BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân và mức độ
nhu cầu CSGN người bệnh ung thư
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng có
nhu cầu CSGN cao chiếm đa số, với tỷ lệ là 81%.
Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Thị
Hảo về “Nhu cầu khám chữa bệnh ung thư, chăm
sóc giảm nhẹ và một số yếu tố liên quan của người
dân tại 10 tỉnh Việt Nam năm 2014” [5] với 71,2%.
Về các triệu chứng khảo sát được ở nhóm bệnh
nhân: Đau thường gặp nhất (72.5%), sau đó là mất
ngủ (56.2%) và chán ăn (46.%) các dấu hiêu mắc
này tương tự kết quả nghiên cứu của Health Bridge
(2010) trên 410 người nhà chăm sóc bệnh nhân cho
thấy, trong quá trình mắc bệnh ung thư, nhóm triệu
chứng thường gặp thứ nhất ở các bệnh nhân là đau
(75,9%) và yếu mệt (78,8%) [6]. Những diễn biến
tâm trạng khá phổ biến của bệnh nhân trong quá trình
mắc bệnh ung thư là: Sợ hãi bệnh tật và các can thiệp
điều trị (41,2%), lo lắng cho tương lai của bản thân
và gia đình (43.8%), sợ mất thu nhập và nghèo đói
(36.3%). Như vậycác triệu chứng này khá phổ biến
nên cần được phát hiện sớm trong suốt quá trình điều
trị để có những nhu cầu chăm sóc phù hợp.
4.2. Nhu cầu thông tin
Chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm nhu cầu này
là nhu cầu cần biết chẩn đoán bệnh với 95%, tiếp
theo là nhu cầu cần biết tiên lượng bệnh và chế
độ nghỉ ngơi tại nhà với 81.3%, nhu cầu được biết
phương pháp điều trị (80%), nhu cầu cần được tư
vấn về dinh dưỡng phù hợp (75%). Kết quả trên có
nhiều điểm tương đồng so với nghiên cứu của Akon
Ndiok và Busisiwe Ncama (2018) “Đánh giá nhu
cầu CSGN của bệnh nhân, gia đình sống chung với
ung thư ở một nước đang phát triển”: Cho thấy hầu
hết các nhu cầu phổ biến của bệnh nhân là thông
tin về khả năng điều trị và tác dụng phụ (92,8%),
chẩn đoán (91,6%), xét nghiệm (91,1%) và các triệu
chứng thực thể (90,9%) [7]. Ngoài ra còn có các nhu
cầu khác, chẳng hạn như nhu cầu tâm lý, tinh thần
và tài chính, liên quan đến các yếu tố gây đau khổ
cho người bệnh và gia đình sau chẩn đoán ung thư.
Chẩn đoán bệnh và tiên lượng với bất kỳ một
loại bệnh nào đều là một trong những nhu cầu hàng
đầu của người bệnh. Cùng với đó việc thảo luận và
nắm được phương pháp điều trị đang áp dụng giúp
bệnh nhân có thể hoàn toàn đặt niềm tin vào việc
điều trị, tránh những nghi ngờ không đáng có trong
quá trình điều trị.
4.3. Nhu cầu hỗ trợ chăm sóc
Tỷ lệ cao nhất thuộc về nhóm nhu cầu cần có
điều dưỡng có chuyên môn chăm sóc (77.5%) và
chăm sóc để kiểm soát tốt hơn các triệu chứng
(65%). Kết quả này có sự tương đồng so với nghiên
cứu “Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ và các
yếu tố liên quan của người bệnh sau phẫu thuật ung
thư đại tràng tại bệnh viện K trung ương năm 2018”
của Đỗ Thị Thắm vào năm 2018 khi kết quả của
nghiên cứu chỉ ra rằng có 80,5% đối tượng có nhu
cầu được chăm sóc hỗ trợ việc vệ sinh cá nhân hàng
ngày [8]. Việc tìm hiểu nhu cầu chăm sóc của bệnh
nhân ung thư sẽ giúp đưa ra những biện pháp chăm
sóc phù hợp cho người bệnh và gia đình cũng như
có những biện pháp hướng dẫn giúp người bệnh có
khả năng tự chăm sóc cho bản thân mình.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình chăm sóc cho bệnh nhân ung thư tại khoa ung bướu - chăm sóc giảm nhẹ, bệnh viện trung ương Huế cơ sở II, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 89
Nghiên cứu
NHU CẦU CHĂM SÓC GIẢM NHẸ TẠI NHÀ VÀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO QUÁ TRÌNH CHĂM SÓC CHO
BỆNH NHÂN UNG THƯ TẠI KHOA UNG BƯỚU-CHĂM SÓC
GIẢM NHẸ, BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ CƠ SỞ II
Phan Cảnh Duy1*, Nguyễn Minh Hành1, Nguyễn Dư Quyền1,
Huỳnh Thị Minh Châu1, Lê Hồ Xuân Thịnh1, Mai Xuân Hào1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.65.13
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát các nhu cầu về chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và áp dụng công nghệ thông tin vào quá
trình chăm sóc nhằm mang lại thuận tiện và tiết kiệm cho bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp nghiên
cứu: Nghiên cứu mô tả được thực hiện với cỡ mẫu là 80 người bệnh mắc ung thư giai đoạn IV đang điều trị
tại khoa Ung bướu - Chăm sóc giảm nhẹ, Bệnh viện Trung ương Huế - Cơ sở II từ 10/2019 đến 10/2020.
Kết quả: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có nhu cầu CSGN cao là 81%. Tỷ lệ bệnh nhân cần nhu cầu cung
cấp thông tin điều trị trên 80 % trong đó chỉ khoảng 60% người bệnh hiểu biết về tình hình bệnh. Nhu cầu
cần điều dưỡng có chuyên môn chăm sóc tại nhà là 77.5%, cần chăm sóc để kiểm soát các triệu chứng và
tư vấn dinh dưỡng chiếm 2/3 số bệnh nhân. Gần 80% bệnh nhân cần sự động viên của gia đình, có 78.8%
đối tượng cần hỗ trợ để làm giảm tình trạng chán nãn. Nhóm nhu cầu vật chất: Chiếm tỷ lệ cao nhất là cần
cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến kinh tế (82.5%), nhu cầu cần giúp đỡ về kinh tế là 65%.
Kết Luận: Vai trò CSGN tại nhà rất cần thiết và cần được xây dựng ngay từ lúc bắt đầu điều trị để giảm
gánh nặng cho bệnh nhân và gia đình.
ABSTRACT
THE NEEDS FOR PALLIATIVE CARE AT HOME AND THE APPLICATION
OF INFORMATION TECHNOLOGY IN THE CARE PROCESS FOR CANCER PATIENTS
AT THE DEPARTMENT OF ONCOLOGY - PALLIATIVE CARE, HUE CENTRAL
HOSPITAL - SECOND BRANCH
Phan Canh Duy1*, Nguyen Minh Hanh1, Nguyen Du Quyen1,
Huynh Thi Minh Chau1, Le Ho Xuan Thinh1, Mai Xuan Hao1
Objectives: To investigate the needs of patients in palliative care at home and apply information
technology to the care process to bring convenience and savings to the patients. Subjects and methods:
Crosssectional descriptive design was conducted with a sample size of 80 people with stage IV cancers
1 Khoa UB-CSGN, BVTW Huế cơ sở 2 - Ngày nhận bài (Received): 1/10/2020; Ngày phản biện (Revised): 06/10/ 2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 04 /12 /2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Phan Cảnh Duy
- Email: drphancanhduy@gmail.com; ĐT: 0913420320
Bệnh viện Trung ương Huế
90 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
being treated in the Oncology Department - Palliative care at Hue Central General Hospital Second Branch
from November 2019 to November 2020. Results: The proportion of the sample in high needs of palliative
care was 81%. Patients needing to provide treatment information was more than 80%, 60% of whom
actually knew the disease situation. The needs for specialized nursing were 77.5%, the needs for care to
control symptoms and nutrition counseling accounted for two-thirds of the patients. 80% of patients needed
family support, whereas 78.8% of people needed support to reduce boredom. Materialistic needs group:
Accounting for the highest proportion was the needs to provide information on financial problems (82.5%),
the needs for financial support was 65%. Conclusion: The role of palliative care at home is essential and
needs to be developed at the beginning of treatment to reduce the burden on patients and families.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư (UT) là một trong trong những nguyên
nhân gây gánh nặng bệnh tật lớn nhất trong số các
bệnh không nhiễm khuẩn, chỉ đứng sau bệnh tim
mạch [1]. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới năm
2018, ước tính xuất độ và tử suất ung thư trên toàn
thế giới lần lượt là 182/100.000 và 102,4/100.000
[2]. Mắc bệnh UT là gánh nặng lớn đối với người
bệnh và gia đình do nó ảnh hưởng sâu sắc đến sức
khỏe thể chất, tâm lý xã hội và kinh tế [3].Việc phát
hiện và điều trị ung thư thường được thực hiện ở giai
đoạn muộn làm cho chi phí điều trị gia tăng và khả
năng kéo dài sự sống cũng như cải thiện chất lượng
cuộc sống bị hạn chế.
Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) là một trong các giải
pháp để giải quyết các vấn đề cho người bệnh ung thư
ở giai đoạn muộn. Theo tổ chức y tế thế giới “CSGN
là cách tiếp cận giúp cải thiện chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân và gia đình, những người đang phải
đối mặt với những vấn đề liên quan đến sự ốm đau đe
dọa tính mạng, thông qua sự ngăn ngừa và giảm gánh
nặng họ phải chịu đựng bằng cách nhận biết sớm,
đánh giá toàn diện, điều trị đau và các vấn đề khác
như thực thể, tâm lý, xã hội, tinh thần” [4].
Chăm sóc giảm nhẹ là lĩnh vực mới ở Việt Nam,
chưa có nhiều nghiên cứu để đánh giá nhu cầu
CSGN cho bệnh nhân ung thư. Đặc biệt nhu cầu
chăm sóc không chỉ được thực hiện ở bệnh viện mà
còn được thực hiện tại nhà khi bệnh nhân có mong
muốn điều trị tại nhà vào những ngày cuối đời.
Đứng trước thời đại công nghệ thông tin, kỷ
nguyên áp dụng công nghệ vào nhiều lĩnh vực trong
đó có ngành y tế. Chúng tôi tiến hành xây dựng một
hệ thống thuận lợi giúp bệnh nhân và gia đình có
thể tiến hành đăng ký và theo dõi nhu cầu chăm sóc
giảm nhẹ tại nhà dựa trên các kết quả khảo sát được.
Tại Bệnh viện Đa khoa TW Huế - Cơ sở II cho
đến nay chưa có nghiên cứu về nội dung này. Chính
vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và ứng dụng
công nghệ thông tin vào quá trình chăm sóc cho bệnh
nhân ung thư tại Khoa Ung bướu - Chăm sóc giảm
nhẹ, Bệnh viện Trung ương Huế - Cơ sở II”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 80 bệnh nhân được
chẩn đoán ung thư giai đoạn IV, đang được điều
trị nội trú từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 10 năm
2020, tại Khoa Ung bướu- Chăm sóc giảm nhẹ,
Bệnh viện Trung ương Huế - Cơ sở II
2.2. Phương pháp nghiên cứu : Nghiên cứu cắt
ngang mô tả.
2.3. Tiêu chuẩn đánh giá:Với mỗi nội dung câu
hỏi, sử dụng thang đánh giá phân thành 2 mức độ.
Tùy thuộc vào việc người bệnh có hay không có nhu
cầu. Có: 1 điểm; Không: 0 điểm. Chúng tôi đánh giá
nhu cầu của người bệnh trong nghiên cứu này theo
2 mức độ: Nhu cầu cao và nhu cầu thấp. Hai mức
độ này dựa theo điểm trung bình của tổng điểm các
câu hỏi trong tiểu mục trả lời có và tổng điểm là 26
điểm nên: Nhu cầu cao: >13 điểm, nhu cầu thấp:
≤13 điểm
Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và ứng dụng công nghệ thông tin...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 91
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm chung
Nhóm tuổi có tỷ lệ mắc ung thư cao nhất 60-
69, chiếm 72%. Độ tuổi trung bình 63.3 ± 16.7
(nhỏ nhất là 26 tuổi, lớn nhất là 88 tuổi). Nam
chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ với tỷ lệ nam/nữ là 1,5.
Đa số bệnh nhân sống với gia đình (90%), sống
một mình chiếm 6%. Chủ yếu có thu nhập ơ mức
trung bình(50%), hộ nghèo chiếm 22%. Khoảng
cách từ nhà đến bệnh viện chiếm tỷ lệ cao nhất là
từ 5-10km, chiếm 70%, trong đó gần nhất là 1km,
xa nhất là 36km
3.2 Các dấu hiệu thể chất và tinh thần đang
mắc phải
Bảng 1: Các dấu hiệu thể chất và tinh thần
đang mắc phải (N=80).
Các dấu hiệu đang mắc N Tỷ lệ(%)
Đau 58 72.5
Mất ngủ 45 56.2
Chán ăn 37 46.2
Sợ hãi về bệnh tật và can
thiệp điều trị
33 41.2
Lo lắng cho tương lai bản
thân và gia đình
35 43.8
Sợ mất thu nhập và nghèo
đói
29 36.3
Nhận xét: Đau là dấu hiệu đang mắc phải chủ
yếu(72.5%), các vấn đề về tinh thần gặp phải khoảng
50% số bệnh nhân
Biểu đồ 1: Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của
người bệnh
Nhận xét: Bệnh nhân có nhu cầu cao chiếm chủ
yếu, trên 80%
3.3 Mức độ cần chăm sóc giảm nhẹ
3.4. Nhu cầu cung cấp thông tin
Bảng 2: Nhu cầu cung cấp thông tin của người bệnh (N=80)
STT Nhu cầu muốn biết các thông tin
Có Thực trạng biết các thông tin
N Tỷ lệ(%) N Tỷ lệ(%)
1 Chẩn đoán bệnh 76 95 58 72.5
2 Tiên lượng bệnh 65 81.3 42 52.5
3 Phương pháp điều trị đang trải qua 64 80 58 72.5
4 Các yếu tố có nguy cơ gây bệnh 63 78.8 45 56.2
5 Tác dụng phụ của thuốc 53 66.6 38 47.5
6 Chế độ dinh dưỡng, ăn uống 60 75 51 63.7
7 Chế độ nghỉ ngơi sinh hoạt tại nhà 65 81.3 40 50
Nhận xét: Nhu cầu muốn biết về chẩn đoán bệnh chiếm 95%, trong khi đó thực trạng biết về chẩn đoán
bệnh chỉ chiếm 72.5%. Các nhu cầu khác chiếm 70-80%, trong khi đó thực trạng biết các thông tin này chỉ
chiếm 40-60%
Bệnh viện Trung ương Huế
92 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
3.5. Nhu cầu hỗ trợ về chăm sóc
Bảng 3: Nhu cầu hỗ trợ về chăm sóc (N=80)
STT Nhu cầu hỗ trợ về chăm sóc
Cần nhu cầu
N Tỷ lệ (%)
1 Cần điều dưỡng có chuyên môn chăm sóc 62 77.5
2 Cần chăm sóc để kiểm soát tốt hơn các triệu chứng 52 65
3
Cần chăm sóc về phục hồi chức năng (tập vật lý trị liệu, xoa bóp,
vận động để cải thiện các hoạt động)
29 36.3
4
Cần chăm sóc về y học cổ truyền (xoa bóp, bấm huyệt giúp cải
thiện thể trang)
23 28.8
5 Cần hỗ trợ về tư vấn dinh dưỡng 50 62.5
6 Cần hỗ trợ trong việc vận động, di chuyển 24 30
7 Cần hướng dẫn cách tự chăm sóc bản thân 40 50
Nhận xét: Gần 80% số bệnh nhân có nhu cầu cần điều dưỡng chăm sóc tại nhà, nhu cầu chăm sóc các
triệu chứng và tư vấn dinh dưỡng chiếm gần 2/3 số bệnh nhân.
3.6. Nhu cầu giao tiếp
Bảng 4: Nhu cầu giao tiếp (N=80)
STT Nhu cầu giao tiếp
Cần nhu cầu
N Tỷ lệ (%)
1 Cần nhân viên y tế dành thời gian thảo luận các vấn đề khó khăn 58 72.5
2 Cần nhân viên chăm sóc, lắng nghe, quan tâm, chia sẻ 57 71.3
3 Cần nói chuyện với những người có cùng hoàn cảnh 52 65
4 Cần sự động viên, khích lệ của người thân, gia đình 62 77.5
Nhận xét: Các nhu cầu cần giao tiếp chiếm tỷ lệ từ 70-80%. Cần sự động viên, khích lệ của người
thân và gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất (80%)
3.7. Nhu cầu hỗ trợ về tinh thần
Bảng 5: Nhu cầu hỗ trợ về tinh thần (N=80)
STT Nhu cầu hỗ trợ về tinh thần
Cần nhu cầu
N Tỷ lệ (%)
1 Cần hỗ trợ đề làm giảm tình trạng chán nản 63 78.8
2
Cần hỗ trợ để là giảm bớt nỗi buồn phiền về thay đổi diện mạo do
tác dụng phụ của thuốc
61 76.3
3
Cần được người xung quanh tôn trọng, cư xử bình thường như
những người khác
60 75
4
Cần tham gia các hoạt động có ích, giúp giảm bớt cảm giác muộn
phiền về bệnh tật
58 72.5
5
Cần hỗ trợ để làm giảm lo lắng do giảm thu nhập và thêm chi phí
điều trị bệnh
55 68
Nhận xét: 78,8% bệnh nhân cần được hỗ trợ để làm giảm tình trạng chán nản, nhu cầu cần hỗ trợ để làm
giảm muộn phiền và cần được tôn trọng, cư xử như người bình thường chiếm trên 75%.
Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và ứng dụng công nghệ thông tin...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 93
3.8. Nhu cầu hỗ trợ về vật chất
Bảng 6: Nhu cầu hỗ trợ về vật chất (N=80)
STT Nhu cầu hỗ trợ về vật chất
Cần nhu cầu
N Tỷ lệ (%)
1 Cần cung cấp thêm thông tin về những vấn đề liên quan đến kinh tế 66 82.5
2 Cần giúp đỡ về kinh tế 52 65
3 Cần cung cấp thông tin về các cơ sở, tổ chức bảo trợ xã hội 49 66.2
Nhận xét: 82.5% bệnh nhân cần cung cấp thêm thông tin về những vấn đề liên quan đến kinh tế, hơn 2/3
số bệnh nhân cần đến giúp đỡ về kinh tế
3.8. Ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình chăm sóc giảm nhẹ tại nhà
Bước 1: Phát triển phần mềm ghi nhận và quản lý thông tin về nhu cầu CSGN tại nhà của bệnh nhân theo
hai hình thức (website và ứng dụng điện thoại)
Bước 2: Giới thiêu các nội dung chăm sóc lên trang Website Bênh viện và trang Facebook
Bước 3: Hướng dẫn cách đăng ký trên trang Website Bệnh viện và trang Facebook
Bước 4: Liên hệ và lên kế hoạch chăm sóc tại nhà cho bệnh nhân
Bước 5: Lập phiếu theo dõi đánh giá quá trình chăm sóc
Giới thiệu lên trang Web Bệnh viện Phiếu đăng ký chăm sóc
Tờ phơi về dịch vụ chăm sóc tại nhà Phiếu phản hồi trong quá trình chăm sóc
Bệnh viện Trung ương Huế
94 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân và mức độ
nhu cầu CSGN người bệnh ung thư
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng có
nhu cầu CSGN cao chiếm đa số, với tỷ lệ là 81%.
Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Thị
Hảo về “Nhu cầu khám chữa bệnh ung thư, chăm
sóc giảm nhẹ và một số yếu tố liên quan của người
dân tại 10 tỉnh Việt Nam năm 2014” [5] với 71,2%.
Về các triệu chứng khảo sát được ở nhóm bệnh
nhân: Đau thường gặp nhất (72.5%), sau đó là mất
ngủ (56.2%) và chán ăn (46.%) các dấu hiêu mắc
này tương tự kết quả nghiên cứu của Health Bridge
(2010) trên 410 người nhà chăm sóc bệnh nhân cho
thấy, trong quá trình mắc bệnh ung thư, nhóm triệu
chứng thường gặp thứ nhất ở các bệnh nhân là đau
(75,9%) và yếu mệt (78,8%) [6]. Những diễn biến
tâm trạng khá phổ biến của bệnh nhân trong quá trình
mắc bệnh ung thư là: Sợ hãi bệnh tật và các can thiệp
điều trị (41,2%), lo lắng cho tương lai của bản thân
và gia đình (43.8%), sợ mất thu nhập và nghèo đói
(36.3%). Như vậycác triệu chứng này khá phổ biến
nên cần được phát hiện sớm trong suốt quá trình điều
trị để có những nhu cầu chăm sóc phù hợp.
4.2. Nhu cầu thông tin
Chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm nhu cầu này
là nhu cầu cần biết chẩn đoán bệnh với 95%, tiếp
theo là nhu cầu cần biết tiên lượng bệnh và chế
độ nghỉ ngơi tại nhà với 81.3%, nhu cầu được biết
phương pháp điều trị (80%), nhu cầu cần được tư
vấn về dinh dưỡng phù hợp (75%). Kết quả trên có
nhiều điểm tương đồng so với nghiên cứu của Akon
Ndiok và Busisiwe Ncama (2018) “Đánh giá nhu
cầu CSGN của bệnh nhân, gia đình sống chung với
ung thư ở một nước đang phát triển”: Cho thấy hầu
hết các nhu cầu phổ biến của bệnh nhân là thông
tin về khả năng điều trị và tác dụng phụ (92,8%),
chẩn đoán (91,6%), xét nghiệm (91,1%) và các triệu
chứng thực thể (90,9%) [7]. Ngoài ra còn có các nhu
cầu khác, chẳng hạn như nhu cầu tâm lý, tinh thần
và tài chính, liên quan đến các yếu tố gây đau khổ
cho người bệnh và gia đình sau chẩn đoán ung thư.
Chẩn đoán bệnh và tiên lượng với bất kỳ một
loại bệnh nào đều là một trong những nhu cầu hàng
đầu của người bệnh. Cùng với đó việc thảo luận và
nắm được phương pháp điều trị đang áp dụng giúp
bệnh nhân có thể hoàn toàn đặt niềm tin vào việc
điều trị, tránh những nghi ngờ không đáng có trong
quá trình điều trị.
4.3. Nhu cầu hỗ trợ chăm sóc
Tỷ lệ cao nhất thuộc về nhóm nhu cầu cần có
điều dưỡng có chuyên môn chăm sóc (77.5%) và
chăm sóc để kiểm soát tốt hơn các triệu chứng
(65%). Kết quả này có sự tương đồng so với nghiên
cứu “Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ và các
yếu tố liên quan của người bệnh sau phẫu thuật ung
thư đại tràng tại bệnh viện K trung ương năm 2018”
của Đỗ Thị Thắm vào năm 2018 khi kết quả của
nghiên cứu chỉ ra rằng có 80,5% đối tượng có nhu
cầu được chăm sóc hỗ trợ việc vệ sinh cá nhân hàng
ngày [8]. Việc tìm hiểu nhu cầu chăm sóc của bệnh
nhân ung thư sẽ giúp đưa ra những biện pháp chăm
sóc phù hợp cho người bệnh và gia đình cũng như
có những biện pháp hướng dẫn giúp người bệnh có
khả năng tự chăm sóc cho bản thân mình.
4.4. Nhu cầu giao tiếp quan hệ
Nhóm nhu cầu cao nhất mà các đối tượng nghiên
cứu mong muốn nhất là nhu cầu cần sự động viên
của người thân và gia đình (77.5%), sau đó là nhóm
nhu cầu cần nhân viên y tế thảo luận các vấn đề khó
khăn (72.5%). Khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn,
hiểm nghèo nhất, những người bệnh đều mong
muốn phía sau mình là một gia đình hiểu và động
viên để vượt qua khó khăn. Còn trong quá trình điều
trị bệnh, những người gần gũi nhất với người bệnh
là các điều dưỡng chăm sóc. Việc được các điều
dưỡng chăm sóc quan tâm, lắng nghe và chia sẻ sẽ
giúp đỡ rất nhiều, nâng cao tinh thần người bệnh
bên cạnh những giờ phút được gặp gỡ, trò chuyện
với những người cùng hoàn cảnh.
4.5. Nhu cầu hỗ trợ về tinh thần
Nhu cầu hàng đầu về tinh thần mà đối tượng
nghiên cứu mong muốn là cần hỗ trợ để làm giảm
tình trạng chán nãn (78.8%), cần hỗ trợ để giảm bớt
nỗi buồn phiền và thay đổi diện mạo do tác dụng
phụ của thuốc (76.3%) và hỗ trợ làm giảm lo lắng do
giảm thu nhập và tăng thêm chi phí điều trị (68%).
Tất cả những nhu cầu trên đều xuất phát từ tâm lý
Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại nhà và ứng dụng công nghệ thông tin...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 95
chung của các bệnh nhân mắc và điều trị ung thư.
Theo HealthBridge phần lớn bệnh nhân đã từng trải
qua sự sợ hãi, lo lắng do bệnh tật gây ra ngay tại
thời điểm đi khám chữa bệnh. Những diễn biến tâm
trạng khá phổ biến của bệnh nhân trong quá trình
mắc bệnh ung thư là: sợ hãi bệnh tật và các can thiệp
điều trị (50,5%), lo lắng cho tương lai của bản thân
và gia đình (47,6%), sợ chết (31,5%) [9].
Những diễn biến tâm lý này là một trong các
nguyên nhân khiến bệnh nhân cần nhận được những
sự chăm sóc về mặt tâm lý, đặc biệt là những chăm
sóc giúp giảm nhẹ nỗi đau thể xác hay những tác
động tâm lý. Giúp bệnh nhân bớt mặc cảm về ngoại
hình, mặc cảm về việc mình là gánh nặng cho gia
đình trong quá trình điều trị ung thư.
4.6. Nhu cầu về vật chất
Đối với những nhu cầu về vật chất, nhu cầu hàng
đầu của các đối tượng trong nghiên cứu là cung
cấp thêm thông tin về những vấn đề liên quan đến
kinh tế trong quá trình điều trị (82.5%), cung cấp
thêm thông tin về các cơ sở, tổ chức bảo trợ xã hội
(66.2%) và trợ giúp trực tiếp về kinh tế (65%). Khó
khăn về vật chất là một trong những rào cản lớn đối
với người bệnh. Việc hiểu về hoàn cảnh của bệnh
nhân sẽ giúp dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ đưa ra
những giải pháp hỗ trợ về kinh tế cho người bệnh.
Đơn giản nhất có thể kể đến là việc liên hệ những
tổ chức, cá nhân kêu gọi sự ủng hộ cho những bệnh
nhân ung thư. Điều đó cũng phần nào giúp cải thiện
tinh thần cho người bệnh trong giai đoạn cuối đời.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có nhu cầu CSGN tại
nhà cao là 81%.
Thực trạng bệnh nhân biết về tình trạng bệnh
của mình còn tương đối thấp, trong khi đó nhu cầu
mong muốn biết các thông tin này rất lớn.
Nhu cầu hỗ trợ về chăm sóc, giao tiếp và vật chất
chiếm tỷ lệ cao, khoảng 2/3 số bệnh nhân, do đó vai
trò CSGN tại nhà rất cần thiết và cần được xây dựng
ngay từ ban đầu để giảm gánh nặng cho bệnh nhân
và gia đình.
6. HealthBridge (2010). Báo cáo đánh giá thực
trạng cung cấp dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ cho
bệnh nhân ung thư tại Việt Nam.
7. Ndiok A Ncama B (2018), “Assessment of pal-
liative care needs of patients/families living with
cancer in a developing country”, Scand J Caring
Sci. 32(3), page 1215-1226.
8. Đỗ Thị Thắm (2018), Đánh giá nhu cầu chăm
sóc giảm nhẹ và các yếu tố liên quan của người
bệnh sau phẫu thuật Ung thư Đại Trực Tràng
tại bệnh viện K Trung Ương năm 2018, Luận
văn Thạc sỹ Điều Dưỡng, Trường Đại học Điều
dưỡng Nam Định.
9. HealthBridge (2010). Báo cáo đánh giá thực
trạng cung cấp dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ cho
bệnh nhân ung thư tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ y tế Việt Nam (2015), Báo cáo chung tổng
quan ngành y tế.
2. Tổng cục thống kê (2012), Niên giám thống kê,
Nhà xuất bản thống kê.
3. Haun M W Estel S, Rucker G et al (2017), “Early
palliative care for adults with advanced cancer”,
Cochrane Database of Systematic Reviews(6) -
page 22.
4. African Palliative Care Association (2010), “Pal-
liative Care”, Kampala, page 6-7.
5. Trần Thị Hảo (2014), Nghiên cứu nhu cầu khám
chữa bệnh ung thư, chăm sóc giảm nhẹ và một
số yếu tố liên quan của người dân tại 10 tỉnh Việt
Nam năm 2014, Luận văn Thạc sỹ Y tế Công
Cộng, Trường Đại học Y Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhu_cau_cham_soc_giam_nhe_tai_nha_va_ung_dung_cong_nghe_thon.pdf