Định hướng bên ngoài
Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực
cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo
hướng tương đồng và phù hợp với pháp luật
lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan
trọng nhất là hài hòa về các quy định trong
Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì
Hiến pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị
pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ
dàng sửa đổi luật thực định theo hướng hài
hòa pháp luật lẫn nhau.
Thứ hai, cần phát huy hiệu quả, vai trò
của các tổ chức ASEAN trong việc giải
quyết tranh chấp, đặc biệt là tăng cường hơn
nữa vai trò của Ban thư ký ASEAN. Trong
thời gian tới, cần thành lập nhóm cấp cao
ASEAN để hoạt động sát sao hơn trong
cộng đồng ASEAN và trao cho nhóm này
chức năng chủ yếu về chính trị và yếu tố
pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng
tháng để trao đổi về vấn đề hợp tác sau năm
2015 của cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố
chính trị sẽ giúp các quốc gia trong khu vực
hợp tác một cách hòa bình, ổn định, còn yếu
tố pháp luật là công cụ pháp lý mang đến
yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa
các quốc gia trong cùng một cộng đồng.
Duy trì được hai yếu tố này sẽ giúp chúng
ta xây dựng được một cồng đồng chung
ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật trong khu vực Asean, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Hài hòa pháp luật và lợi ích đối với
Việt Nam
Hài hòa hóa pháp luật (legel
harmonization) là sự kiện các quốc gia đã
thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được;
sau đó mỗi quốc gia có quyền tự sửa đổi,
ban hành pháp luật mới trong nước của mình
để đạt được các mục tiêu chung đó1.
Hài hòa hóa pháp luật là một trong
những khuynh hướng quan trọng nhất trong
các khuynh hướng phát triển chung của
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
NHÛÄNG VÊËN ÀÏÌ ÀÙÅT RA ÀÖËI VÚÁI VIÏåT NAM TRONG TIÏËN TRÒNH
HAÂI HOÂA HOÁA PHAÁP LUÊÅT TRONG KHU VÛÅC ASEAN
Trần Thị Diệu Hương*
* ThS. Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật Huế
Thông tin bài viết:
Từ khoá: hài hòa hóa pháp
luật, cộng đồng chung
ASEAN
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 04/01/2016
Biên tập: 10/03/2016
Duyệt bài: 28/04/2016
Article Infomation:
Keywords: law harmonization,
ASEAN community
Article History:
Received: 04 Jan. 2016
Edited: 10 Mar. 2016
Approved: 28 Apr. 2016
Tóm tắt:
Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập ngày 31/12/ 2015. Sự kiện
này đặt ra cho các nước thành viên trong cộng đồng nhiều vấn đề về kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội và pháp lý, trong đó vấn đề hài hòa hóa
pháp luật đang được các quốc gia trong cộng đồng chung quan tâm hàng
đầu. Bài viết làm rõ những lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài
hòa hóa pháp luật với các quốc gia trong cộng đồng chung, đồng thời
chỉ ra những khó khăn trong quá trình hài hòa hóa pháp luật. Tác giả
cũng đưa ra những quan điểm cá nhân về một vài định hướng cho Việt
Nam phát huy những lợi ích, khắc phục những khó khăn để tham gia vào
tiến trình hài hòa hóa pháp luật cộng đồng chung ASEAN.
Abstract:
The Asean Economic Community was established on December 31,
2015. It has provided its members with several matters related to
economics, politic, culture, society and laws, of which the legal
harmonization issue is the one generally interested to the community.
This article provides discussions of the benefits for Vietnam, and also
points out the disadvantages, in the harmonization process of the laws
with the members in the common community. The author also gives
personal viewpoints on a number of directions for Vietnam to promote
its benefits and overcome the disadvantages to participate in the process
of the law harmonization of ASEAN community.
1 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), “Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp
luật của khu vực Asean”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa pháp luật trong xây dựng cộng đồng Asean - Những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr. 1.
pháp luật trên thế giới. Bởi lẽ, với quá trình
mở rộng hợp tác lẫn nhau trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác kinh tế
thì pháp luật đóng vai trò quan trọng, là yếu
tố đảm bảo tính “liên kết ổn định”. Vì vậy,
nhu cầu pháp luật chung ngày càng chiếm
ưu thế trong pháp luật quốc tế.
Hài hòa hóa pháp luật giúp cho các
quốc gia xích lại gần nhau hơn về mặt pháp
luật, góp phần vào việc thúc đẩy các quốc gia
trong khu vực hợp tác với nhau về phương
diện chính trị, kinh tế một cách dễ dàng hơn,
tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của các
quốc gia trong cùng một cộng đồng.
Trên thế giới đã có những khu vực
không chỉ thành công với chủ trương hài hóa
hóa pháp luật từ rất sớm, đưa lại nhiều giá
trị thực tiễn cao, mà còn tiến tới đạt mục tiêu
là nhất thể hóa pháp luật, góp phần vào sự
phát triển bền vững chung của từng quốc gia
trong cộng đồng khu vực đó. Điển hình như
Cộng đồng kinh tế chung Bắc Âu, từ đầu thế
kỷ 19 đã bắt đầu chú trọng tới quá trình nhất
thể hóa pháp luật, ban hành những văn bản
chung cho 05 quốc gia trong Cộng đồng
kinh tế chung. Sự hợp tác này trở nên chính
thức vào năm 1872, khi các nhà luật học Bắc
Âu tổ chức đại hội với mục đích hỗ trợ cho
việc nhất thể hóa pháp luật. Đại hội đã thông
qua văn kiện về sự cấp thiết của việc nhất
thể hóa pháp luật hối phiếu và sau đó, hàng
loạt các văn bản luật chung đã có hiệu lực
trong khu vực như Luật về Nhãn hiệu hàng
hóa, Luật về Công ty thương mại, Luật
Hàng hải Không chỉ Bắc Âu, cuối thế kỷ
XX, mô hình Liên minh châu Âu (EU) cũng
được coi là một trong những mô hình tiến
bộ nhất về hài hòa hóa pháp luật. Sự hài hòa
hóa pháp luật được xác định dựa trên sự thỏa
hiệp về chính sách giữa các nước thành viên
hay những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt
động được thể hiện bằng ngôn ngữ có thể
tạo ra sự linh hoạt hay thỏa hiệp
Trên thực tế, hai trường hợp hài hòa
hóa pháp luật trong Cộng đồng chung Bắc
Âu và EU không chỉ đã mang lại thành công
khi hạn chế xung đột pháp luật trong khu
vực mà còn giúp các quốc gia trong cộng
đồng chung phát triển bền vững về mọi mặt:
EU, với sự thành công trong quá trình hài
hòa hóa pháp luật đã giúp đạt được mục tiêu:
i) thiết lập một liên minh thuế quan với thuế
suất nội địa chung; ii) kiện toàn các chính
sách chung về nông nghiệp, hàng hải,
thương mại; iii) mở rộng cộng đồng tới các
nước châu Âu còn lại2. Còn đối với Cộng
đồng chung Bắc Âu, các nước Thụy Điển,
Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan hiện cũng
đang phát triển tốt nhất thế giới. Các quốc
gia này luôn ở phía trên bảng xếp hạng của
tất cả mọi thứ, từ cạnh tranh kinh tế, y tế đến
chỉ tiêu về hạnh phúc. Mô hình kinh tế tư
bản Bắc Âu đã thu hút sự chú ý của thế giới3.
Trong thời gian tới, khi Việt Nam
tham gia vào cộng đồng ASEAN, chúng ta
sẽ tiếp tục xây dựng chính sách hài hòa hóa
pháp luật trong khu vực. Việc này sẽ đưa
đến cho Việt Nam các lợi ích sau:
Thứ nhất, về chính trị, hài hòa hóa
pháp luật góp phần vào việc thúc đẩy hợp
tác về mặt chính trị giữa các quốc gia trong
cộng đồng. Bởi, pháp luật là công cụ quản
lý của một nhà nước, khi các công cụ quản
lý đó có sự tương đồng về mặt nội dung sẽ
quyết định đến một số tương đồng trong
chính sách quản lý nhà nước, hạn chế được
xung đột trong các chiến lược quản lý của
các quốc gia. Khi không có sự xung đột giữa
các chính sách quản lý của mỗi một quốc
gia, sẽ góp phần tạo một môi trường hợp tác
chính trị bền vững và thống nhất.
Thứ hai, về kinh tế, hài hòa hóa pháp
luật giữa Việt Nam với các nước thành viên
ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật
thương mại, sẽ góp phần giúp Việt Nam
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Xem thêm tại: vi.wikipedia.org/wiki/cộng-đồng-kinh-tế-châu-âu
3 Xem thêm tại: www.nhipcauwto.com/bắc-âu-mô-hình-kinh-tế-xã-hội-kiểu-mẫu
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú, (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp
luật của khu vực Asean, tlđd, tr. 5.
5 Xem thêm: Trần Thị Diệu Hương (2015), Bàn về Quy định tính hiệu lực của Hiến pháp Việt Nam trong góc nhìn đối
chiếu với Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á, Tạp chí Nghề Luật, số 6/2015, tr. 71.
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường - một
trong ba khâu đột phá chiến lược của chúng
ta hiện nay. Công việc hài hòa hóa này làm
gia tăng tính dự đoán trước và làm giảm tính
không chắc chắn của việc áp dụng pháp luật
Việt Nam. Điều đó đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh và
rủi ro pháp lý ở Việt Nam. Quá trình này
giúp quan hệ kinh tế cũng như quan hệ văn
hóa - xã hội và an ninh quốc phòng của Việt
Nam ngày càng gắn kết với các nước thành
viên khác trong khu vực ASEAN4.
Thứ ba, về pháp luật quốc gia: (i) hài
hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích
lại gần nhau hơn về pháp luật; (ii) đồng thời
giải quyết được tình trạng xung đột pháp luật
giữa các quốc gia; (iii), điều quan trọng nhất,
quá trình hài hòa hóa pháp luật giúp cho các
quốc gia tiếp thu, học hỏi lẫn nhau trong quá
trình lập pháp để hoàn thiện hơn pháp luật
của quốc gia mình. Đặc biệt với Việt Nam,
một quốc gia đang phát triển, pháp luật cũng
đang ngày một hoàn thiện để phù hợp với bối
cảnh kinh tế, chính trị đang thay đổi hiện nay,
nên việc tham gia vào cộng đồng chung
ASEAN và tham gia vào tiến trình hài hóa
hóa pháp luật giữa các quốc gia trong khu
vực sẽ giúp Việt Nam có một cái nhìn tổng
thể về bức tranh pháp luật các quốc gia trong
khu vực, giúp cho việc tiếp thu có chọn lọc
những giá trị pháp lý của những quốc gia có
hệ thống pháp luật tiến bộ, tiến tới hoàn thiện
hơn pháp luật của quốc gia.
2. Khó khăn đối với Việt Nam trong quá
trình hài hòa hóa pháp luật
2.1 Khó khăn từ bên ngoài
Thứ nhất, mặc dù các quốc gia
ASEAN đang quyết tâm xây dựng một cộng
đồng kinh tế chung, đồng thời cũng tiến tới
hài hòa hóa pháp luật với chủ trương xây
dựng một hệ thống pháp luật chung, thống
nhất giữa các quốc gia trong khu vực, nhưng
một khó khăn đặt ra đối với cộng đồng
ASEAN hiện nay là pháp luật quốc gia, từ
hiến pháp đến các văn bản luật đều khác
nhau giữa các nước. Điều này sẽ gây ra
nhiều khó khăn đối với Việt Nam nói riêng
và với cộng đồng ASEAN nói chung trong
việc xây dựng một luật chung thống nhất. Ví
dụ, nghiên cứu về Quy định tính hiệu lực
trong Hiến pháp các quốc gia ASEAN cho
thấy, hoàn toàn không có sự thống nhất giữa
các quốc gia trong việc quy định tính hiệu
lực của Hiến pháp. Ở góc độ chung, dựa trên
sự đáp ứng các tiêu chí đảm bảo tính tối cao
của Hiến pháp, như khẳng định Hiến pháp
là đạo luật pháp lý cao nhất; quy định mọi
cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức đều phải
tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp; quy định bất
kỳ văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp
đều phải bị bãi bỏ hoặc không có hiệu lực
thi hành, thì Hiến pháp các nước ASEAN có
thể chia thành 3 nhóm: Nhóm 1, Các bản
Hiến pháp trực tiếp quy định tính hiệu lực
tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp
Liên bang Malaysia, Vương quốc Thái Lan
và Cộng hòa Singapore; Nhóm 2, Các bản
Hiến pháp gián tiếp quy định tính hiệu lực
tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp
các quốc gia như Cộng hòa Indonesia và
Cộng hòa Philippines); Nhóm 3, Các bản
Hiến pháp ghi nhận không rõ ràng về tính
hiệu lực của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp
các quốc gia: Vương quốc Brunei; Cộng hòa
Liên bang Myanmar; Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào và Hiến pháp Vương quốc
Campuchia)5.
Thứ hai, mặc dù nội bộ ASEAN đã có
các cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng chưa
được áp dụng một cách hiệu quả. Theo quy
định tại Hiến chương ASEAN 2007, các tổ
chức và cơ chế của ASEAN gồm Hội đồng
thượng đỉnh ASEAN; Hội đồng điều phối
ASEAN (ACC); Hội đồng về cộng đồng
ASEAN; Các cuộc họp cấp Bộ trưởng
ASEAN; Uỷ ban đại diện thường trực của
ASEAN; Tổng thư ký và Ban thư ký của
ASEAN. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh
chấp chủ yếu thông qua đối thoại, đàm phán
và tham vấn, bên cạnh đó, biện pháp hòa
giải hoặc trung gian là cơ chế thường được
lựa chọn áp dụng. Trên thực tế, các tổ chức
của ASEAN trong vấn đề giải quyết tranh
chấp chưa phát huy hiệu quả vai trò của
mình.
Nhìn chung, việc áp dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của ASEAN trong thực tế
để giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa các
quốc gia thành viên ngày càng khiêm tốn.
Ngoài lý do xuất phát từ truyền thống văn
hóa pháp luật Đông Nam Á thì một trong
những nguyên nhân của tình trạng này có
thể do một số bất cập chính của cơ chế giải
quyết tranh chấp. Ví dụ như quy trình giải
quyết tranh chấp thương mại (theo Nghị
định thư Viên Chăn năm 2004) bị đánh giá
là chưa đảm bảo tính minh bạch, thời gian
quá dài; ngoài ra, pháp luật về giải quyết
tranh chấp của ASEAN luôn tôn trọng tự do
thỏa thuận. Vì vậy, việc sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của ASEAN không phải là
nghĩa vụ và là lựa chọn duy nhất của các
quốc gia thành viên6.
Thứ ba, cộng đồng ASEAN chưa có
một hệ thống các thiết chế xây dựng các quy
định pháp lý cho cộng đồng như Liên minh
châu Âu (gồm: Nghị viện EU, Hội đồng EU
và Ủy ban châu Âu). Hiện nay, trong 209
công cụ pháp lý của ASEAN, có 147 công
cụ đã có hiệu lực, 21 chưa có hiệu lực, 39 bị
bãi bỏ hoặc hết hiệu lực pháp luật. Trong đó,
mỗi Hội đồng của cộng đồng ASEAN và các
cơ quan cấp Bộ trưởng, các cơ quan giúp
việc đang hoàn thiện các cơ chế pháp lý của
ASEAN theo lĩnh vực mà họ phụ trách7.
2.2 Khó khăn từ bên trong
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện hành đang có nhiều hạn chế: thiếu
cụ thể, rõ ràng; trùng lặp, chồng chéo, thậm
chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu
tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy
phạm còn yếu. Một thời gian dài, công tác
rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật chưa được chú trọng, do đó, đang
có tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn
hiệu lực, văn bản nào hết hiệu lực. Hệ thống
pháp luật như vậy sẽ gây khó khăn trong
việc hài hòa hóa pháp luật với các quốc gia
khác trong khu vực. Trong Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020
đã đặt ra yêu cầu “xác định rõ quy trình, cơ
chế “nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên”. Tuy nhiên, Luật
Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế năm 2005, cũng như trong Dự thảo mới
nhất hiện nay khi sửa đổi Luật này đang xảy
ra hai tình trạng: (i) một số quy định về trình
tự, danh nghĩa ký kết điều ước quốc tế chưa
phù hợp với Hiến pháp năm 2013; (ii) vị trí
của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005 chưa được thể hiện
rõ trong thứ tự các nguồn của hệ thống pháp
luật Việt Nam8.
Thứ hai, địa vị pháp lý của Việt Nam
trên trường quốc tế chưa cao, nên trong quá
trình hài hòa hóa pháp luật, chúng ta khó có
thể bảo vệ được quan điểm của mình trong
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Xem thêm: Đỗ Mạnh Hồng, Chương 6 (2014), Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 382 và tr. 383.
7 Xem thêm: Cộng đồng theo nguyên tắc pháp quyền (2015), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa hóa pháp luật trong xây
dựng cộng đồng ASEAN những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr. 4 và tr .5.
8 Xem thêm: Điều 6 Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
việc thống nhất các mục tiêu chung cần đạt
được với các quốc gia trong khu vực để
hoàn thiện pháp luật phù hợp với những mục
tiêu chung nói riêng và đạt kết quả cao trong
quá trình hài hòa hóa pháp luật trong cộng
đồng ASEAN nói chung. Quan trọng hơn,
năng lực cán bộ, chuyên gia nghiên cứu, xây
dựng pháp luật của chúng ta còn thiếu và
yếu, chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ,
toàn diện các luật mẫu, các chuẩn mực pháp
lý chung có liên quan. Điều này dẫn đến
thực tế là việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc
tế liên quan trong quá trình xây dựng luật,
pháp lệnh đa phần mang tính hình thức9.
Thứ ba, một trong những khó khăn
nhất là vấn đề ý thức chấp hành pháp luật
của người dân, của các cơ quan, tổ chức. Có
thể nói, phần lớn người dân Việt Nam vẫn
thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh
lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình
phạt, là trừng trị Một số người khác thì
cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các
tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm
tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào
tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm
hại dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh
chấp, bị phạt, bị cưỡng chế)10. Với quan
niệm và ý thức chấp hành pháp luật như vậy,
sẽ khó có thể triển khai thực hiện luật chung
của khu vực trên thực tế đối với Việt Nam.
Điều này sẽ là mối lo ngại lớn khi Việt Nam
hài hòa hóa với pháp luật các quốc gia trong
khu vực.
3. Kiến nghị định hướng cho pháp luật
Việt Nam trong quá trình hài hòa hóa
pháp luật ASEAN
Có thể khẳng định, hài hòa hóa pháp
luật trong cộng đồng chung ASEAN không
chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho các quốc gia
trong khu vực xích lại gần nhau hơn về kinh
tế, chính trị và pháp luật, mà còn giúp cho
các quốc gia thành viên trong cộng đồng
chung thể hiện được tiếng nói của mình
trước cộng đồng chung để tiến tới xây dựng
một đất nước, một cộng đồng phát triển. Do
đó, trong quá trình tiến tới hài hòa hóa pháp
luật ASEAN, Việt Nam cần phải tích cực,
chủ động hơn trong quá trình này. Cụ thể:
Định hướng bên ngoài
Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực
cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo
hướng tương đồng và phù hợp với pháp luật
lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan
trọng nhất là hài hòa về các quy định trong
Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì
Hiến pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị
pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ
dàng sửa đổi luật thực định theo hướng hài
hòa pháp luật lẫn nhau.
Thứ hai, cần phát huy hiệu quả, vai trò
của các tổ chức ASEAN trong việc giải
quyết tranh chấp, đặc biệt là tăng cường hơn
nữa vai trò của Ban thư ký ASEAN. Trong
thời gian tới, cần thành lập nhóm cấp cao
ASEAN để hoạt động sát sao hơn trong
cộng đồng ASEAN và trao cho nhóm này
chức năng chủ yếu về chính trị và yếu tố
pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng
tháng để trao đổi về vấn đề hợp tác sau năm
2015 của cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố
chính trị sẽ giúp các quốc gia trong khu vực
hợp tác một cách hòa bình, ổn định, còn yếu
tố pháp luật là công cụ pháp lý mang đến
yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa
các quốc gia trong cùng một cộng đồng.
Duy trì được hai yếu tố này sẽ giúp chúng
ta xây dựng được một cồng đồng chung
ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt.
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9 Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa hóa
pháp luật của khu vực ASEAN, tlđd.
10 Xem thêm: Nguyễn Tất Viễn (2014), Một số biện pháp tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp.
(Xem tiÕp trang 36)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_van_de_dat_ra_doi_voi_viet_nam_trong_tien_trinh_hai_ho.pdf