
văn, do đó việc áp dụng pháp luật sẽ có ưu
điểm là rõ ràng, thống nhất. Tuy nhiên, pháp
luật khi được ban hành để điều chỉnh một
quan hệ xã hội nào đó tại thời nó được ban
hành, cho nên, quy định này sẽ trở nên “bất
động”, trong khi các quan hệ xã hội được
điều chỉnh thì luôn “vận động”, vì vậy, lấy
“bất động” để điều chỉnh “vận động” sẽ dẫn
đến trường hợp một số quan hệ xã hội mới
phát sinh mà pháp luật không điều chỉnh kịp;
hoặc khi soạn thảo, do kỹ thuật và năng lực
các nhà làm luật đã không dự liệu được hết
các tình huống phát sinh hoặc có khả năng
phát sinh từ thực tiễn, dẫn đến khó khăn
trong việc áp dụng pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội này. Bên cạnh đó, hoạt
động giải thích pháp luật sẽ cần thiết trong
một số trường hợp sau: (i) khi ban hành văn
bản, cơ quan ban hành nói chung, cơ quan
lập pháp nói riêng chỉ đưa ra nguyên tắc
điều chỉnh và trao quyền giải thích cũng như
cách thức áp dụng nguyên tắc, quy định đó
vào giải quyết từng vụ việc cụ thể; (ii) cơ
quan lập pháp đã ban hành quy định nhưng
sau đó xét thấy không còn phù hợp với điều
kiện hiện tại, nên chính cơ quan này hoặc
ban hành văn bản mới để thay thế, sửa đổi/
hoặc giải thích quy định đó theo hướng phù
hợp với điều kiện hiện tại; (iii) các cơ quan
áp dụng pháp luật trong quá trình thực thi
công vụ của mình hoặc phát hiện một hay
một số quy định nào đó chưa được rõ nghĩa
trong nội hàm hay ngoại diên, dẫn đến việc
lúng túng khi áp dụng giải quyết các vụ việc
cụ thể và đòi hỏi khách quan là cần sự giải
thích những điểm chưa rõ đó hoặc trong quá
trình áp dụng pháp luật xuất hiện những vụ
việc, tình tiết mới mà dựa vào câu chữ của
các quy định pháp luật hiện tại không thể
3 Trong mục này, tác giả tổng hợp các nguyên tắc giải thích pháp luật được áp dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ, Anh quốc và Úc.
4 Nhiều học giả như Charles Beard (The Supreme Court and the Constitution - 1912), Learned Hand (The Bill of Right
– 1958), William Crosskey (Politics and the Constitution - 1953) đều mạnh mẽ tranh luận rằng, khoản 1 Điều 3 của
Hiến pháp Hoa Kỳ không có bất kỳ từ ngữ nào quy định một cách rõ ràng rằng Toà án ở Hoa Kỳ có thẩm quyền giải
thích pháp luật. Khoản 1 Điều 3 quy định “The judicial Power of the United States, shall be vested in one supreme
Court, and in such inferior Courts as the Congress may from time to time ordain and establish”
5 Nguyên văn tiếng Anh: Article III(2) of the U.S Constitution: “The judicial Power shall extend to all Cases, in Law and
Equity, arising under this Constitution, the Laws of the United States, and Treaties made, or which shall be made, under
giải quyết vấn đề đang đặt ra
Vì những lý do cơ bản trên nên việc
nghiên cứu và áp dụng pháp luật đôi khi gặp
nhiều khó khăn và sẽ khó khăn hơn khi đặt
vào bối cảnh của Việt Nam. Liệu việc giải
thích pháp luật của các cơ quan áp dụng pháp
luật, những người thực hiện công vụ hay
những người tham gia tố tụng có được xem
là có giá trị pháp lý, và nếu đối tượng đang
chịu sự điều chỉnh của quy định đó có cách
hiểu khác với quy phạm pháp luật đang được
áp dụng, cách hiểu nào sẽ có giá trị? Ngoài
ra, những phương pháp, nguyên tắc giải thích
pháp luật nào trên thế giới có thể linh hoạt áp
dụng vào thực tiễn tại Việt Nam?
2. Một số nguyên tắc giải thích pháp luật
trên thế giới
2.1 Nguyên tắc giải thích pháp luật theo hệ
thống luật Anh - Mỹ 3
Xác định thẩm quyền giải thích pháp luật
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau
giữa những người ban hành, áp dụng và
nghiên cứu pháp luật Hoa Kỳ về thẩm quyền
giải thích pháp luật của Toà án tại Hoa Kỳ4,
nhưng đa phần các học giả đều đồng ý rằng:
Hiến pháp của Hoa Kỳ đã (gián tiếp) trao
thẩm quyền cho Toà án đối với tất cả các vụ
việc phát sinh trên phương diện luật pháp
và công lý, các điều luật của Hoa Kỳ, các
hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới thẩm quyền của
Chính phủ5. Toà án, đặc biệt là Toà tối cao
Liên bang, có thẩm quyền giải quyết “các vụ
việc nảy sinh từ Hiến pháp - arising under
this Constitution”. Đây là cơ sở cho Tòa án
tối cao có thể tuyên bố các bộ luật của Quốc
hội là không phù hợp với Hiến pháp. Quyền
“xem xét lại của Tòa án” là một quyết định
lịch sử của Chánh án Tòa án tối cao John
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 6(382) T3/2019
Marshall trong vụ Marbury kiện Madison
năm 18036. Thẩm quyền này được các học
giả khác giải thích rõ hơn đó là quyền Hiến
định cho phép Toà án ở Hoa Kỳ có quyền
được giải thích Hiến pháp và các đạo luật
do Nghị viện ban hành7, đồng thời, việc giải
thích này có giá trị tương đương với sự giải
thích của cơ quan ban hành văn bản luật đó,
thậm chí thẩm quyền của Toà án (judicial
power) còn được hiểu bao hàm luôn cả thẩm
quyền tuyên vô hiệu các hành động hoặc quy
định của cơ quan lập pháp hoặc hành pháp
mà Toà án cho rằng trái với Hiến pháp8.
Ở Australia, mặc dù trong Hiến pháp
không có những quy định trao cho Toà án
thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật hay
các văn bản khác, tuy nhiên, tương tự như
nhiều quốc gia khác, thẩm quyền giải thích
pháp luật của Toà án ở Australia vẫn được
chấp nhận như là một “luật bất thành văn”9
và Thẩm phán Hon Michael Kirby AC CMG
của Toà án tối cao Australia giải thích:
“Trong nhà nước pháp quyền, trách nhiệm
chính đáng của thẩm phán là quyết định và
giải thích giá trị, ý nghĩa của quy định còn
tranh cãi hoặc mơ hồ”10.
Nguyên tắc giải thích pháp luật
Tại các quốc gia, mỗi thẩm phán hay
các học giả đều có những phương pháp giải
thích pháp luật của riêng mình, tuy nhiên, vẫn
có những nguyên tắc giải thích pháp luật được
chấp nhận và áp dụng rộng rãi như sau11:
Một là, nguyên tắc tiếp cận từ câu chữ
(literal rule)
their Authority”
6 Chú thích của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong bản dịch chính thức ra tiếng Việt do cơ quan này cung cấp,
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/01/16/35235/, truy cập ngày 07/3/2018.
7 Barnett, Randy E., The Original Meaning of the Judicial Power, Georgetown Law Faculty Publications and Other
Works. 839, 2004, https://scholarship.law.georgetown.edu/facpub/839, accessed March 7, 2018.
8 Supreme Court of the United States, The Court and Constitutional Interpretation, https://www.supremecourt.gov/about/
constitutional.aspx, accessed March 7, 2018.
9 Huỳnh Thị Sinh Hiền, Báo cáo chuyên đề: Pháp luật Australia về giải thích pháp luật của Toà án – Liên hệ pháp luật
Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, ngày 01/3/2018.
10 Hon Michael Kirby AC CMG, Statutory Interpretation: The Meaning of Meaning, Melbourne University Law Review,
Vol. 35(1), 2011, accessed March 8, 2018.
11 Frank B. Cross, The theory and practice of statutory interpretation, Standford University Press, 2009, pp. 10-20.
12 Lawteacher.net, Fisher v Bell [1961] QB 394, https://www.lawteacher.net/cases/fisher-v-bell.php, accessed March 7, 2018.
Đây là nguyên tắc cơ bản của thông
luật đối với hoạt động giải thích pháp luật.
Công việc đầu tiên của thẩm phán khi bắt
đầu giải thích luật thành văn là phải dựa
trên ngữ nghĩa của từ và cấu trúc câu để giải
thích. Nếu nghĩa của từ cần giải thích đã rõ
thì thẩm phán phải áp dụng theo nghĩa đó.
Nguyên tắc này đã được áp dụng
trong vụ án Fisher v. Bell (1961) QB 394.
Theo đó, một người bán hàng bị bắt vì đã
trưng bày trong cửa sổ cửa hàng của mình
một con dao găm kèm theo một tấm nhãn
ghi giá của con dao. Anh ta bị buộc tội bán
một con dao và hành vi này được cho là trái
với quy định tại khoản 1 Điều 1 Đạo luật về
Hạn chế vũ khí tấn công năm 1959 của Anh
quốc (Restriction of Offensive Weapons Act
1959). Tuy nhiên, Thẩm phán đã nhận định
rằng theo các nguyên tắc chung của luật hợp
đồng, việc trưng bày con dao không phải là
một đề nghị bán mà chỉ đơn thuần là một lời
mời (đối với khách hàng), và như vậy người
bán hàng trên đã không đưa ra con dao để
bán và không vi phạm khoản 1 Điều 1 Đạo
luật về Hạn chế vũ khí tấn công năm 195912.
Hai là, nguyên tắc vàng (golden rule)
Nguyên tắc “vàng” được xem là ngoại
lệ của nguyên tắc giải thích câu chữ. Nguyên
tắc này cho phép Tòa án sửa ngữ nghĩa thông
thường của từ khi giải thích theo ngữ nghĩa
thông thường tạo ra kết quả ngượng nghịu
(ambiguity), không hợp lý. Nguyên tắc này
sẽ không được áp dụng nếu quy định đang
xem xét không có sự mơ hồ, không rõ nghĩa,
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 6(382) T3/2019
giới hạn này nhằm hạn chế việc làm sai lệch
ý chí của nhà làm luật qua cách thức sử dụng
từ ngữ.
Nguyên tắc giải thích pháp luật này
được áp dụng trong vụ án Sigsworth, Re,
Bedford v Bedford (1935; Chapter 89).
Toà án đã áp dụng nguyên tắc vàng để giải
thích Điều 46 Luật Quản lý bất động sản
năm 1925 của Anh quốc (Administration of
Estates Act of 1925). Điều luật này quy định
việc giải quyết di sản của người chết trong
trường hợp không có di chúc13 và yêu cầu
Tòa án nên “xác định” quyền thừa kế của ai
đó trong những hoàn cảnh nhất định. Trong
vụ án này, một người con trai đã giết mẹ
mình và sau đó tự tử. Tòa án được yêu cầu
phán xử là gia đình của người mẹ, hoặc con
cháu của người con trai, ai sẽ được quyền
thừa kế tài sản là bất động sản. Sau cùng,
nếu áp dụng nguyên tắc từ câu chữ (literal
rule) thì kết quả sẽ không hợp lý, do đó, Tòa
án đã áp dụng nguyên tắc vàng để tuyên có
lợi cho gia đình của người mẹ14.
Ngoài ra, nguyên tắc này có thể được
tìm thấy trong một vụ án tại Australia. Điều
84 Luật Cảnh sát của bang Tây Úc (Police
Act 1892 WA) quy định phạt bất kỳ người
nào cho phép một người dưới 16 tuổi vào ở
trong nhà, cửa hàng, phòng hoặc bất kỳ nơi
công cộng nào khác mà họ sở hữu. Quy định
này tạo ra một cách hiểu vô lý. Vì vậy, trong
vụ Higgon vs. O’dea [1962] WAR 140, Tòa
án tối cao của bang Tây Úc đã xem xét mục
đích của luật và áp dụng nguyên tắc vàng
để giải thích rằng: “Một người sẽ bị phạt
khi cho phép và giữ một người dưới 16 tuổi
trong nhà hoặc cửa hàng để tham gia các
hoạt động đánh bạc”15.
13 Administration of Estates Act of 1925, https://www.legislation.gov.uk/ukpga/Geo5/15-16/23/section/46, accessed May
10, 2018.
14 Golden rule, https://ipfs.io/ipfs/QmXoypizjW3WknFiJnKLwHCnL72vedxjQkDDP1mXWo6uco/wiki/Golden_rule_
(law).html, accessed May 10, 2018.
15 Legislation and Statutory Interpretation, https://studentvip-notes.s3.amazonaws.com/5116-sample.pdf, accessed March
8, 2018.
16 Lawade.com, The Mischief Rule,
chief-rule/, accessed March 7, 2018.
Ba là, nguyên tắc sửa lỗi (mischief rule)
Tương tự như nguyên tắc vàng,
nguyên tắc sửa lỗi chỉ áp dụng để giải thích
luật thành văn khi mà giải thích theo câu chữ
tạo ra sự mâu thuẫn. Nguyên tắc sửa lỗi sẽ
được áp dụng khi luật thành văn ra đời với
mục đích khắc phục hiện trạng pháp lý nào
đó đang tồn tại nhưng nếu dựa trên cách diễn
đạt trong câu chữ thì hiện trạng đó sẽ không
được khắc phục. Vì vậy, khi giải thích, tòa
án có quyền áp dụng nguyên tắc này để sửa
lỗi cho luật thành văn.
Nguyên tắc giải thích này đã được sử
dụng trong vụ Smith vs. Hughes (1960) 1
WLR 830 theo Luật Vi phạm trên đường
phố năm 1959 của Anh quốc (The Street
Offences Act 1959 - UK). Theo đó, hành
vi lảng vảng, chèo kéo trên đường cho mục
đích mại dâm là tội phạm. Bị cáo cho rằng,
mình thực hiện việc chèo kéo để bán dâm
là trên ban công nhà, chứ không phải trên
đường, do đó không vi phạm quy định pháp
luật. Tuy nhiên, Tòa án đã áp dụng nguyên
tắc sửa lỗi để giải thích và cho rằng ý định
của nhà làm luật là để khắc phục tình trạng
quấy rối từ hoạt động mại dâm nên đã tuyên
bị cáo là có tội16.
Bốn là, nguyên tắc mục đích (purpose rule)
Nguyên tắc giải thích pháp luật này
được áp dụng để giải thích một điều khoản
cụ thể nào đó là phù hợp với mục đích của
việc ban hành đạo luật đang được áp dụng
(“spirit” of the law). Nguyên tắc mục đích
chỉ được áp dụng khi một cách tiếp cận theo
nghĩa đen tạo ra sự mơ hồ hoặc không nhất
quán. Mục đích (linh hồn - spirit) của đạo
luật được xác định bằng cách xem xét toàn
bộ đạo luật và mục đích của việc ban hành
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 6(382) T3/2019
đạo luật nhằm điều chỉnh, ngăn chặn vấn
đề gì. Nguyên tắc này còn được áp dụng để
khắc phục những nhược điểm của nguyên
tắc sửa lỗi.
Nguyên tắc tiếp cận theo mục đích
(purposive approach) đã được áp dụng để
giải quyết vụ R vs. Rogers (2007)17. Trong
vụ án này, bị can là một người đàn ông (quốc
tịch Anh) đã dùng lời lẽ kỳ thị, phân biệt
chủng tộc đối với ba người phụ nữ (quốc
tịch Tây Ban Nha) như: “người nước ngoài
đẫm máu - bloody foreigners” hay “cút về
đất nước của các người - get back to your
own country” và hành vi này bị cáo buộc
là trái với điểm a khoản 1 Điều 31 Luật Tội
phạm và Rối loạn năm 1998 (Crime and
Disorder Act 1998). Mặc dù Điều 32 Luật
Tội phạm và Rối loạn năm 1998 của Anh
quốc không quy định những từ ngữ được sử
dụng trên là vi phạm, nhưng xét về tổng thể
mục đích của Đạo luật thì người đàn ông nêu
trên đã có hành vi phân biệt chủng tộc đối
với người nước ngoài.
Ngoài ra, theo Thẩm phán Toà án
tối cao Liên bang Hoa Kỳ Stephen Gerald
Breyer, có sáu bước để xác định, giải thích
ý nghĩa của một quy định nào đó vào giải
quyết một vụ việc cụ thể, các bước được áp
dụng lần lượt theo trình tự sau18: (i) xem xét
câu chữ, ngôn ngữ của chính văn bản đang
được áp dụng - language; (ii) xem xét cấu
trúc của toàn văn bản - structure; (iii) xem
xét lịch sử xây dựng và ban hành quy định
đó - history; (iv) xem xét tiền lệ pháp (gồm
17 House of Lords, Judgments - R v. Rogers (Appellant) (On Appeal from the Court of Appeal (Criminal Division)),
https://publications.parliament.uk/pa/ld200607/ldjudgmt/jd070228/rogers.htm, accessed March 8, 2018.
18 Stephen G. Breyer, Judicial review: A Practicing Judge’s Perspective, It is constitution we are expounding - American
Constitution Society for Law and Policy, 2009, pp.189-195.
19 Trần Vang Phủ, Vấn đề lựa chọn và áp dụng pháp luật tại Việt Nam - bất cập và kiến nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 5/2018, tr. 17.
20 J. E. M. Portalis, Discours préliminaire prononcé lors de la présentation du projet de la commission du gouvernement,
https://www.etudier.com/sujets/discours-pr%C3%A9liminaire-prononc%C3%A9-lors-de-la-pr%C3%A9sentation-du-
projet-de-la-commission-du-gouvernement/0, accessed on December 13, 2018.
21 Tribunal de la Seine, 24 avr. 1952, Sem. Jur. 1952, II, 7101. – Sự phi lý được nêu trong án lệ, liên quan đến quy định
của Sắc lệnh về cảnh sát đường sắt, theo đó, việc giải thích câu từ sẽ dẫn đến việc cấm các hành khách lên xuống tàu
hỏa khi đoàn tàu đã dừng hẳn : Crim. 8 mars 1938, DP 1930, 1, 101, chú thích Voirin.
cả án lệ) - precedent; (v) xem xét mục đích
ban hành quy định đó là gì - purpose; và (vi)
xem xét kết quả giải quyết sẽ tác động như
thế nào đến chủ thể đang bị áp dụng pháp
luật, đến xã hội, đến nhà nước nói chung -
consequences19.
2.2 Nguyên tắc giải thích pháp luật theo
luật học Pháp
Đối với các phương pháp giải thích
pháp luật, các nhà luật học Pháp có quan
niệm tiên quyết rằng, việc giải thích pháp
luật chỉ được thực hiện khi văn bản đang
cần viện dẫn không còn rõ ràng, điều này
được thể hiện qua châm ngôn “In claris non
fit interpretatio - không cần giải thích những
gì đã rõ ràng”. Quan niệm này được Giáo
sư Portalis khẳng định: “Khi luật rõ ràng,
cần phải tuân thủ; khi luật tối nghĩa cần phải
nghiên cứu sâu hơn những quy định”20. Bên
cạnh đó, nhiều thẩm phán cũng như luật gia
cũng ủng hộ quan điểm này “Khi luật quy
định rõ ràng thì các thẩm phán bắt buộc áp
dụng theo ý nghĩa của luật và cấm nhân danh
giải thích pháp luật để tìm hiểu ý chí của
nhà lập pháp, trừ trường hợp việc áp dụng
văn bản luật dẫn đến sự phi lý nhất định nào
đó”21. Mặc dù vậy, trong trường hợp một
văn bản pháp luật nào đó đang được viện
dẫn không được rõ nghĩa thì hoạt động giải
thích pháp luật vẫn được thực hiện và dựa
theo các nguyên tắc sau: (i) giải thích từ ý
chí của người làm luật; (ii) giải thích thông
qua việc phân tích chính nội dung của văn
bản; (iii) giải thích thông qua chức năng của
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 6(382) T3/2019
quy định từ trong văn bản22. Cụ thể:
(i) Nguyên tắc giải thích theo ý chí của
người làm luật/tác giả
Việc nghiên cứu ý chí của tác giả một
văn bản, đôi khi còn được gọi là “phương
pháp tầm nguyên” hay sưu tầm ý chí nguyên
thủy của nhà lập pháp (genetic method hay
originalism)23, phương pháp này cho rằng,
ý nghĩa thực sự của văn bản là ý nghĩa đã
được mong muốn bởi tác giả vào thời điểm
soạn thảo. Công việc của người giải thích
được xem như tương đồng với công việc của
một sử gia hoặc nhà khảo cổ học bắt đầu
từ việc nghiên cứu những tư tưởng cổ, thời
điểm được in dấu trong văn bản. Vì vậy,
những luật gia bắt đầu công việc nghiên cứu
ý nghĩa bằng cách đọc lại những bản thảo và
những tranh luận trước khi thông qua văn
bản cần xem xét đến.
Ở Pháp, việc nghiên cứu ý chí của nhà
lập pháp đã được khuyến khích bởi Trường
phái Chú giải - Ecole de l’Exégèse, sau khi
ban hành Bộ luật Dân sự năm 1804. Trong
trường hợp luật không rõ nghĩa, suy nghĩ đầu
tiên phải hướng đến là tìm kiếm ý chí của
những nhà pháp điển hóa, qua việc xem xét
những bản thảo để ban hành Bộ luật Dân sự,
ở các tác giả bắt đầu thế kỷ XIX. Tôn trọng
ý chí nguyên thuỷ của nhà làm luật, phương
pháp này chủ trương thẩm phán phải tìm hết
mọi biện pháp để làm sáng tỏ ý chí ấy. Tuy
nhiên, phương pháp giải thích từ ý chí của tác
giả chỉ cung cấp một hoặc một vài ý nghĩa
có thể của bản văn pháp lý, nhưng không thể
khẳng định sẽ rút ra được từ đó một ý nghĩa
22 Đoàn Nguyễn Phú Cường, Một vài khía cạnh của phương pháp giải thích pháp luật theo luật học Pháp, Kỷ yếu Hội
thảo “Giải thích pháp luật của Tòa án Việt Nam hiện nay, Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, tháng 6/2018, tr. 93-99.
23 Vũ Văn Mậu, Dân luật khái luận, Nxb Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr. 313-315.
24 Đoàn Nguyễn Phú Cường, Một vài khía cạnh của phương pháp giải thích pháp luật theo luật học Pháp, Kỷ yếu Hội thảo
“Giải thích pháp luật của Tòa án Việt Nam hiện nay”, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ, tháng 6/2018, tr. 96.
25 Theo định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, Khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 158-159.
Cú pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu cấu trúc của câu văn, tức là nghiên cứu những quy luật chi phối cách thức
các từ và cú đoạn kết hợp với nhau để tạo thành câu văn, hoặc nghiên cứu mối quan hệ lẫn nhau giữa các yếu tố trong
câu văn.
26 C. Perelman, L. Olbrechts-Tyteca, Traité de l’argumentation, la nouvelle rhétorique, Éditions de Université libre de
Bruxelles, coll. "UB lire Fondamentaux", 2008, tr. 175.
27 F. Gény, Méthodes d’interprétation et sources en droit privé poiitif, op. cit., 1919, 2e éd., t. 1, 11° 33, tr. 67.
có thể và thực sự của văn bản24.
(ii) Nguyên tắc giải thích thông qua
việc phân tích nội dung của chính văn bản
Phương pháp này có hai cách: (i) sự
giải thích theo câu chữ và (ii) sự giải thích
tổng thể toàn bộ văn bản. Đối với các nhà
ngôn ngữ học, giải thích theo câu chữ được
xác định là giải thích theo ngữ nghĩa luận
(semantic) hoặc theo cú pháp học25. Phương
pháp này nhằm vào việc xác định ý nghĩa
của văn bản bằng cách chú ý đến đặc tính từ
vựng. Bên cạnh đó, nếu phương pháp giải
thích theo câu chữ không tìm ra được ý nghĩa
văn bản, người ta thường giải thích theo xem
xét vị trí, mối liên hệ giữa chính quy định đó
với toàn bộ văn bản chứa đựng nó26.
(iii) Nguyên tắc giải thích thông qua
chức năng của quy định từ trong văn bản
đang viện dẫn
Sự xác định nghĩa của một quy định
có thể được tiến hành bằng cách nghiên cứu
chức năng của chính văn bản đó. Vì vậy, đôi
khi phương pháp này còn được gọi là giải
thích theo mục đích luận (teleology). Cách
giải thích này tách khỏi tính chất hợp cú
pháp và từ vựng của chính văn bản để xem
xét bối cảnh áp dụng của nó. Phương pháp
giải thích này quan tâm đến “nhu cầu xã hội,
tư tưởng đương đại, luật so sánh, lịch sử
vì điều này sẽ mang lại ý nghĩa cho sự phát
triển của những định chế pháp lý”27.
Những người ủng hộ phương pháp
giải thích này cho rằng, phương pháp tìm
hiểu ý chí của người làm luật và ý nghĩa từ
trong chính nội dung của văn bản sẽ không
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 6(382) T3/2019
đáp ứng được điều kiện, hoàn cảnh mới của
xã hội. Vì vậy, áp dụng phương pháp này sẽ
giúp bù đắp các khoảng trống, lỗ hỏng pháp
luật khi chờ cơ quan lập pháp ban hành quy
định mới.
3. Một số gợi mở cho Việt Nam
Những kinh nghiệm về giải thích pháp
luật của các nước trên thế giới đem đến cho
chúng ta một số gợi mở sau đây:
Một là, Hiến pháp nên có những quy
định cụ thể về thẩm quyền giải thích pháp
luật và sau đó là Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật nên quy định rõ các nguyên
tắc giải thích và giới hạn của việc áp dụng
các nguyên tắc này. Theo đó, Hiến pháp và
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
nên quy định rõ thẩm quyền của Toà án nhân
dân, đặc biệt là của Toà án nhân dân tối cao
trong việc “giải thích - hướng dẫn” cách
hiểu và áp dụng thống nhất các quy phạm
pháp luật còn chưa rõ nghĩa.
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu và áp
dụng có chọn lọc các nguyên tắc giải thích
pháp luật phổ biến trên thế giới, các cơ quan
hữu quan cần bổ sung quy định về trình tự,
thủ tục giải thích, các nguyên tắc giải thích
luật, pháp luật mà Toà án cũng như các cơ
28 Stephen G. Breyer, Judicial review: A Practicing Judge’s Perspective, It is constitution we are expounding - American
Constitution Society for Law and Policy, 2009, pp.189-195.
29 Trần Vang Phủ, Vấn đề lựa chọn và áp dụng pháp luật tại Việt Nam - bất cập và kiến nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 5/2018, tr. 17.
quan được trao quyền khác phải tuân thủ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, vụ
án hình sự, hành chính Chẳng hạn như,
có thể tham khảo quan điểm của Stephen
Gerald Breyer (Giáo sư Luật học và là Thẩm
phán Toà án tối cao Hoa Kỳ) về sáu bước
để xác định, giải thích ý nghĩa của một quy
định nào đó vào giải quyết một vụ việc cụ
thể, các bước được áp dụng lần lượt theo
trình tự sau28: (i) xem xét câu chữ, ngôn
ngữ của chính văn bản đang được áp dụng -
language; (ii) xem xét cấu trúc của toàn văn
bản - structure; (iii) xem xét lịch sử xây dựng
và ban hành quy định đó - history; (iv) xem
xét tiền lệ pháp (gồm cả án lệ) - precedent;
(v) xem xét mục đích ban hành quy định đó
là gì - purpose; và (vi) xem xét kết quả giải
quyết sẽ tác động như thế nào đến chủ thể
đang bị áp dụng pháp luật, đến xã hội, đến
nhà nước nói chung - consequences29.
Ba là, xác định rõ những loại văn bản
nào, cơ quan nào có thẩm quyền giải thích
những loại văn bản đó, hiệu lực pháp lý của
việc giải thích và giải quyết như thế nào
trong trường hợp có nhiều cách giải thích
khác nhau giữa các cơ quan có liên quan đế
vấn đề hay lĩnh vực đó
“thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn” mà
chưa có quy định về biện pháp khắc phục
hậu quả “buộc cải chính thông tin sai sự thật
hoặc gây nhầm lẫn” để kịp thời bổ sung biện
pháp này làm cơ sở cho việc áp dụng trong
thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
của công tác xử phạt và khắc phục hậu quả
do VPHC gây ra.
Thứ tư, cần xem xét bãi bỏ các biện
pháp khắc phục hậu quả “buộc khôi phục lại
tình trạng ban đầu” và “biện pháp buộc loại bỏ
yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa,
phương tiện kinh doanh, vật phẩm” quy định
tại Điều 3 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, cần bổ sung 02 biện pháp là
“buộc điều chuyển lại vị trí công tác” và
“buộc hoàn trả toàn bộ số tiền chênh lệch”
để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định
trong cùng một văn bản, tạo cơ sở pháp lý
cho việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả này đối với các VPHC về y tế
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP...
(Tiếp theo trang 57)
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nguyen_tac_giai_thich_phap_luat_tren_the_gioi_va_nhun.pdf