Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật trong khu vực Asean

Định hướng bên ngoài Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo hướng tương đồng và phù hợp với pháp luật lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan trọng nhất là hài hòa về các quy định trong Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì Hiến pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia. Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ dàng sửa đổi luật thực định theo hướng hài hòa pháp luật lẫn nhau. Thứ hai, cần phát huy hiệu quả, vai trò của các tổ chức ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp, đặc biệt là tăng cường hơn nữa vai trò của Ban thư ký ASEAN. Trong thời gian tới, cần thành lập nhóm cấp cao ASEAN để hoạt động sát sao hơn trong cộng đồng ASEAN và trao cho nhóm này chức năng chủ yếu về chính trị và yếu tố pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng tháng để trao đổi về vấn đề hợp tác sau năm 2015 của cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố chính trị sẽ giúp các quốc gia trong khu vực hợp tác một cách hòa bình, ổn định, còn yếu tố pháp luật là công cụ pháp lý mang đến yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa các quốc gia trong cùng một cộng đồng. Duy trì được hai yếu tố này sẽ giúp chúng ta xây dựng được một cồng đồng chung ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật trong khu vực Asean, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Hài hòa pháp luật và lợi ích đối với Việt Nam Hài hòa hóa pháp luật (legel harmonization) là sự kiện các quốc gia đã thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được; sau đó mỗi quốc gia có quyền tự sửa đổi, ban hành pháp luật mới trong nước của mình để đạt được các mục tiêu chung đó1. Hài hòa hóa pháp luật là một trong những khuynh hướng quan trọng nhất trong các khuynh hướng phát triển chung của 9 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT NHÛÄNG VÊËN ÀÏÌ ÀÙÅT RA ÀÖËI VÚÁI VIÏåT NAM TRONG TIÏËN TRÒNH HAÂI HOÂA HOÁA PHAÁP LUÊÅT TRONG KHU VÛÅC ASEAN Trần Thị Diệu Hương* * ThS. Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật Huế Thông tin bài viết: Từ khoá: hài hòa hóa pháp luật, cộng đồng chung ASEAN Lịch sử bài viết: Nhận bài: 04/01/2016 Biên tập: 10/03/2016 Duyệt bài: 28/04/2016 Article Infomation: Keywords: law harmonization, ASEAN community Article History: Received: 04 Jan. 2016 Edited: 10 Mar. 2016 Approved: 28 Apr. 2016 Tóm tắt: Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập ngày 31/12/ 2015. Sự kiện này đặt ra cho các nước thành viên trong cộng đồng nhiều vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và pháp lý, trong đó vấn đề hài hòa hóa pháp luật đang được các quốc gia trong cộng đồng chung quan tâm hàng đầu. Bài viết làm rõ những lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa hóa pháp luật với các quốc gia trong cộng đồng chung, đồng thời chỉ ra những khó khăn trong quá trình hài hòa hóa pháp luật. Tác giả cũng đưa ra những quan điểm cá nhân về một vài định hướng cho Việt Nam phát huy những lợi ích, khắc phục những khó khăn để tham gia vào tiến trình hài hòa hóa pháp luật cộng đồng chung ASEAN. Abstract: The Asean Economic Community was established on December 31, 2015. It has provided its members with several matters related to economics, politic, culture, society and laws, of which the legal harmonization issue is the one generally interested to the community. This article provides discussions of the benefits for Vietnam, and also points out the disadvantages, in the harmonization process of the laws with the members in the common community. The author also gives personal viewpoints on a number of directions for Vietnam to promote its benefits and overcome the disadvantages to participate in the process of the law harmonization of ASEAN community. 1 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), “Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật của khu vực Asean”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa pháp luật trong xây dựng cộng đồng Asean - Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr. 1. pháp luật trên thế giới. Bởi lẽ, với quá trình mở rộng hợp tác lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác kinh tế thì pháp luật đóng vai trò quan trọng, là yếu tố đảm bảo tính “liên kết ổn định”. Vì vậy, nhu cầu pháp luật chung ngày càng chiếm ưu thế trong pháp luật quốc tế. Hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn về mặt pháp luật, góp phần vào việc thúc đẩy các quốc gia trong khu vực hợp tác với nhau về phương diện chính trị, kinh tế một cách dễ dàng hơn, tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của các quốc gia trong cùng một cộng đồng. Trên thế giới đã có những khu vực không chỉ thành công với chủ trương hài hóa hóa pháp luật từ rất sớm, đưa lại nhiều giá trị thực tiễn cao, mà còn tiến tới đạt mục tiêu là nhất thể hóa pháp luật, góp phần vào sự phát triển bền vững chung của từng quốc gia trong cộng đồng khu vực đó. Điển hình như Cộng đồng kinh tế chung Bắc Âu, từ đầu thế kỷ 19 đã bắt đầu chú trọng tới quá trình nhất thể hóa pháp luật, ban hành những văn bản chung cho 05 quốc gia trong Cộng đồng kinh tế chung. Sự hợp tác này trở nên chính thức vào năm 1872, khi các nhà luật học Bắc Âu tổ chức đại hội với mục đích hỗ trợ cho việc nhất thể hóa pháp luật. Đại hội đã thông qua văn kiện về sự cấp thiết của việc nhất thể hóa pháp luật hối phiếu và sau đó, hàng loạt các văn bản luật chung đã có hiệu lực trong khu vực như Luật về Nhãn hiệu hàng hóa, Luật về Công ty thương mại, Luật Hàng hải Không chỉ Bắc Âu, cuối thế kỷ XX, mô hình Liên minh châu Âu (EU) cũng được coi là một trong những mô hình tiến bộ nhất về hài hòa hóa pháp luật. Sự hài hòa hóa pháp luật được xác định dựa trên sự thỏa hiệp về chính sách giữa các nước thành viên hay những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động được thể hiện bằng ngôn ngữ có thể tạo ra sự linh hoạt hay thỏa hiệp Trên thực tế, hai trường hợp hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng chung Bắc Âu và EU không chỉ đã mang lại thành công khi hạn chế xung đột pháp luật trong khu vực mà còn giúp các quốc gia trong cộng đồng chung phát triển bền vững về mọi mặt: EU, với sự thành công trong quá trình hài hòa hóa pháp luật đã giúp đạt được mục tiêu: i) thiết lập một liên minh thuế quan với thuế suất nội địa chung; ii) kiện toàn các chính sách chung về nông nghiệp, hàng hải, thương mại; iii) mở rộng cộng đồng tới các nước châu Âu còn lại2. Còn đối với Cộng đồng chung Bắc Âu, các nước Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan hiện cũng đang phát triển tốt nhất thế giới. Các quốc gia này luôn ở phía trên bảng xếp hạng của tất cả mọi thứ, từ cạnh tranh kinh tế, y tế đến chỉ tiêu về hạnh phúc. Mô hình kinh tế tư bản Bắc Âu đã thu hút sự chú ý của thế giới3. Trong thời gian tới, khi Việt Nam tham gia vào cộng đồng ASEAN, chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng chính sách hài hòa hóa pháp luật trong khu vực. Việc này sẽ đưa đến cho Việt Nam các lợi ích sau: Thứ nhất, về chính trị, hài hòa hóa pháp luật góp phần vào việc thúc đẩy hợp tác về mặt chính trị giữa các quốc gia trong cộng đồng. Bởi, pháp luật là công cụ quản lý của một nhà nước, khi các công cụ quản lý đó có sự tương đồng về mặt nội dung sẽ quyết định đến một số tương đồng trong chính sách quản lý nhà nước, hạn chế được xung đột trong các chiến lược quản lý của các quốc gia. Khi không có sự xung đột giữa các chính sách quản lý của mỗi một quốc gia, sẽ góp phần tạo một môi trường hợp tác chính trị bền vững và thống nhất. Thứ hai, về kinh tế, hài hòa hóa pháp luật giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật thương mại, sẽ góp phần giúp Việt Nam 10 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 2 Xem thêm tại: vi.wikipedia.org/wiki/cộng-đồng-kinh-tế-châu-âu 3 Xem thêm tại: www.nhipcauwto.com/bắc-âu-mô-hình-kinh-tế-xã-hội-kiểu-mẫu 11 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 4 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú, (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật của khu vực Asean, tlđd, tr. 5. 5 Xem thêm: Trần Thị Diệu Hương (2015), Bàn về Quy định tính hiệu lực của Hiến pháp Việt Nam trong góc nhìn đối chiếu với Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á, Tạp chí Nghề Luật, số 6/2015, tr. 71. hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường - một trong ba khâu đột phá chiến lược của chúng ta hiện nay. Công việc hài hòa hóa này làm gia tăng tính dự đoán trước và làm giảm tính không chắc chắn của việc áp dụng pháp luật Việt Nam. Điều đó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh và rủi ro pháp lý ở Việt Nam. Quá trình này giúp quan hệ kinh tế cũng như quan hệ văn hóa - xã hội và an ninh quốc phòng của Việt Nam ngày càng gắn kết với các nước thành viên khác trong khu vực ASEAN4. Thứ ba, về pháp luật quốc gia: (i) hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn về pháp luật; (ii) đồng thời giải quyết được tình trạng xung đột pháp luật giữa các quốc gia; (iii), điều quan trọng nhất, quá trình hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia tiếp thu, học hỏi lẫn nhau trong quá trình lập pháp để hoàn thiện hơn pháp luật của quốc gia mình. Đặc biệt với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, pháp luật cũng đang ngày một hoàn thiện để phù hợp với bối cảnh kinh tế, chính trị đang thay đổi hiện nay, nên việc tham gia vào cộng đồng chung ASEAN và tham gia vào tiến trình hài hóa hóa pháp luật giữa các quốc gia trong khu vực sẽ giúp Việt Nam có một cái nhìn tổng thể về bức tranh pháp luật các quốc gia trong khu vực, giúp cho việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị pháp lý của những quốc gia có hệ thống pháp luật tiến bộ, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật của quốc gia. 2. Khó khăn đối với Việt Nam trong quá trình hài hòa hóa pháp luật 2.1 Khó khăn từ bên ngoài Thứ nhất, mặc dù các quốc gia ASEAN đang quyết tâm xây dựng một cộng đồng kinh tế chung, đồng thời cũng tiến tới hài hòa hóa pháp luật với chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật chung, thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực, nhưng một khó khăn đặt ra đối với cộng đồng ASEAN hiện nay là pháp luật quốc gia, từ hiến pháp đến các văn bản luật đều khác nhau giữa các nước. Điều này sẽ gây ra nhiều khó khăn đối với Việt Nam nói riêng và với cộng đồng ASEAN nói chung trong việc xây dựng một luật chung thống nhất. Ví dụ, nghiên cứu về Quy định tính hiệu lực trong Hiến pháp các quốc gia ASEAN cho thấy, hoàn toàn không có sự thống nhất giữa các quốc gia trong việc quy định tính hiệu lực của Hiến pháp. Ở góc độ chung, dựa trên sự đáp ứng các tiêu chí đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, như khẳng định Hiến pháp là đạo luật pháp lý cao nhất; quy định mọi cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức đều phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp; quy định bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp đều phải bị bãi bỏ hoặc không có hiệu lực thi hành, thì Hiến pháp các nước ASEAN có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm 1, Các bản Hiến pháp trực tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp Liên bang Malaysia, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa Singapore; Nhóm 2, Các bản Hiến pháp gián tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia như Cộng hòa Indonesia và Cộng hòa Philippines); Nhóm 3, Các bản Hiến pháp ghi nhận không rõ ràng về tính hiệu lực của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia: Vương quốc Brunei; Cộng hòa Liên bang Myanmar; Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Hiến pháp Vương quốc Campuchia)5. Thứ hai, mặc dù nội bộ ASEAN đã có các cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng chưa được áp dụng một cách hiệu quả. Theo quy định tại Hiến chương ASEAN 2007, các tổ chức và cơ chế của ASEAN gồm Hội đồng thượng đỉnh ASEAN; Hội đồng điều phối ASEAN (ACC); Hội đồng về cộng đồng ASEAN; Các cuộc họp cấp Bộ trưởng ASEAN; Uỷ ban đại diện thường trực của ASEAN; Tổng thư ký và Ban thư ký của ASEAN. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp chủ yếu thông qua đối thoại, đàm phán và tham vấn, bên cạnh đó, biện pháp hòa giải hoặc trung gian là cơ chế thường được lựa chọn áp dụng. Trên thực tế, các tổ chức của ASEAN trong vấn đề giải quyết tranh chấp chưa phát huy hiệu quả vai trò của mình. Nhìn chung, việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong thực tế để giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên ngày càng khiêm tốn. Ngoài lý do xuất phát từ truyền thống văn hóa pháp luật Đông Nam Á thì một trong những nguyên nhân của tình trạng này có thể do một số bất cập chính của cơ chế giải quyết tranh chấp. Ví dụ như quy trình giải quyết tranh chấp thương mại (theo Nghị định thư Viên Chăn năm 2004) bị đánh giá là chưa đảm bảo tính minh bạch, thời gian quá dài; ngoài ra, pháp luật về giải quyết tranh chấp của ASEAN luôn tôn trọng tự do thỏa thuận. Vì vậy, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN không phải là nghĩa vụ và là lựa chọn duy nhất của các quốc gia thành viên6. Thứ ba, cộng đồng ASEAN chưa có một hệ thống các thiết chế xây dựng các quy định pháp lý cho cộng đồng như Liên minh châu Âu (gồm: Nghị viện EU, Hội đồng EU và Ủy ban châu Âu). Hiện nay, trong 209 công cụ pháp lý của ASEAN, có 147 công cụ đã có hiệu lực, 21 chưa có hiệu lực, 39 bị bãi bỏ hoặc hết hiệu lực pháp luật. Trong đó, mỗi Hội đồng của cộng đồng ASEAN và các cơ quan cấp Bộ trưởng, các cơ quan giúp việc đang hoàn thiện các cơ chế pháp lý của ASEAN theo lĩnh vực mà họ phụ trách7. 2.2 Khó khăn từ bên trong Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành đang có nhiều hạn chế: thiếu cụ thể, rõ ràng; trùng lặp, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Một thời gian dài, công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng, do đó, đang có tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào hết hiệu lực. Hệ thống pháp luật như vậy sẽ gây khó khăn trong việc hài hòa hóa pháp luật với các quốc gia khác trong khu vực. Trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 đã đặt ra yêu cầu “xác định rõ quy trình, cơ chế “nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Tuy nhiên, Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, cũng như trong Dự thảo mới nhất hiện nay khi sửa đổi Luật này đang xảy ra hai tình trạng: (i) một số quy định về trình tự, danh nghĩa ký kết điều ước quốc tế chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013; (ii) vị trí của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 chưa được thể hiện rõ trong thứ tự các nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam8. Thứ hai, địa vị pháp lý của Việt Nam trên trường quốc tế chưa cao, nên trong quá trình hài hòa hóa pháp luật, chúng ta khó có thể bảo vệ được quan điểm của mình trong 12 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 6 Xem thêm: Đỗ Mạnh Hồng, Chương 6 (2014), Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 382 và tr. 383. 7 Xem thêm: Cộng đồng theo nguyên tắc pháp quyền (2015), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa hóa pháp luật trong xây dựng cộng đồng ASEAN những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr. 4 và tr .5. 8 Xem thêm: Điều 6 Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. việc thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được với các quốc gia trong khu vực để hoàn thiện pháp luật phù hợp với những mục tiêu chung nói riêng và đạt kết quả cao trong quá trình hài hòa hóa pháp luật trong cộng đồng ASEAN nói chung. Quan trọng hơn, năng lực cán bộ, chuyên gia nghiên cứu, xây dựng pháp luật của chúng ta còn thiếu và yếu, chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các luật mẫu, các chuẩn mực pháp lý chung có liên quan. Điều này dẫn đến thực tế là việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên quan trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh đa phần mang tính hình thức9. Thứ ba, một trong những khó khăn nhất là vấn đề ý thức chấp hành pháp luật của người dân, của các cơ quan, tổ chức. Có thể nói, phần lớn người dân Việt Nam vẫn thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị Một số người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế)10. Với quan niệm và ý thức chấp hành pháp luật như vậy, sẽ khó có thể triển khai thực hiện luật chung của khu vực trên thực tế đối với Việt Nam. Điều này sẽ là mối lo ngại lớn khi Việt Nam hài hòa hóa với pháp luật các quốc gia trong khu vực. 3. Kiến nghị định hướng cho pháp luật Việt Nam trong quá trình hài hòa hóa pháp luật ASEAN Có thể khẳng định, hài hòa hóa pháp luật trong cộng đồng chung ASEAN không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho các quốc gia trong khu vực xích lại gần nhau hơn về kinh tế, chính trị và pháp luật, mà còn giúp cho các quốc gia thành viên trong cộng đồng chung thể hiện được tiếng nói của mình trước cộng đồng chung để tiến tới xây dựng một đất nước, một cộng đồng phát triển. Do đó, trong quá trình tiến tới hài hòa hóa pháp luật ASEAN, Việt Nam cần phải tích cực, chủ động hơn trong quá trình này. Cụ thể: Định hướng bên ngoài Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo hướng tương đồng và phù hợp với pháp luật lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan trọng nhất là hài hòa về các quy định trong Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì Hiến pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia. Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ dàng sửa đổi luật thực định theo hướng hài hòa pháp luật lẫn nhau. Thứ hai, cần phát huy hiệu quả, vai trò của các tổ chức ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp, đặc biệt là tăng cường hơn nữa vai trò của Ban thư ký ASEAN. Trong thời gian tới, cần thành lập nhóm cấp cao ASEAN để hoạt động sát sao hơn trong cộng đồng ASEAN và trao cho nhóm này chức năng chủ yếu về chính trị và yếu tố pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng tháng để trao đổi về vấn đề hợp tác sau năm 2015 của cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố chính trị sẽ giúp các quốc gia trong khu vực hợp tác một cách hòa bình, ổn định, còn yếu tố pháp luật là công cụ pháp lý mang đến yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa các quốc gia trong cùng một cộng đồng. Duy trì được hai yếu tố này sẽ giúp chúng ta xây dựng được một cồng đồng chung ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt. 13 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 9 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa hóa pháp luật của khu vực ASEAN, tlđd. 10 Xem thêm: Nguyễn Tất Viễn (2014), Một số biện pháp tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp. (Xem tiÕp trang 36)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_van_de_dat_ra_doi_voi_viet_nam_trong_tien_trinh_hai_ho.pdf
Tài liệu liên quan